Tử vi

3 bài viết về cách xem vận trong tử vi của AlexPhong

Bài 1: Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Bạn đang xem: 3 bài viết về cách xem vận trong tử vi của AlexPhong

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Bài 2: Xem vận bằng phương pháp nào thì cũng phải tuân theo tam tài: thiên địa nhân. Có nghĩa là phải công nhận rằng không có một yếu tố nào thay mặt được cho tất cả. Thiên phải làm việc của thiên, Địa và Nhân cũng phải tự đóng vai trò của mình, không nhờ ai được.

Năm tháng ngày giờ, thì năm là hàng thiên, tháng là hàng địa, ngày là hàng nhân. Giờ là hàng thiên lớp kế tiếp tức Hậu Thiên, trong khi năm là Tiên Thiên.

Nam phái xem vận dùng nhiều yếu tố như: đại vận, tiểu vận, lưu niên đại vận (LNĐV) và các sao lưu. Các sao lưu thuộc về Tuế, yếu tố khách quan tự nhiên, tồn tại độc lập với cấu trúc nội tại của lá số. Trong khi Vận, sinh ra từ nội hàm lá số. Tuế như hoàn cảnh, Vận như con người.

Theo thuyết tam tài nói trên, để định vị được một giá trị trong lá số, cần có ít nhất ba yếu tố độc lập. Nam phái có ba chữ vận: đại vận, tiểu vận, và LNĐV. Đại vận chủ Thiên, là gốc của sự việc, chủ sự lâu dài trong một giáp (10 năm). Tiểu vận chủ Địa, chủ quá trình của sự việc giống như quẻ Hỗ của bói Dịch. LNĐV chủ Nhân, cho biết kết quả của sự việc thành bại nặng nhẹ ra sao.

Tiểu vận là Địa, cho nên thường gắn với các tính từ mô tả như cát hung thuận lợi hay trắc trở. Cả quá trình từ nguyên nhân đến kết quả cho biết đầy đủ thông tin. Nhưng người đời thích chích kim thấy máu, chỉ quan tâm tới kết quả.

Muốn biết cuối cùng có cưới hay không, chứ không cần biết quá trình như nào. Nếu áp cách nhận định đó vào tam vận của tử vi thì khó tránh khỏi sai lầm. Cái kết quả nhân gian mong đợi phải rút ra từ cả ba vận.

Lấy ví dụ bằng quẻ Dịch cho dễ hiểu. Ví dụ: Truân biến thành Kí Tế, nghĩa là ban đầu khó khăn, rồi sau vượt qua. Tổng quát: vượt qua khó khăn. Nhưng Cách biến thành Kí Tế, lại có nghĩa là từ sự thay đổi ban đầu mà rồi thành công. Chẳng có khó khăn cái gì đây cả, đều do khi ghép với quẻ gốc mà sai khác ý nghĩa.

Cũng như vậy, khi LNĐV cho biết thông đắc lộc. Nhưng đại vận cho thấy sự bất ổn, không thực, hoặc ám muội, thì sự đắc lộc của LNĐV coi chừng chỉ như hoa nở cành khô. Ba bảy hai mốt ngày về với gió.

Bài 3: Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

(Ghi chép lại kinh nghiệm của anh AlexPhong)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm 3 bài viết về cách xem vận trong tử vi của AlexPhong

Bài 1: Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Bài 2: Xem vận bằng phương pháp nào thì cũng phải tuân theo tam tài: thiên địa nhân. Có nghĩa là phải công nhận rằng không có một yếu tố nào thay mặt được cho tất cả. Thiên phải làm việc của thiên, Địa và Nhân cũng phải tự đóng vai trò của mình, không nhờ ai được.

Năm tháng ngày giờ, thì năm là hàng thiên, tháng là hàng địa, ngày là hàng nhân. Giờ là hàng thiên lớp kế tiếp tức Hậu Thiên, trong khi năm là Tiên Thiên.

Nam phái xem vận dùng nhiều yếu tố như: đại vận, tiểu vận, lưu niên đại vận (LNĐV) và các sao lưu. Các sao lưu thuộc về Tuế, yếu tố khách quan tự nhiên, tồn tại độc lập với cấu trúc nội tại của lá số. Trong khi Vận, sinh ra từ nội hàm lá số. Tuế như hoàn cảnh, Vận như con người.

Theo thuyết tam tài nói trên, để định vị được một giá trị trong lá số, cần có ít nhất ba yếu tố độc lập. Nam phái có ba chữ vận: đại vận, tiểu vận, và LNĐV. Đại vận chủ Thiên, là gốc của sự việc, chủ sự lâu dài trong một giáp (10 năm). Tiểu vận chủ Địa, chủ quá trình của sự việc giống như quẻ Hỗ của bói Dịch. LNĐV chủ Nhân, cho biết kết quả của sự việc thành bại nặng nhẹ ra sao.

Tiểu vận là Địa, cho nên thường gắn với các tính từ mô tả như cát hung thuận lợi hay trắc trở. Cả quá trình từ nguyên nhân đến kết quả cho biết đầy đủ thông tin. Nhưng người đời thích chích kim thấy máu, chỉ quan tâm tới kết quả.

Muốn biết cuối cùng có cưới hay không, chứ không cần biết quá trình như nào. Nếu áp cách nhận định đó vào tam vận của tử vi thì khó tránh khỏi sai lầm. Cái kết quả nhân gian mong đợi phải rút ra từ cả ba vận.

Lấy ví dụ bằng quẻ Dịch cho dễ hiểu. Ví dụ: Truân biến thành Kí Tế, nghĩa là ban đầu khó khăn, rồi sau vượt qua. Tổng quát: vượt qua khó khăn. Nhưng Cách biến thành Kí Tế, lại có nghĩa là từ sự thay đổi ban đầu mà rồi thành công. Chẳng có khó khăn cái gì đây cả, đều do khi ghép với quẻ gốc mà sai khác ý nghĩa.

Cũng như vậy, khi LNĐV cho biết thông đắc lộc. Nhưng đại vận cho thấy sự bất ổn, không thực, hoặc ám muội, thì sự đắc lộc của LNĐV coi chừng chỉ như hoa nở cành khô. Ba bảy hai mốt ngày về với gió.

Bài 3: Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

(Ghi chép lại kinh nghiệm của anh AlexPhong)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button