Tử vi

Bàn sơ qua về nghi thức của Tứ Hóa phái

Tứ Hóa của Tử Vi Đẩu Số chia ra làm: Lộc, Quyền, Khoa, Kị

  • Hóa Lộc đại biểu xuân;
  • Hóa Quyền đại biểu hạ;
  • Hóa Khoa đại biểu thu;
  • Hóa Kỵ đại biểu đông.

Chính là giống như thời tiết bốn mùa biến hóa.

Xuân đại biểu sinh xuất nguyên nhân khởi đầu. Hạ đại biểu sinh trưởng. Thu đại biểu thu thành gặt hái. Đông đại biểu quy tàng nguyên nhân kết thúc.

Bạn đang xem: Bàn sơ qua về nghi thức của Tứ Hóa phái

Tử Vi Đẩu Số tứ hóa chú trọng nhất đến Hóa Lộc với Hóa Kị, đại biểu cho khởi nguyên và kết quả của sự việc.

Nhưng phép tắc của Tứ Hóa cũng có những quy ước nhất định của nó.

1. Phân biệt sự xuất nhập:

TVĐS có tổng cộng 12 cung là = 1 mệnh cung; 2 huynh đệ; 3 phu thê; 4 tử nữ; 5 tài bạch; 6 tật ách; 7 thiên di; 8 nô bộc; 9 quan lộc; 10 điền trạch; 11 phúc đức; 12 phụ mẫu.

Trong đó thì cung 1, 5, 9, 10 là cung Số Sinh, không hợp với bị hóa Kị xung vào, bị xung gọi là “phá Thể”, Kị đại biểu quy tàng, nếu như đi xung vào cung Số Sinh, đại biểu nguyên bản thu tàng quy về bản ngã sở hữu, bấy giờ bị xung thì có tổn thất, lại gọi là “Kị xuất”, nếu Hóa Kị nhập cung Số Sinh, đại biểu thu tàng quy về bản ngã sở hữu, cũng gọi là “Kị nhập”.

2. Thiên nhân hợp nhất:

Tử Vi Đẩu Số tứ hóa có phân chia thành Đại xung Tiểu, và Tiểu xung Đại.

a. Đại xung Tiểu, Mệnh bàn gốc Tứ Hóa xung Đại hạn bàn, chủ một năm cát hung. Đại hàn bàn Tứ Hóa xung Lưu niên bàn, chủ một tháng cát hung.

b. Tiểu xung Đại, Đại hạn bàn Tứ Hóa xung Mệnh bàn gốc, chủ mười năm cát hung. Lưu niên bàn Tứ Hóa xung Đại Hạn bàn, chủ một năm cát hung.

Thiên Địa Nhân tam bàn đại biểu cho: Mệnh bàn gốc là Thiên; Đại hạn bàn là Địa; Lưu Niên bàn là Nhân.

Nói cái này đòi hỏi cát hung biến hóa là phải phù hợp với quy tắc thiên nhân hợp nhất.

Ví dụ như cung Quan Lộc của Mệnh gốc mà Hóa Kị xung vào cung Quan Lộc của Đại hạn, Hóa Kị này gọi là “Kị xuất”, đại biểu cho sự nghiệp công việc có tổn thất mất mát, cái này phải chờ tới Lưu Niên đi đến cung vị của Kị xung thì gặp ứng nghiệm sự việc.

Mệnh bàn gốc là Thiên, Lưu Niên bàn là Nhân, khi phù hợp quy tắc Thiên Nhân hợp nhất thì cát hung biến hóa liền sinh ra.

Lại ví cung Tài Bạch của dụ Đại hạn có hóa Kị xung vào cung Điền cung Điền Trạch của Mệnh gốc, Hóa Kị này gọi là “Kị xuất”, đại biểu tiền tài có sự tổn thất, cái này phải chờ tới Lưu Niên đi đến cung vị của Kị xung thì gặp ứng nghiệm sự việc.

Biến hóa ví dụ, cung Tài Bạch của Lưu Niên hóa Kị xung vào cung Tài Bạch của Đại Hạn, cái cung vị bị Kị xung ấy lại vốn là cung Nô Bộc của Mệnh gốc. Đại biểu cho việc bị mất tiền tài vì bạn bè.

Nghiên cứu thảo luận về nghi thức bí truyền của Tử Vi Đẩu Số Tứ Hóa

Luận về Tĩnh bàn

1. Tứ Hóa năm sinh là Tứ Hóa tiên thiên, những vận dụng của nó có thể quyết định cách cục tiên thiên.

a. Khán tứ Hóa năm sinh có hay không nhập vào cung vị số dương 1, 3, 5, 7, 9, 11 – nó chủ quý khí; tứ hóa năm sinh có hay không nhập cung vị số âm 2, 4, 6, 8, 10, 12 – nó chủ tài khí.

b. Khán tứ Hóa năm sinh có hay không nhập cung Số Sinh 1, 5, 9, 10 – nó chủ thành tựu bản thân là thực đắc; nếu tứ hóa năm sinh chiếu cung Số Sinh chủ hư đắc.

c, Khán cung vị của Địa Chi năm sinh, sao và cung có ảnh hưởng suốt cả đời. Nếu cung vị Địa Chi năm sinh là cung Quan Lộc, thì cả đời rõ ràng là gắn liền với công việc.

d, Khán cung vị được thiên can năm sinh phát xạ, chỉ có cung vị phát xạ đó mới có hiệu lực, bình thường thì tương đối vô lực.

2, Tứ Hóa Mệnh cung là Tứ Hóa hậu thiên, có thể xem cái khí thế nỗ lực của hậu thiên ấy. Phép xem tương đồng với phép xem tứ hóa năm sinh ở mục a, ab, trên đây.

3. Tứ Hóa của cung gốc là Định Bàn Tứ hóa, có thể tìm hiểu 12 định số của nhân duyên.

a, Khán Tứ Hóa của các cung gốc như không nhập cung Số Sinh, chủ thành tựu bản thân là thực đắc; nếu cung lục thân thì đối với ta có sự giúp đỡ, Kị xung cung Số Sinh thì có tổn thất.

b, Lấy các cung gốc lập Thái Cực, lại khán thành tựu của các cung. Như luận Tử Tức lấy Tử Tức cung làm Mệnh cuả nó, bài bố theo chiều nghịch 12 cung, lấy khí số của cung thứ 9 xét Tứ Hóa, có nhập cung Số Sinh bản thân hay không.

(QNB chú: đây gọi là “khí số ư cửu” theo lý luận của Hà Lạc phái thuộc nhóm Bắc Phái Tứ Hóa Phi Tinh – Tăng Quốc Hùng sáng lập, mà họ Tăng lại là đệ tử của Chu sư phụ – tức Chu Thanh Hà – vị lão sư này là 1 cao thủ tiền bối và cũng chính là thầy dạy cho các danh thủ Đẩu Số đương thời như Lương Nhược Du và Từ Tăng Sinh – ông này có cuốn Đẩu Số Phân Tích Mệnh Vận rất chi tiết, cơ bản dễ cho Tam Hợp phái hấp thụ).

c, Lấy Mệnh cung cùng các cung vị của nó, Tứ Hóa tương hỗ xem đối đãi lẫn nhau, tổng cộng là 144 loại biến hóa, còn gọi là 144 quyết.

(QNB chú: Đây là diễn hóa 12 cung nhân sự của từng cung trong 12 cung trên lá số gốc -> 12×12=144 biến).

** Trên đây là suy diễn Định Bàn, chỉ có Định Số và Tượng của nó, cũng không sẵn có về cát hung, phải chờ tới vận hạn đi đến thì mới có luận định về cát hung.

(còn tiếp: Luận về Động bàn)

(Chép lại từ fb Quách Ngọc Bội)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Bàn sơ qua về nghi thức của Tứ Hóa phái

Tứ Hóa của Tử Vi Đẩu Số chia ra làm: Lộc, Quyền, Khoa, Kị

  • Hóa Lộc đại biểu xuân;
  • Hóa Quyền đại biểu hạ;
  • Hóa Khoa đại biểu thu;
  • Hóa Kỵ đại biểu đông.

Chính là giống như thời tiết bốn mùa biến hóa.

Xuân đại biểu sinh xuất nguyên nhân khởi đầu. Hạ đại biểu sinh trưởng. Thu đại biểu thu thành gặt hái. Đông đại biểu quy tàng nguyên nhân kết thúc.

Tử Vi Đẩu Số tứ hóa chú trọng nhất đến Hóa Lộc với Hóa Kị, đại biểu cho khởi nguyên và kết quả của sự việc.

Nhưng phép tắc của Tứ Hóa cũng có những quy ước nhất định của nó.

1. Phân biệt sự xuất nhập:

TVĐS có tổng cộng 12 cung là = 1 mệnh cung; 2 huynh đệ; 3 phu thê; 4 tử nữ; 5 tài bạch; 6 tật ách; 7 thiên di; 8 nô bộc; 9 quan lộc; 10 điền trạch; 11 phúc đức; 12 phụ mẫu.

Trong đó thì cung 1, 5, 9, 10 là cung Số Sinh, không hợp với bị hóa Kị xung vào, bị xung gọi là “phá Thể”, Kị đại biểu quy tàng, nếu như đi xung vào cung Số Sinh, đại biểu nguyên bản thu tàng quy về bản ngã sở hữu, bấy giờ bị xung thì có tổn thất, lại gọi là “Kị xuất”, nếu Hóa Kị nhập cung Số Sinh, đại biểu thu tàng quy về bản ngã sở hữu, cũng gọi là “Kị nhập”.

2. Thiên nhân hợp nhất:

Tử Vi Đẩu Số tứ hóa có phân chia thành Đại xung Tiểu, và Tiểu xung Đại.

a. Đại xung Tiểu, Mệnh bàn gốc Tứ Hóa xung Đại hạn bàn, chủ một năm cát hung. Đại hàn bàn Tứ Hóa xung Lưu niên bàn, chủ một tháng cát hung.

b. Tiểu xung Đại, Đại hạn bàn Tứ Hóa xung Mệnh bàn gốc, chủ mười năm cát hung. Lưu niên bàn Tứ Hóa xung Đại Hạn bàn, chủ một năm cát hung.

Thiên Địa Nhân tam bàn đại biểu cho: Mệnh bàn gốc là Thiên; Đại hạn bàn là Địa; Lưu Niên bàn là Nhân.

Nói cái này đòi hỏi cát hung biến hóa là phải phù hợp với quy tắc thiên nhân hợp nhất.

Ví dụ như cung Quan Lộc của Mệnh gốc mà Hóa Kị xung vào cung Quan Lộc của Đại hạn, Hóa Kị này gọi là “Kị xuất”, đại biểu cho sự nghiệp công việc có tổn thất mất mát, cái này phải chờ tới Lưu Niên đi đến cung vị của Kị xung thì gặp ứng nghiệm sự việc.

Mệnh bàn gốc là Thiên, Lưu Niên bàn là Nhân, khi phù hợp quy tắc Thiên Nhân hợp nhất thì cát hung biến hóa liền sinh ra.

Lại ví cung Tài Bạch của dụ Đại hạn có hóa Kị xung vào cung Điền cung Điền Trạch của Mệnh gốc, Hóa Kị này gọi là “Kị xuất”, đại biểu tiền tài có sự tổn thất, cái này phải chờ tới Lưu Niên đi đến cung vị của Kị xung thì gặp ứng nghiệm sự việc.

Biến hóa ví dụ, cung Tài Bạch của Lưu Niên hóa Kị xung vào cung Tài Bạch của Đại Hạn, cái cung vị bị Kị xung ấy lại vốn là cung Nô Bộc của Mệnh gốc. Đại biểu cho việc bị mất tiền tài vì bạn bè.

Nghiên cứu thảo luận về nghi thức bí truyền của Tử Vi Đẩu Số Tứ Hóa

Luận về Tĩnh bàn

1. Tứ Hóa năm sinh là Tứ Hóa tiên thiên, những vận dụng của nó có thể quyết định cách cục tiên thiên.

a. Khán tứ Hóa năm sinh có hay không nhập vào cung vị số dương 1, 3, 5, 7, 9, 11 – nó chủ quý khí; tứ hóa năm sinh có hay không nhập cung vị số âm 2, 4, 6, 8, 10, 12 – nó chủ tài khí.

b. Khán tứ Hóa năm sinh có hay không nhập cung Số Sinh 1, 5, 9, 10 – nó chủ thành tựu bản thân là thực đắc; nếu tứ hóa năm sinh chiếu cung Số Sinh chủ hư đắc.

c, Khán cung vị của Địa Chi năm sinh, sao và cung có ảnh hưởng suốt cả đời. Nếu cung vị Địa Chi năm sinh là cung Quan Lộc, thì cả đời rõ ràng là gắn liền với công việc.

d, Khán cung vị được thiên can năm sinh phát xạ, chỉ có cung vị phát xạ đó mới có hiệu lực, bình thường thì tương đối vô lực.

2, Tứ Hóa Mệnh cung là Tứ Hóa hậu thiên, có thể xem cái khí thế nỗ lực của hậu thiên ấy. Phép xem tương đồng với phép xem tứ hóa năm sinh ở mục a, ab, trên đây.

3. Tứ Hóa của cung gốc là Định Bàn Tứ hóa, có thể tìm hiểu 12 định số của nhân duyên.

a, Khán Tứ Hóa của các cung gốc như không nhập cung Số Sinh, chủ thành tựu bản thân là thực đắc; nếu cung lục thân thì đối với ta có sự giúp đỡ, Kị xung cung Số Sinh thì có tổn thất.

b, Lấy các cung gốc lập Thái Cực, lại khán thành tựu của các cung. Như luận Tử Tức lấy Tử Tức cung làm Mệnh cuả nó, bài bố theo chiều nghịch 12 cung, lấy khí số của cung thứ 9 xét Tứ Hóa, có nhập cung Số Sinh bản thân hay không.

(QNB chú: đây gọi là “khí số ư cửu” theo lý luận của Hà Lạc phái thuộc nhóm Bắc Phái Tứ Hóa Phi Tinh – Tăng Quốc Hùng sáng lập, mà họ Tăng lại là đệ tử của Chu sư phụ – tức Chu Thanh Hà – vị lão sư này là 1 cao thủ tiền bối và cũng chính là thầy dạy cho các danh thủ Đẩu Số đương thời như Lương Nhược Du và Từ Tăng Sinh – ông này có cuốn Đẩu Số Phân Tích Mệnh Vận rất chi tiết, cơ bản dễ cho Tam Hợp phái hấp thụ).

c, Lấy Mệnh cung cùng các cung vị của nó, Tứ Hóa tương hỗ xem đối đãi lẫn nhau, tổng cộng là 144 loại biến hóa, còn gọi là 144 quyết.

(QNB chú: Đây là diễn hóa 12 cung nhân sự của từng cung trong 12 cung trên lá số gốc -> 12×12=144 biến).

** Trên đây là suy diễn Định Bàn, chỉ có Định Số và Tượng của nó, cũng không sẵn có về cát hung, phải chờ tới vận hạn đi đến thì mới có luận định về cát hung.

(còn tiếp: Luận về Động bàn)

(Chép lại từ fb Quách Ngọc Bội)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button