Tử vi

Bàn luận tử vi về cách cục nhập Mệnh Thân

Phần trao đổi bàn luận về cách cục tử vi người viết giản lược một số phần bàn luận để ngắn gọn hơn. Với tam hóa nên bỏ những kiến chấp về Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt, Tả Hữu. Như so sánh bố cục tam hóa như sau. Mệnh cách có Thái Âm ngộ Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc hội mệnh. Mệnh cách thứ hai Thái Âm ngộ Hình Kỵ Kiếp Khốc Linh Quyền Ấn nhập vòng Trường Sinh. Lá số thứ nhất mệnh tạo yểu mệnh, có vài lá số vẫn có cách cục khá tốt, thành đạt, nhưng mệnh không tạo nên thành tựu đột biến lớn. Lá số thứ hai tuy tính cách sát phạt, táo bạo, âm quyền thành tựu phát đại quý, giữ chức vị rất cao trong quốc gia. Lá số thứ nhất sinh trưởng tốt, được nuôi dưỡng, giáo dục tốt, cuộc sống ổn định. Mệnh tạo tới trung niên thì phát. Lá số thứ hai sinh trưởng bần tiện, thuê mướn, không có học vấn, tuy nhiên tham vọng rất lớn, bản tính khác biệt với cùng lứa, ưa sát phạt, thâm trầm, vượt qua nhiều giai đoạn bế tắc, khó khăn. Trung niên hoạch phát khi nhập vận tam hợp Mệnh. Một điểm quan trọng khi nhìn mệnh cách của tử vi đông a là nhìn vào khí hóa của Sát, nếu cường vượng, mệnh tạo đảm nhiệm và dẫn hóa được. Sát cách có đặc điểm phối hợp ngũ hành, Hỏa Kim là gốc. Nhìn vào bởi phát xung lực. Mệnh tạo với tham vọng lớn, hành động thể hiện quyết tâm không dời là phát Kim sáng. Mệnh tạo nhiệt huyết, táo bạo với tham vọng là Hỏa sáng. Mệnh tạo liên tục bám nắm, không thay đổi với tham vọng nhưng linh hoạt với hành động là Thủy sáng. Trong bế tắc không tuyệt vọng, đâm gốc rễ sâu vững chắc, hướng tới phát triển liên tục là Mộc sáng. Ổn trọng, giữ vững không để những tính cách vượt qua kiểm soát, là Thổ sáng. Chữ sáng ở đây là hợp, hữu tính, chế hóa thành cách. 

Ngũ hành khi người nghiên cứu hiểu nhầm với tên gọi. Vạn vật từ vô tình tới vật có sinh mạng đều chịu tác động bởi các quy luật, không thể nằm ngoài các quy luật này. Vạn vật đều có các thuộc tính Âm Dương và phân Ngũ Hành tác động, nằm sâu trong tính chất. Ở đây Thủy ở cách dùng vật diễn giải, chỉ đặc tính chuyển dịch, linh động, lấy tên làm tượng, không phải mang ý nghĩa là nước. Do bản tính nằm trong Ngũ Hành nên giản đơn lấy Tử Bình chỉ gồm Vòng Trường Sinh, Âm Dương, Ngũ Hành biến dịch luận mệnh thọ yểu. Vạn vật luôn biến động, đây là lý thứ nhất là quan trọng nhất, thâu suốt. Vạn vật phân làm Âm Dương là lý thứ hai. Vạn vật đều có thịnh suy, vượng tuyệt là lý thứ ba. Vạn vật khi biến động sinh ra các tính chất, đó là Ngũ Hành là lý thứ tư. Cũng như phương tây, nghiệm lý bởi khoa học thiết bị hiện đại không nằm ngoài sự thực. Thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm nắm được diệu dụng của Thái Ất Thần thư mà dự đoán được vận nước. Về lý toán mệnh, luận ở thế vận động, kết quả của biến động lý Âm Dương Ngũ Hành dụng y học hay các môn khác không phải thua kém hoàn toàn với Phương Tây. Do cùng lấy nguyên lý xuất phát từ quy luật chung vạn vật. Như trong một cộng đồng, một tập thể kẻ nổi trội là đứng đầu. Sức vượt trội trong quần chúng, là sự khác thường. Kết hợp từ Ngũ Hành thiên lệch. Do bất bình thường nên hợp hóa hữu tình là mệnh quý, bất bình thường nhưng hợp hóa vô tình là tuyệt mạng. Đó là tính quân bình. Các tính chất sao trong Tử Vi không nằm ngoài vậy. Vòng Lộc Tồn tác động rất lớn không nằm ngoài vị trí Lâm Quan vượng khí của vòng Trường Sinh bởi Thiên Can lưu trên vòng Địa Chi. Có một phần người viết đưa ra thường gặp phản đối, thực lấy ngũ hành để phân tính cách, bản tính mệnh tạo tức quy về bản thể chung là điểm nên dụng trong tử vi, cũng là cách phân loại tránh rối loạn của Tử Vi Đông A. 

Tuy nhiên người nghiên cứu thường nói rằng việc này gán ghép vô tình giữa Tử Bình và Tử Vi. Thực hai môn này không khác nguồn gốc. Lý đơn giản chỉ lấy ngày tạo sinh, hấp thụ khí, khai tạo như việc thời điểm khai tạo một tổ chức, xuất hiện lý nhân duyên. Lý nhân duyên sinh ra do biến động của vạn vật. Rồi lấy Khoa Quyền Lộc Kỵ gán cho tứ mùa Xuân Hạ Thu Đông là lấy xuôi bẻ xuôi, không đi ngược lên nguồn gốc. Tứ thời gồm 4 mùa cũng chỉ là sự biến hóa của Ngũ Hành. Ở những nơi không có bốn mùa này lẽ nào không có mệnh lý. Thấy tương đồng nhưng không ngộ nhận. Khi luận có người luận Tứ Trụ lấy khí

Bạn đang xem: Bàn luận tử vi về cách cục nhập Mệnh Thân

Sự diệu dụng của các môn Toán mệnh nằm ở sự khởi tạo tương liên giữa Thiên Văn và khai tạo ra bản thể một mệnh tạo. Sự khai tạo của một bản thể cũng như sự khai sinh một tổ chức, một vận đều liên quan tới trời đất. Cổ nhân dụng Thiên Văn phối hợp định cách rõ được thời gian liên quan tới hành khí của Ngũ Hành là Lục Thập Hoa Giáp từ một điểm truy được toàn bộ các năm khác theo Can Chi, tới ngày nay cũng vậy. Đó là mối tương quan đầu tiên của thời gian kiến với Âm Dương Ngũ Hành, mối quan hệ mà Phương Tây không nhìn ra, cũng không quan tâm nhiều do sự phát triển lịch sử. Phương Tây thường hướng tới bên ngoài trợ lực, phương tiện tạo ra. Sau đó hướng tới định cách bởi vạn vật đều chịu tác động của Âm Dương Ngũ Hành, khi khởi tạo truy nguồn gốc của hành khí theo quy luật thì ra được Mệnh Lý. Do đó lá số tử vi là một tờ giấy ghi trước số mệnh, tuy nhiên nhìn cuộc đời khi tới mệnh vong bởi Tuyệt cách thực chẳng sai lầm, đại vận hoạch phát hay bệnh tật cũng vậy. Người đời sau khi nghiên cứu về mệnh lý do không có tài liệu, kinh sách không còn nhiều người rõ được nên khi luận nắm đuôi không nắm đầu nên có phần thiếu sót. Cũng không biết rõ khi biến động mạnh bởi dòng khí điểm thì mệnh tạo mỗi người thực chẳng có ý nghĩa so với tác hóa của Thiên Địa lớn hơn ta, theo thứ tự là làng, nước, thiên hạ, thiên địa. 

Một cơn sóng thần hay nổ bom nguyên tử khiến số mệnh bản thể không còn mang ý nghĩa. Trong chiến loạn cũng vậy. Lá số tử vi mỗi người là bản tính, sự biến động của ngũ hành tới bản tính, ai cũng có số mệnh nên đồng khí tương liên, dẫn tới diệu dụng khi toán mệnh. Xét về khảo cứu khoa học hiện đại của Phương Tây rất đột phá. Tuy nhiên kiến thức của chúng ta cũng rất uyên thâm, rất nhiều điểm khiến họ nể phục. Bản chất vạn vật không có Thiện Ác. Chỉ tư tưởng mỗi người khác nhau phân Thiện Ác. Vật ta thích thì sợ hãi khi thấy chữ Diệt, vật ta ghét thì sợ hãi khi thấy chữ Sinh. Cổ nhân luận rằng nếu ta không có suy nghĩ của con người thì đã có thể nắm được lý của trời đất. Trạng thái Không chỉ là một trạng thái không bất biến của vạn vật. Tư tưởng của ta nhận lầm về tính cố định. Bản thân hôm qua tới hôm nay như không khác biệt. Nhưng nếu gặp một biến cố lớn thay đổi hoàn toàn nhận thức trong một khắc thì tâm nhận biết rõ về thay đổi thành người khác. Ta thường chấp vật tại một thời điểm là bất biến. Khi nhìn vạn vật không nhìn sinh diệt, vì thực không có sinh diệt, do nhận thức sai biệt mà ra sinh diệt. Không có vật bất biến. Cổ nhân luận vật qua ba trạng thái. Trong đó có trạng thái Không cũng chỉ mang tính tạm thời. Khi thực lý bởi dịch lý uyên thâm, cố nhận định ra toàn cục về y lý dụng âm dương ngũ hành chữa bệnh khi không phát triển như tây y với phẫu thuật bên trong. Thứ hướng tìm tới bản nguyên nguồn gốc trong nội tâm. Sinh được các kinh thư cổ qua nhiều giai đoạn biến cố thời gian thực đã gần như thất truyền. Trong đó có phần định về Không cách rõ, thì mệnh lý được rõ. Trong cuộc sống, nhiều thời gian bản thân mỗi người rơi vào trạng thái Không, tức không nhận thức. Mắt đôi khi nhìn nhưng không thấy. Tai nghe không nghe. Đứng ở một vị trí nhưng không biết. Đó là ứng hợp đặc tính của Không. Tất cả đều sợ một điều là. Cái chết. Tất cả hoàn Không khi chết. Do nhầm lẫn về Sinh Diệt. Tất cả đều rõ khi chết vạn vật không biết, không nghe, không thấy, không nhận thức. Những việc về linh hồn hay cõi âm đều do tưởng tượng ra về một thế giới tốt đẹp hơn. Do sợ chữ Không và tư tưởng luận nhầm lẫn bởi Sinh Diệt mà không rõ là thực không có Sinh Diệt mà chỉ có biến đổi. Ta thở một cách đều đặn từ sinh ra tới khi chết, phần lớn ta không biết. Các nội tạng, ta không cảm nhận được từng nội tạng của ta. Khi bị biến đổi cơ thể ung thư nguy hiểm, ta không nhận thấy. Lời nói vừa ra khỏi miệng, không nhớ rõ. Hôm qua làm việc nọ, nhớ chưa làm. Khi sợ hãi về Không cách thì ngay việc giác quan không hoàn chỉnh, bám nắm lấy. Tiền nhân để lại hậu thế tri kiến uyên thâm khi tuổi cao. Khi già, sáng làm, trưa quên. Mắt thấy không còn rõ như xưa, không sợ hãi, hoảng loạn. Tai chuẩn bị điếc, không sợ hãi, hoảng loạn, Làm nhớ chưa làm, không sợ hãi, hoảng loạn, quên gần hết chuyện xưa kia, không sợ hãi, hoảng loạn. Tới gần chết, mắt không còn nhìn thấy, không sợ hãi cố chấp. Cuộc đời theo quá trình thì không sợ hãi. Nếu biến đổi ngay tức khắc từ trẻ tới già thì hoảng loạn. Sinh Lão Bệnh Tử một người, nằm trong quy luật tức Sinh Vượng Tuyệt Không. Vạn vật không nầm ngoài quy luật. Cũng vì quy luật đúng vạn vật tới mức không sai sót. Nên mệnh lý và huyền học phương Đông rõ hơn về chữ Tử. 

Do Không cách mang tính tạm thời. Thực tế khi mỗi người sống. Đôi khi tâm tách khỏi thân, còn sự thực không làm chủ hoàn toàn với thân tức cơ thể như ở trên. Do vậy, Tâm tức Mệnh và Thân tức cung an Thân. Hiện nay người luận tử vi thường chỉ nhìn Mệnh và Thân không rõ lý tiền nhân để lại sau này. Chỗ quy về đại ngã với quan niệm một số tôn giáo do nhìn nhận về Không cách. Mệnh sinh khởi trước Thân, là nguồn của Thân, tuy nhiên về sau phụ thuộc song hành với Thân. Đây là cách khởi nguyên định của Mệnh Thân. Thân sinh khởi do Mệnh mà có. Sau này hỗ hoán tác động lẫn nhau. Do Thân khởi từ Mệnh khi ứng hợp bên ngoài, tức với vật chất, nên Mệnh không làm chủ hoàn toàn Thân. Nơi này thì phát triển như vậy, ở nơi khác phát triển khác. Thân là phần ngoài ứng hợp, Mệnh là phần trong. Tử Vi hay các môn toán mệnh chỉ là một phần nhỏ trong trí uyên thâm của cổ nhân, chỉ đáng tiếc là man thư nhiều nhưng kinh thư ẩn không có duyên không gặp. Ta nhìn sợ hãi chữ Không. Do đó không rõ Không cách. Tâm khi chết quy về Không. Cũng như trong suốt thời gian sống, tức biến đổi liên tục bản thân mỗi người đã trải qua trạng thái này. Sau đó sẽ khởi nhập vòng Trường Sinh do tính quy luật của vòng Trường Sinh tác động vạn vật, không có ngoại biệt. Do khởi biệt như vậy, sinh ra các việc luận đoán về quá trình của khởi phát tiếp theo. Sinh ra nhiều thuyết về sinh tử hồn phách đầu thai. Trong cuộc sống, khi trạng thái Không xuất hiện, các hoạt động vẫn diễn ra bởi ngũ hành luôn biến động, Thân là ngũ hành nên các hành vi vẫn vô thức diễn ra. Do đó khi tuyệt mạng các hành tức hành vi vẫn vô thức diễn ra tới khi biến đổi khỏi trạng thái Không, khởi tạo được vòng Trường Sinh. Bản thể ta hay thế giới vẫn tuân theo các quy luật trời đất như vậy. Tức Nam và Nữ, Chính và Tà, Thiện và Ác cũng vậy, len lỏi qua từng vật, từng quá trình nhỏ nhất. Người thường nhầm lẫn vật hữu tình, vật sống do hoạt động nên không chịu tác động của nguyên tắc trên. Lại phân định nên sai lầm. Người viết luận cho học trò sâu hơn một chút về định cách. Thực tế người xem tử vi cũng không cần rõ về nguyên lý của Mệnh Thân. Khi luận cần thiết nghiên cứu rõ về tính chất của cách cục và phối hợp cách khi luận mệnh vận là đủ để có thể tự luận tử vi cho bản thân. 

(Dẫn theo trang www.luantuvi.vn)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Bàn luận tử vi về cách cục nhập Mệnh Thân

Phần trao đổi bàn luận về cách cục tử vi người viết giản lược một số phần bàn luận để ngắn gọn hơn. Với tam hóa nên bỏ những kiến chấp về Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt, Tả Hữu. Như so sánh bố cục tam hóa như sau. Mệnh cách có Thái Âm ngộ Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc hội mệnh. Mệnh cách thứ hai Thái Âm ngộ Hình Kỵ Kiếp Khốc Linh Quyền Ấn nhập vòng Trường Sinh. Lá số thứ nhất mệnh tạo yểu mệnh, có vài lá số vẫn có cách cục khá tốt, thành đạt, nhưng mệnh không tạo nên thành tựu đột biến lớn. Lá số thứ hai tuy tính cách sát phạt, táo bạo, âm quyền thành tựu phát đại quý, giữ chức vị rất cao trong quốc gia. Lá số thứ nhất sinh trưởng tốt, được nuôi dưỡng, giáo dục tốt, cuộc sống ổn định. Mệnh tạo tới trung niên thì phát. Lá số thứ hai sinh trưởng bần tiện, thuê mướn, không có học vấn, tuy nhiên tham vọng rất lớn, bản tính khác biệt với cùng lứa, ưa sát phạt, thâm trầm, vượt qua nhiều giai đoạn bế tắc, khó khăn. Trung niên hoạch phát khi nhập vận tam hợp Mệnh. Một điểm quan trọng khi nhìn mệnh cách của tử vi đông a là nhìn vào khí hóa của Sát, nếu cường vượng, mệnh tạo đảm nhiệm và dẫn hóa được. Sát cách có đặc điểm phối hợp ngũ hành, Hỏa Kim là gốc. Nhìn vào bởi phát xung lực. Mệnh tạo với tham vọng lớn, hành động thể hiện quyết tâm không dời là phát Kim sáng. Mệnh tạo nhiệt huyết, táo bạo với tham vọng là Hỏa sáng. Mệnh tạo liên tục bám nắm, không thay đổi với tham vọng nhưng linh hoạt với hành động là Thủy sáng. Trong bế tắc không tuyệt vọng, đâm gốc rễ sâu vững chắc, hướng tới phát triển liên tục là Mộc sáng. Ổn trọng, giữ vững không để những tính cách vượt qua kiểm soát, là Thổ sáng. Chữ sáng ở đây là hợp, hữu tính, chế hóa thành cách. 

Ngũ hành khi người nghiên cứu hiểu nhầm với tên gọi. Vạn vật từ vô tình tới vật có sinh mạng đều chịu tác động bởi các quy luật, không thể nằm ngoài các quy luật này. Vạn vật đều có các thuộc tính Âm Dương và phân Ngũ Hành tác động, nằm sâu trong tính chất. Ở đây Thủy ở cách dùng vật diễn giải, chỉ đặc tính chuyển dịch, linh động, lấy tên làm tượng, không phải mang ý nghĩa là nước. Do bản tính nằm trong Ngũ Hành nên giản đơn lấy Tử Bình chỉ gồm Vòng Trường Sinh, Âm Dương, Ngũ Hành biến dịch luận mệnh thọ yểu. Vạn vật luôn biến động, đây là lý thứ nhất là quan trọng nhất, thâu suốt. Vạn vật phân làm Âm Dương là lý thứ hai. Vạn vật đều có thịnh suy, vượng tuyệt là lý thứ ba. Vạn vật khi biến động sinh ra các tính chất, đó là Ngũ Hành là lý thứ tư. Cũng như phương tây, nghiệm lý bởi khoa học thiết bị hiện đại không nằm ngoài sự thực. Thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm nắm được diệu dụng của Thái Ất Thần thư mà dự đoán được vận nước. Về lý toán mệnh, luận ở thế vận động, kết quả của biến động lý Âm Dương Ngũ Hành dụng y học hay các môn khác không phải thua kém hoàn toàn với Phương Tây. Do cùng lấy nguyên lý xuất phát từ quy luật chung vạn vật. Như trong một cộng đồng, một tập thể kẻ nổi trội là đứng đầu. Sức vượt trội trong quần chúng, là sự khác thường. Kết hợp từ Ngũ Hành thiên lệch. Do bất bình thường nên hợp hóa hữu tình là mệnh quý, bất bình thường nhưng hợp hóa vô tình là tuyệt mạng. Đó là tính quân bình. Các tính chất sao trong Tử Vi không nằm ngoài vậy. Vòng Lộc Tồn tác động rất lớn không nằm ngoài vị trí Lâm Quan vượng khí của vòng Trường Sinh bởi Thiên Can lưu trên vòng Địa Chi. Có một phần người viết đưa ra thường gặp phản đối, thực lấy ngũ hành để phân tính cách, bản tính mệnh tạo tức quy về bản thể chung là điểm nên dụng trong tử vi, cũng là cách phân loại tránh rối loạn của Tử Vi Đông A. 

Tuy nhiên người nghiên cứu thường nói rằng việc này gán ghép vô tình giữa Tử Bình và Tử Vi. Thực hai môn này không khác nguồn gốc. Lý đơn giản chỉ lấy ngày tạo sinh, hấp thụ khí, khai tạo như việc thời điểm khai tạo một tổ chức, xuất hiện lý nhân duyên. Lý nhân duyên sinh ra do biến động của vạn vật. Rồi lấy Khoa Quyền Lộc Kỵ gán cho tứ mùa Xuân Hạ Thu Đông là lấy xuôi bẻ xuôi, không đi ngược lên nguồn gốc. Tứ thời gồm 4 mùa cũng chỉ là sự biến hóa của Ngũ Hành. Ở những nơi không có bốn mùa này lẽ nào không có mệnh lý. Thấy tương đồng nhưng không ngộ nhận. Khi luận có người luận Tứ Trụ lấy khí

Sự diệu dụng của các môn Toán mệnh nằm ở sự khởi tạo tương liên giữa Thiên Văn và khai tạo ra bản thể một mệnh tạo. Sự khai tạo của một bản thể cũng như sự khai sinh một tổ chức, một vận đều liên quan tới trời đất. Cổ nhân dụng Thiên Văn phối hợp định cách rõ được thời gian liên quan tới hành khí của Ngũ Hành là Lục Thập Hoa Giáp từ một điểm truy được toàn bộ các năm khác theo Can Chi, tới ngày nay cũng vậy. Đó là mối tương quan đầu tiên của thời gian kiến với Âm Dương Ngũ Hành, mối quan hệ mà Phương Tây không nhìn ra, cũng không quan tâm nhiều do sự phát triển lịch sử. Phương Tây thường hướng tới bên ngoài trợ lực, phương tiện tạo ra. Sau đó hướng tới định cách bởi vạn vật đều chịu tác động của Âm Dương Ngũ Hành, khi khởi tạo truy nguồn gốc của hành khí theo quy luật thì ra được Mệnh Lý. Do đó lá số tử vi là một tờ giấy ghi trước số mệnh, tuy nhiên nhìn cuộc đời khi tới mệnh vong bởi Tuyệt cách thực chẳng sai lầm, đại vận hoạch phát hay bệnh tật cũng vậy. Người đời sau khi nghiên cứu về mệnh lý do không có tài liệu, kinh sách không còn nhiều người rõ được nên khi luận nắm đuôi không nắm đầu nên có phần thiếu sót. Cũng không biết rõ khi biến động mạnh bởi dòng khí điểm thì mệnh tạo mỗi người thực chẳng có ý nghĩa so với tác hóa của Thiên Địa lớn hơn ta, theo thứ tự là làng, nước, thiên hạ, thiên địa. 

Một cơn sóng thần hay nổ bom nguyên tử khiến số mệnh bản thể không còn mang ý nghĩa. Trong chiến loạn cũng vậy. Lá số tử vi mỗi người là bản tính, sự biến động của ngũ hành tới bản tính, ai cũng có số mệnh nên đồng khí tương liên, dẫn tới diệu dụng khi toán mệnh. Xét về khảo cứu khoa học hiện đại của Phương Tây rất đột phá. Tuy nhiên kiến thức của chúng ta cũng rất uyên thâm, rất nhiều điểm khiến họ nể phục. Bản chất vạn vật không có Thiện Ác. Chỉ tư tưởng mỗi người khác nhau phân Thiện Ác. Vật ta thích thì sợ hãi khi thấy chữ Diệt, vật ta ghét thì sợ hãi khi thấy chữ Sinh. Cổ nhân luận rằng nếu ta không có suy nghĩ của con người thì đã có thể nắm được lý của trời đất. Trạng thái Không chỉ là một trạng thái không bất biến của vạn vật. Tư tưởng của ta nhận lầm về tính cố định. Bản thân hôm qua tới hôm nay như không khác biệt. Nhưng nếu gặp một biến cố lớn thay đổi hoàn toàn nhận thức trong một khắc thì tâm nhận biết rõ về thay đổi thành người khác. Ta thường chấp vật tại một thời điểm là bất biến. Khi nhìn vạn vật không nhìn sinh diệt, vì thực không có sinh diệt, do nhận thức sai biệt mà ra sinh diệt. Không có vật bất biến. Cổ nhân luận vật qua ba trạng thái. Trong đó có trạng thái Không cũng chỉ mang tính tạm thời. Khi thực lý bởi dịch lý uyên thâm, cố nhận định ra toàn cục về y lý dụng âm dương ngũ hành chữa bệnh khi không phát triển như tây y với phẫu thuật bên trong. Thứ hướng tìm tới bản nguyên nguồn gốc trong nội tâm. Sinh được các kinh thư cổ qua nhiều giai đoạn biến cố thời gian thực đã gần như thất truyền. Trong đó có phần định về Không cách rõ, thì mệnh lý được rõ. Trong cuộc sống, nhiều thời gian bản thân mỗi người rơi vào trạng thái Không, tức không nhận thức. Mắt đôi khi nhìn nhưng không thấy. Tai nghe không nghe. Đứng ở một vị trí nhưng không biết. Đó là ứng hợp đặc tính của Không. Tất cả đều sợ một điều là. Cái chết. Tất cả hoàn Không khi chết. Do nhầm lẫn về Sinh Diệt. Tất cả đều rõ khi chết vạn vật không biết, không nghe, không thấy, không nhận thức. Những việc về linh hồn hay cõi âm đều do tưởng tượng ra về một thế giới tốt đẹp hơn. Do sợ chữ Không và tư tưởng luận nhầm lẫn bởi Sinh Diệt mà không rõ là thực không có Sinh Diệt mà chỉ có biến đổi. Ta thở một cách đều đặn từ sinh ra tới khi chết, phần lớn ta không biết. Các nội tạng, ta không cảm nhận được từng nội tạng của ta. Khi bị biến đổi cơ thể ung thư nguy hiểm, ta không nhận thấy. Lời nói vừa ra khỏi miệng, không nhớ rõ. Hôm qua làm việc nọ, nhớ chưa làm. Khi sợ hãi về Không cách thì ngay việc giác quan không hoàn chỉnh, bám nắm lấy. Tiền nhân để lại hậu thế tri kiến uyên thâm khi tuổi cao. Khi già, sáng làm, trưa quên. Mắt thấy không còn rõ như xưa, không sợ hãi, hoảng loạn. Tai chuẩn bị điếc, không sợ hãi, hoảng loạn, Làm nhớ chưa làm, không sợ hãi, hoảng loạn, quên gần hết chuyện xưa kia, không sợ hãi, hoảng loạn. Tới gần chết, mắt không còn nhìn thấy, không sợ hãi cố chấp. Cuộc đời theo quá trình thì không sợ hãi. Nếu biến đổi ngay tức khắc từ trẻ tới già thì hoảng loạn. Sinh Lão Bệnh Tử một người, nằm trong quy luật tức Sinh Vượng Tuyệt Không. Vạn vật không nầm ngoài quy luật. Cũng vì quy luật đúng vạn vật tới mức không sai sót. Nên mệnh lý và huyền học phương Đông rõ hơn về chữ Tử. 

Do Không cách mang tính tạm thời. Thực tế khi mỗi người sống. Đôi khi tâm tách khỏi thân, còn sự thực không làm chủ hoàn toàn với thân tức cơ thể như ở trên. Do vậy, Tâm tức Mệnh và Thân tức cung an Thân. Hiện nay người luận tử vi thường chỉ nhìn Mệnh và Thân không rõ lý tiền nhân để lại sau này. Chỗ quy về đại ngã với quan niệm một số tôn giáo do nhìn nhận về Không cách. Mệnh sinh khởi trước Thân, là nguồn của Thân, tuy nhiên về sau phụ thuộc song hành với Thân. Đây là cách khởi nguyên định của Mệnh Thân. Thân sinh khởi do Mệnh mà có. Sau này hỗ hoán tác động lẫn nhau. Do Thân khởi từ Mệnh khi ứng hợp bên ngoài, tức với vật chất, nên Mệnh không làm chủ hoàn toàn Thân. Nơi này thì phát triển như vậy, ở nơi khác phát triển khác. Thân là phần ngoài ứng hợp, Mệnh là phần trong. Tử Vi hay các môn toán mệnh chỉ là một phần nhỏ trong trí uyên thâm của cổ nhân, chỉ đáng tiếc là man thư nhiều nhưng kinh thư ẩn không có duyên không gặp. Ta nhìn sợ hãi chữ Không. Do đó không rõ Không cách. Tâm khi chết quy về Không. Cũng như trong suốt thời gian sống, tức biến đổi liên tục bản thân mỗi người đã trải qua trạng thái này. Sau đó sẽ khởi nhập vòng Trường Sinh do tính quy luật của vòng Trường Sinh tác động vạn vật, không có ngoại biệt. Do khởi biệt như vậy, sinh ra các việc luận đoán về quá trình của khởi phát tiếp theo. Sinh ra nhiều thuyết về sinh tử hồn phách đầu thai. Trong cuộc sống, khi trạng thái Không xuất hiện, các hoạt động vẫn diễn ra bởi ngũ hành luôn biến động, Thân là ngũ hành nên các hành vi vẫn vô thức diễn ra. Do đó khi tuyệt mạng các hành tức hành vi vẫn vô thức diễn ra tới khi biến đổi khỏi trạng thái Không, khởi tạo được vòng Trường Sinh. Bản thể ta hay thế giới vẫn tuân theo các quy luật trời đất như vậy. Tức Nam và Nữ, Chính và Tà, Thiện và Ác cũng vậy, len lỏi qua từng vật, từng quá trình nhỏ nhất. Người thường nhầm lẫn vật hữu tình, vật sống do hoạt động nên không chịu tác động của nguyên tắc trên. Lại phân định nên sai lầm. Người viết luận cho học trò sâu hơn một chút về định cách. Thực tế người xem tử vi cũng không cần rõ về nguyên lý của Mệnh Thân. Khi luận cần thiết nghiên cứu rõ về tính chất của cách cục và phối hợp cách khi luận mệnh vận là đủ để có thể tự luận tử vi cho bản thân. 

(Dẫn theo trang www.luantuvi.vn)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button