Tử vi

BÌNH GIẢI SAO PHÁ QUÂN

Phá quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, thuộc dương Thủy. Trong Đẩu Số, sao Phá quân là “tướng tiên phong”, cho nên chủ về “xung phong”, mà không chủ về “lui lại phòng thủ”. Phàm người có Phá quân thủ mệnh, chỉ có thể “công” mà không thể “thủ”, hơn nữa, sau khi “công” thành trì xong cũng sẽ bàn giao cho người khác cố thủ, bản thân lại phải đi xung phong ở trận chiến khác.

Phá Quân gặp Lộc là tốt nhất, dù là Lộc Tồn hay Hoá Lộc. Được sao Lộc thì chủ về khai sáng và có thu hoạch. Nếu không cuộc đời sẽ bận rộn vất vả người khác, chỉ mất công vô ích, bản thân được hưởng ít.

Phá Quân Hoá Lộc, Mệnh tạo dễ kiêm nhiều nghề, nhiều việc. Phá Quân Hoá Quyền, tình huống cũng như trên, nhưng so với Hoá Lộc thì vất vả hơn nhiều, thanh thế cũng hiển hách. Phá Quân gặp Tả Hữu mới chủ về trợ lực, có thể giảm thiểu lo lắng. Phá Quân gặp Khôi Việt, tuy có cơ hội khai sáng, nhưng khai sáng xong cần an định, lại tiếp tục theo đuổi thứ mới là thành phù phiém trôi nổi.

Bạn đang xem: BÌNH GIẢI SAO PHÁ QUÂN

Phá Quân gặp Hoả Linh bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng. Phá Quân Kình Đà chủ về tàn tật.

Phá Quân gặp Xương Khúc đông cung, lại là bần sĩ. Có thể vì văn võ xung nhau, chả được gì. Có lẽ Phá Quân gặp Lộc, Quyền, thêm Tả Hữu Khôi Việt mới nên gặp Xương Khúc.

Sao Phá quân tranh thành đoạt trại, phá hoại trước rồi kiến thiết sau, cho nên bản thân phải chịu nguy nan cũng nhiều, dễ biến thành vượt quá tầm kiểm soát, rơi vào tình cảnh nguy khốn, mà không thể tự đứng lên được. Khi xử sự, thường dễ biến trở ngại nhỏ thành trắc trở lớn.

Phá Quân có những thế đứng sau đây: đứng với Liêm Trinh tại Mão Dậu, với Tử Vi ở Sửu Mùi, đứng một mình ở Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân, đứng với Vũ Khúc ở Tỵ Hợi. Phá Quân hãm đáng ngại nhất là đóng ở Mão Dậu, rồi mới đến Dần Thân.

Phá Quân đi với Xương Khúc dù là Tử Phá hay Liêm Phá dễ vướng hận tình. Có câu phú: “Phá Quân xung phá văn tinh tam canh bảo vân song chi hận”. (Phá Quân xung phá Xương Khúc, đêm đêm ôm hận tình, đa tình và đam mê rồi thất bại trên tình trường mà thành hận. Bị vợ bỏ, người yêu cho rơi hoặc vợ cho mọc sừng).

Cổ nhân nói “Phá quân gặp Hỏa tinh Linh tinh, chủ về bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng” (Phá quân Hỏa Linh, bôn ba lao lực, quan phi tranh môn), còn nói “Phá quân có Kình dương Đà la đồng cung, chủ về bị tàn tật” (Phá quân Dương Đà đồng cung, chủ hữu tàn tật), lại còn nói “Sao Hình và sao Kị đồng cung, chủ về bị tàn tật” (Hình Kị đồng cung, chủ hữu tàn tật), là nói lý lẽ này. Ngày nay chưa thể kiểm chứng được việc tàn tật do các sao này gây ra.

Thâm chí ở cung Sự nghiệp cũng không nên có kết cấu như vậy. Cổ nhân nói “Phá quân gặp Kình dương Đà la ở cung Quan lộc, chủ về đi xứ khác kiếm ăn” (Phá quân Dương Đà quan lộc vị, đáo xứ cầu khất).

Phá quân chỉ có một tổ hợp tinh hệ cấu tạo, vừa có thể “công” vừa có thể “thủ”, gọi là cách “Anh tinh nhập miếu”.

Kết cấu của cách này, là khi Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ “Liêm trinh Thiên tướng”, có Phá quân của bản cung Hóa Quyền, còn Liêm trinh ở cung đối diện Hóa Lộc đến chiếu, lại có các sao Phụ Tá đến hội hợp, không bị các sao Sát Kị hội chiếu. Đây là thượng cách của Phá quân, cổ nhân nói “Anh tinh nhập miếu, địa vị đến bậc tam công” (Anh tinh nhập miếu, vị chí tam công). Người sinh năm Bính, ngại vì Phá quân không có sao Lộc, hơn nữa còn có Liêm trinh Hóa Kị đối củng, chủ về cuộc đời nhiều lo toan, họa hoạn, thị phi.

Phá quân ở trong 12 cung luôn luôn đối nhau với Thiên tướng, ảnh hưởng của Phá quân tới Thiên tướng rất quan trọng, đối với Thiên tướng thuộc vào cách nào, thuộc về cách “Tài ấm giáp ấn” hay thuộc về cách “Hình kị giáp ấn”.

Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ “Liêm trinh Thiên tướng” đồng độ; ở Mão hoặc ở Dậu có hệ “Liêm trinh Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Liêm trinh – Phá quân – Thiên tướng”

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện là hệ “Tử vi Thiên tướng” đồng độ; ở Sửu hoặc ở Mùi là hệ “Tử vi Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Tử vi – Phá quân – Thiên tướng”.

Phá quân độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện là hệ “Vũ khúc Thiên tướng” đồng độ; ở Tị hoặc ở Hợi là hệ “Vũ khúc Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Vũ khúc – Phá quân – Thiên tướng”.

Về đại thể, người có Phá quân thủ mệnh, nhất định không chịu sống nhàn hạ, dù sự nghiệp đã thành cục diện ổn định, họ cũng phải tìm cho được chuyện làm để khiến người ta phải kinh hãi. Nếu sức mạnh bảo thủ quá lớn, thì họ dễ trở thành người làm mưa làm gió. Do đó muốn đánh giá Phá quân, cần phải tính đến đặc tính này. Giả dụ có thể đặt người này vào một cương vị độc lập sáng tạo, họ có thể phát huy được sở trường, khiến sự nghiệp có thể thành tựu một cách đột phá, sáng tạo ra cục diện mới. Nếu có ý định không thay đổi, thì không thích hợp với người có Phá quân thủ mệnh. Đây chính là điểm mà cổ nhân đã lấy làm căn cứ, để bình luận về nữ mệnh Phá quân. Vì vậy, ở thời hiện đại, có một số người Phá quân thủ mệnh cực kỳ oan uổng, họ bị xem là “bọn gây ra thị phi”. Thực ra, có thể vì thượng cấp của họ không biết dùng sở trường của họ.

Nữ mệnh Phá quân, thông thường đều nên kết hôn muộn; gặp Kình dương, Đà la thì càng như vậy. Nếu Phá quân Hóa Lộc, có khuynh hướng thích tu sửa sắc đẹp; lúc này cần lưu ý xem Tiểu hạn có tương hội sao Hình, Sát, Kị hay không, nếu đúng thì phải cẩn thận kẻo để lại dấu vết.

Nữ mệnh Phá quân ở Tý hoặc Ngọ, rất ngại gặp Địa không, Địa kiếp, Cô thần, Quả tú, chủ về nửa cuộc đời cô tịch, tinh thần nhiều đau khổ. Nếu cung Phu có Vũ khúc Hóa Kị gặp Thiên hình, thì rất có thể không có chồng (hoặc không có vợ).

Sao Phá quân độc tọa ở Dần hoặc Thân, cung Thiên di có hai sao Vũ khúc và Thiên tướng đồng độ. Vũ khúc là sao có tính chất cô độc và hình khắc, vì vậy nên chú trọng tình hình cát hung của cung Phụ mẫu; nếu cung Phụ mẫu có các sao Sát Kị trùng trùng, hoặc cung mệnh có “Lộc Mã giao trì” mà gặp Sát tinh, đều chủ về từ nhỏ đã rời xa gia đình, là mệnh cách lưu lạc chân trời góc bể.

Sao Phá quân an mệnh ở hai nơi này, nếu gặp Văn xương, Văn khúc, là văn sỹ nghèo nàn, thất chí; nếu gặp Sát tinh trùng trùng hội chiếu, thì một đời cô độc phiêu bạt. Gặp Hóa Kị, Kình dương, Đà la tụ hội ở cung Mệnh thì chủ về tàn tật, nhưng tính hiếu chiến hung dữ vẫn không thay đổi.

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc Tuất, cung Thiên di có Tử vi – Thiên tướng. Sao Phá quân một mặt bị kềm chế ở “Thiên la – Địa võng”, một mặt lại bị Tử vi kềm chế; thêm vào đó Phá quân có bản chất “tướng ở ngoài mặt trận, không thụ mệnh vua“, sẽ càng phản kháng sự kềm chế của Tử vi ở cung Thiên di, cho nên kết cấu tinh hệ này có nhiều tính cách mâu thuẫn.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm BÌNH GIẢI SAO PHÁ QUÂN

Phá quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, thuộc dương Thủy. Trong Đẩu Số, sao Phá quân là “tướng tiên phong”, cho nên chủ về “xung phong”, mà không chủ về “lui lại phòng thủ”. Phàm người có Phá quân thủ mệnh, chỉ có thể “công” mà không thể “thủ”, hơn nữa, sau khi “công” thành trì xong cũng sẽ bàn giao cho người khác cố thủ, bản thân lại phải đi xung phong ở trận chiến khác.

Phá Quân gặp Lộc là tốt nhất, dù là Lộc Tồn hay Hoá Lộc. Được sao Lộc thì chủ về khai sáng và có thu hoạch. Nếu không cuộc đời sẽ bận rộn vất vả người khác, chỉ mất công vô ích, bản thân được hưởng ít.

Phá Quân Hoá Lộc, Mệnh tạo dễ kiêm nhiều nghề, nhiều việc. Phá Quân Hoá Quyền, tình huống cũng như trên, nhưng so với Hoá Lộc thì vất vả hơn nhiều, thanh thế cũng hiển hách. Phá Quân gặp Tả Hữu mới chủ về trợ lực, có thể giảm thiểu lo lắng. Phá Quân gặp Khôi Việt, tuy có cơ hội khai sáng, nhưng khai sáng xong cần an định, lại tiếp tục theo đuổi thứ mới là thành phù phiém trôi nổi.

Phá Quân gặp Hoả Linh bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng. Phá Quân Kình Đà chủ về tàn tật.

Phá Quân gặp Xương Khúc đông cung, lại là bần sĩ. Có thể vì văn võ xung nhau, chả được gì. Có lẽ Phá Quân gặp Lộc, Quyền, thêm Tả Hữu Khôi Việt mới nên gặp Xương Khúc.

Sao Phá quân tranh thành đoạt trại, phá hoại trước rồi kiến thiết sau, cho nên bản thân phải chịu nguy nan cũng nhiều, dễ biến thành vượt quá tầm kiểm soát, rơi vào tình cảnh nguy khốn, mà không thể tự đứng lên được. Khi xử sự, thường dễ biến trở ngại nhỏ thành trắc trở lớn.

Phá Quân có những thế đứng sau đây: đứng với Liêm Trinh tại Mão Dậu, với Tử Vi ở Sửu Mùi, đứng một mình ở Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân, đứng với Vũ Khúc ở Tỵ Hợi. Phá Quân hãm đáng ngại nhất là đóng ở Mão Dậu, rồi mới đến Dần Thân.

Phá Quân đi với Xương Khúc dù là Tử Phá hay Liêm Phá dễ vướng hận tình. Có câu phú: “Phá Quân xung phá văn tinh tam canh bảo vân song chi hận”. (Phá Quân xung phá Xương Khúc, đêm đêm ôm hận tình, đa tình và đam mê rồi thất bại trên tình trường mà thành hận. Bị vợ bỏ, người yêu cho rơi hoặc vợ cho mọc sừng).

Cổ nhân nói “Phá quân gặp Hỏa tinh Linh tinh, chủ về bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng” (Phá quân Hỏa Linh, bôn ba lao lực, quan phi tranh môn), còn nói “Phá quân có Kình dương Đà la đồng cung, chủ về bị tàn tật” (Phá quân Dương Đà đồng cung, chủ hữu tàn tật), lại còn nói “Sao Hình và sao Kị đồng cung, chủ về bị tàn tật” (Hình Kị đồng cung, chủ hữu tàn tật), là nói lý lẽ này. Ngày nay chưa thể kiểm chứng được việc tàn tật do các sao này gây ra.

Thâm chí ở cung Sự nghiệp cũng không nên có kết cấu như vậy. Cổ nhân nói “Phá quân gặp Kình dương Đà la ở cung Quan lộc, chủ về đi xứ khác kiếm ăn” (Phá quân Dương Đà quan lộc vị, đáo xứ cầu khất).

Phá quân chỉ có một tổ hợp tinh hệ cấu tạo, vừa có thể “công” vừa có thể “thủ”, gọi là cách “Anh tinh nhập miếu”.

Kết cấu của cách này, là khi Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ “Liêm trinh Thiên tướng”, có Phá quân của bản cung Hóa Quyền, còn Liêm trinh ở cung đối diện Hóa Lộc đến chiếu, lại có các sao Phụ Tá đến hội hợp, không bị các sao Sát Kị hội chiếu. Đây là thượng cách của Phá quân, cổ nhân nói “Anh tinh nhập miếu, địa vị đến bậc tam công” (Anh tinh nhập miếu, vị chí tam công). Người sinh năm Bính, ngại vì Phá quân không có sao Lộc, hơn nữa còn có Liêm trinh Hóa Kị đối củng, chủ về cuộc đời nhiều lo toan, họa hoạn, thị phi.

Phá quân ở trong 12 cung luôn luôn đối nhau với Thiên tướng, ảnh hưởng của Phá quân tới Thiên tướng rất quan trọng, đối với Thiên tướng thuộc vào cách nào, thuộc về cách “Tài ấm giáp ấn” hay thuộc về cách “Hình kị giáp ấn”.

Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ “Liêm trinh Thiên tướng” đồng độ; ở Mão hoặc ở Dậu có hệ “Liêm trinh Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Liêm trinh – Phá quân – Thiên tướng”

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện là hệ “Tử vi Thiên tướng” đồng độ; ở Sửu hoặc ở Mùi là hệ “Tử vi Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Tử vi – Phá quân – Thiên tướng”.

Phá quân độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện là hệ “Vũ khúc Thiên tướng” đồng độ; ở Tị hoặc ở Hợi là hệ “Vũ khúc Phá quân” đồng độ. Cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Vũ khúc – Phá quân – Thiên tướng”.

Về đại thể, người có Phá quân thủ mệnh, nhất định không chịu sống nhàn hạ, dù sự nghiệp đã thành cục diện ổn định, họ cũng phải tìm cho được chuyện làm để khiến người ta phải kinh hãi. Nếu sức mạnh bảo thủ quá lớn, thì họ dễ trở thành người làm mưa làm gió. Do đó muốn đánh giá Phá quân, cần phải tính đến đặc tính này. Giả dụ có thể đặt người này vào một cương vị độc lập sáng tạo, họ có thể phát huy được sở trường, khiến sự nghiệp có thể thành tựu một cách đột phá, sáng tạo ra cục diện mới. Nếu có ý định không thay đổi, thì không thích hợp với người có Phá quân thủ mệnh. Đây chính là điểm mà cổ nhân đã lấy làm căn cứ, để bình luận về nữ mệnh Phá quân. Vì vậy, ở thời hiện đại, có một số người Phá quân thủ mệnh cực kỳ oan uổng, họ bị xem là “bọn gây ra thị phi”. Thực ra, có thể vì thượng cấp của họ không biết dùng sở trường của họ.

Nữ mệnh Phá quân, thông thường đều nên kết hôn muộn; gặp Kình dương, Đà la thì càng như vậy. Nếu Phá quân Hóa Lộc, có khuynh hướng thích tu sửa sắc đẹp; lúc này cần lưu ý xem Tiểu hạn có tương hội sao Hình, Sát, Kị hay không, nếu đúng thì phải cẩn thận kẻo để lại dấu vết.

Nữ mệnh Phá quân ở Tý hoặc Ngọ, rất ngại gặp Địa không, Địa kiếp, Cô thần, Quả tú, chủ về nửa cuộc đời cô tịch, tinh thần nhiều đau khổ. Nếu cung Phu có Vũ khúc Hóa Kị gặp Thiên hình, thì rất có thể không có chồng (hoặc không có vợ).

Sao Phá quân độc tọa ở Dần hoặc Thân, cung Thiên di có hai sao Vũ khúc và Thiên tướng đồng độ. Vũ khúc là sao có tính chất cô độc và hình khắc, vì vậy nên chú trọng tình hình cát hung của cung Phụ mẫu; nếu cung Phụ mẫu có các sao Sát Kị trùng trùng, hoặc cung mệnh có “Lộc Mã giao trì” mà gặp Sát tinh, đều chủ về từ nhỏ đã rời xa gia đình, là mệnh cách lưu lạc chân trời góc bể.

Sao Phá quân an mệnh ở hai nơi này, nếu gặp Văn xương, Văn khúc, là văn sỹ nghèo nàn, thất chí; nếu gặp Sát tinh trùng trùng hội chiếu, thì một đời cô độc phiêu bạt. Gặp Hóa Kị, Kình dương, Đà la tụ hội ở cung Mệnh thì chủ về tàn tật, nhưng tính hiếu chiến hung dữ vẫn không thay đổi.

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc Tuất, cung Thiên di có Tử vi – Thiên tướng. Sao Phá quân một mặt bị kềm chế ở “Thiên la – Địa võng”, một mặt lại bị Tử vi kềm chế; thêm vào đó Phá quân có bản chất “tướng ở ngoài mặt trận, không thụ mệnh vua“, sẽ càng phản kháng sự kềm chế của Tử vi ở cung Thiên di, cho nên kết cấu tinh hệ này có nhiều tính cách mâu thuẫn.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button