Tử vi

Các lưu phái trong mệnh lý bát tự

Công bố: 25/04/2015

Tác giả: Thấu Trường An

Phỏng dịch: Thiên Khánh

Bạn đang xem: Các lưu phái trong mệnh lý bát tự

Giới Dịch học là một giới học thuật có tính qui phạm thấp khi thảo luận bởi vì học thuật mệnh lý được truyền thừa từ trăm nghìn năm qua, lý luận học thuật liên tục bị lật đổ và và hoàn thiện, thành ra không có một đáp án cố định hoặc một tiêu chuẩn nào. Hơn nữa bản thân cũng khó được quốc gia trân trọng và bảo hộ. Cho nên trong giới Dịch học, việc tranh luận là rất thường xuyên, từ đó đồng thời cũng xuất hiện rất nhiều lưu phái.

Bên dưới trình bày và giới thiệu một vài lưu phái tương đối nổi tiếng của mệnh lý bát tự cùng với đánh giá về các lưu phái này.

Về cơ bản, các môn phải mệnh lý hiện đang lưu hành tôi đều học qua và dùng qua. Ở bài này tôi sẽ giới thiệu đơn giản, và để cử một vài sách nhập môn để thuận tiện cho người mới học. Chủ yếu tôi đề cử những tác phẩm hiện đại, còn sách của cổ nhân thì sợ nhiều người đọc không thông. Tuy nhiên, học đến thời điểm nhất định đều phải quay lại đọc những tác phẩm cổ này.

Một: Manh phái

Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hoà Quyền. Do tiên sinh Đoàn Kiến nghiệp cầm đầu khai sáng ra phương pháp đoán mệnh Manh Phái. Thật ra Manh Phái Đoàn Kiến Nghiệp từ lâu đã thoát ly Manh Phái nguyên thuỷ, mà mang đầy tính thương nghiệp mì ăn liền. Tôi nghĩ những manh nhân hành tẩu giang hồ xưa kia chắc cũng không biết có một môn phái của chính mình. Nghe nói tiên sinh Đoàn Kiến Nghiệp được thân truyền của cao thủ manh nhân Hác Kim Dương, học được một số đại pháp độc môn, nên đã phát triển lý luận phân tách rạch ròi với lưu phái vượng suy đã có từ trước đó. Tiên sinh Đoàn Kiến Nghiệp sáng tạo ra các khái niệm tố công, xuyên, chế, khách chủ, và binh tặc thần. Những khái niệm này kỳ thật cũng chỉ là một chút kỹ pháp của Tử Bình, nay đem ra trau chuốt lại, cho vào bao bì mới. Hác Kim Dương, Hạ Trọng Kỳ đều được miêu tả như thần tiên, cao cao cao thủ, lợi hại có thể ví như Tây Môn Xuy Tuyết, nhưng không có người nào từng thấy các vị này ra tay xem bói, hoặc là những người từng thấy qua thì nay đều đã qua đời. Tôi thích ví von phái này là Thái Bình Thiên Quốc trong mệnh học giang hồ. Mọi người đều bị Hồng Tú Tài, nhân danh người phát ngôn của Thiên Chủ, sai phái, giật dây. Thử hỏi ai từng thấy qua Thiên Chủ? Thiên Chủ đến cùng có lợi hại như lời đồn? Chỉ sợ chỉ có bản thân Hồng Tú Tài mới biết được.

Nhân vật đại biểu: Đoàn Kiến Nghiệp, Hình Tú Phân, Đỗ Hữu Tài.

Sách đề cử: Mệnh Lý Trân Bảo (Đoàn Kiến Nghiệp), Bát Tự Manh Phái Giáo trình (Hình Tú Phân)

Chỉ số đánh giá: ☆ Ngoại trừ ý hướng Thập Thần, Can Chi nguyên tượng, Thập Thần tượng ý thì những cái khác đều không đáng giá.

Hai: Hình Phái

Thật ra đây mới thật sự là Manh Phái. Rất nhiều khẩu quyết có nguồn gốc từ cân tương bổn (loại sách thời xưa, có khổ nhỏ thường bằng cái khăn tay hoặc cái khăn buộc trên đầu thư sinh, để tiện mang theo – Thiên Khánh) và các ghi chép bí mật lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên lại cùng với Manh Phái đề cập phía trên thuộc hai lưu phái khác nhau. Tôi tự đặt tên cho phái này là Hình Phái. Lưu phái này có đặc điểm là thiết đoán trực đoán (luận đoán chắc chắn, cụ thể, sắc nét – Thiên Khánh). Trực tiếp căn cứ vào hình tượng của tổ hợp can chi trong tứ trụ mà đoán sự kiện lớn. Thường thường có thể trực chỉ chỗ đau nhất của người đến nhờ luận đoán (nhất châm kiến huyết – Thiên Khánh). Như cách đây mấy ngày cùng các sư huynh đệ thảo luận bát tự Nam: Tân Mão – Đinh Dậu – Bính Tý – Nhâm Thìn. Không cần phân tích cách cục, ngũ hành mà trực tiếp căn cứ vào mẫu pháp Hình Phái, bát tự có tổ hợp “song xung lại song hợp, mệnh hung chết yểu” thì liền có thể đoán là mệnh đại hung, gọn gàng dứt khoát. Đứa bé trai này vừa sinh ra đời là đã bị bệnh tim, nguy tại sớm tối. Sang năm đối hiện song hợp, hiển nhiên là sinh tử quan khẩu. Rất nhiều lý luận Hình Phái đều có nguồn gốc từ những quyết khiếu khẩu truyền tâm thuật của giới Manh Sư. Hậu học đều không hiểu phải giải thích những quyết khiếu này cụ thể như thế nào, thành ra khả năng học thuộc lòng là rất quan trọng.

Nhân vật đại biểu: Lương Tương Nhuận.

Sách đề cử: Tử Bình Mẫu Pháp Hệ Liệt (Lương Tương Nhuận)

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆☆ Nội dung phức tạp. Ngôn ngữ dông dài, thật giả hỗn tạp, nếu đem làm tài liệu giảng dạy thì rất khó nhìn rõ đầu mối. Tuy nhiên muốn trở thành cao thủ nhất định phải đọc.

Ba: Vượng Suy

Dùng vượng suy của nhật can để làm tiêu chuẩn phán đoán bát tự. Ví dụ như, thiên can là mộc, sinh vào mùa xuân liền vượng. Nếu như lại có Ấn tinh đến sinh, Tỷ Kiếp trợ, thì có thể xác định nó tương đối vượng. Đó là căn cứ theo phép cân bằng. Nhật chủ vượng thì dụng Tài, Quan, Sát, Thực, Thương. Nhược thì cần trợ giúp, dụng Ấn, Tỷ chẳng hạn. Bên trong Vượng Suy lại phân hai phái khác nhau.

1. Tích Thiên Phái: như ông tiên sinh hay nói giáo điều. Thật ra thì tôi thích gọi phái này là phái truyền thống. Hiện nay phái truyền thống chủ yếu là chỉ cùng một loại Tử Bình, cho nên để dễ phân biệt, tôi gọi phái này là Tích Thiên Phái. Thánh điển của bọn họ là quyển Tích Thiên Tuỷ do Nhậm Thiết Tiều chú thích. Hiện tại các đại sư xuất hiện sau Thiệu Vỹ Hoa và trước Lý Hàm Thần đều cơ bản là thuộc phái này.

Đặc điểm: kết luận mơ hồ, thích dùng Tích Thiên thể. Ví dụ như Giáp mộc sinh trọng xuân, thân vượng không thể nghi ngờ; thích nhất là thời trụ thấu Bính hoả Thực Thần tiết tú. Địa chi thanh khí quấn quanh. (Thật ra chính họ có biết thanh khí là gì hay không đều rất khó nói.)

Đề cử sách: người thuần theo phái Tích Thiên hiện tại rất ít. Sách có Tứ Trụ Tường Thuật (Khúc Vỹ). Ngoại trừ sách vở truyền thống, phái này cũng dung hợp nhiều kỹ pháp khác có thể đọc thử.

Chỉ số đánh giá: ☆ Định tính mơ hồ, quá ỷ lại linh cảm. Tích Thiên Tuỷ là bộ sách kinh điển mà người học mệnh lý nào đều phải đọc qua. Bất quá, chú giải của Nhậm Thiết Tiều có thể có nhiều sai lầm, chỉ đề nghị đọc Tích Thiên Tuỷ nguyên văn thì sẽ tốt hơn.

2. Tân Phái: cải cách phá bỏ cái cũ. Do Lý Hàm Thuần ở Sơn Đông phát minh và khởi xướng. Đối với người không có căn bản Dịch học hoặc Quốc học, nhập môn vô cùng nhanh, hiệu quả cũng rất rõ ràng. Đặc điểm thứ nhất của phái này là công thức hoá Vượng Suy. Thứ hai là mô thức một đi với một thành tượng. Bình thường mà nói, một năm đầu sau khi học xong thì ứng dụng rất tốt, về sau càng dùng thì xác suất đúng càng thấp. Phái này phủ định Thần Sát, cũng không dùng địa chi tương hại, tương phá truyền thống, chỉ còn lại các quan hệ đơn giản như sinh, khắc, tổn hao. Tân Phái quật khởi có thể ví von như là vận động cải cách văn hoá, giống như một đám người điên ý đồ muốn lật đổ truyền thống văn hoá truyền thừa ngàn năm.

Hệ thống suy đoán của Tân Phái vô cùng đơn giản, về cơ bản thì người người đều có thể học được trong thời gian ngắn. Ví dụ như nguyệt lệnh quyết định vượng suy 50 phần trăm. Nhật chi đối với nhật can có quan hệ trợ giúp chẳng hạn. Các đoán ngữ thường dùng cũng rất cứng nhắc. Như Quan thượng thì cát, Ấn thượng thì hung. Chỉ cần nhìn phương pháp luận đoán của họ như đã đề cập phía trên thì có thể nhìn ra vấn đề.

Nhân vật đại biểu: Lý Hàm Thần, Chúc Quốc Anh, Tịch Học Dị.

Đề cử sách: Bát Tự Dự Đoán Chân Tông (Lý Hàm Thần)

Chỉ số đánh giá: ☆☆ Đặc biệt thích hợp cho người mới học, nhưng học xong nhất định phải vứt bỏ như giày rách.

Bốn: Lộc Mệnh Phái

Phái này là phái luận mệnh cực kì theo lối cổ, lấy niên làm chủ, nạp âm, thần sát, 12 cung trường sinh là lý luận chủ yếu. Từ trước dùng phương pháp này rất ít người. Tôi chỉ thấy qua Ngũ Hành Diễn Nghĩa tại diễn đàn Long Ấn, có vận dụng Nguyên Hanh của cổ Dịch. Hiện tại cũng không còn thấy có ai có lưu giữ sách loại này. Nếu có hứng thú, có thể nhìn xem các cổ thư như Lý Hư Trung Mệnh Thư, Tinh Mệnh Quyết Cổ Lục.

Chỉ số đánh giá: không hiểu rõ nên không dám vội kết luận.

Năm: Cách Cục Phái

Đây là pháp đoán mệnh Đại Tông, trước đây là thủ pháp đoán mệnh chủ lưu, có thể ứng đối đến 70 phần trăm trở lên các nội dung dự trắc bát tự. Căn cứ các sách Tam Mệnh Thông Hội, Uyên Hải Tử Bình, Tử Bình Chân Thuyên mà ngộ ra. Hiện tại có ba phái nhỏ chủ yếu:

1. Nguyệt Lệnh Cách Cục Phái:

Trực tiếp lấy nguyệt lệnh chủ khí (thấu can hay không không quan trọng) để lấy cách cục. Quan Ấn Tài Thực thuận dụng, Sát Kiêu Kiếp Thương nghịch dụng.

Nhân vật đại biểu: Từ Vỹ Cương.

Đề cử sách: Bát Tự Chính Giải Tử Bình Thuật Tinh Tích.

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆ Có căn cứ ở nhiều sách kinh điển, mà quyển sách này cũng viết không tệ, nội dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu. Nhưng trực tiếp dùng nguyệt lệnh làm cách cục thì có một chút lẫn lộn thập thần luận mệnh với tứ thời ngũ hành. Nhưng xác thực Tam Mệnh Thông Hội chính là viết như vậy, vô cùng trung thành với nội dung kinh điển.

2. Nguyệt Lệnh Thấu Can Cách Cục Phái

Phái này tôn sùng Tử Bình Chân Thuyên, coi trọng nguyệt lệnh thấu can, lấy đó mà định cách cục. Còn những nguyên tắc luận mệnh khác thì không sai biệt lắm so với Nguyệt Lệnh Cách Cục Phái.

Nhân vật đại biểu: Hoàng Đại Lục.

Đề cử sách: Mệnh Lý Biên Học Biên Liêu

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆ Có căn cứ ở sách kinh điển, cũng trung thành với nội dung kinh điển, tính logic cũng cao. Nhưng đối với nghĩa gốc của Tử Bình Chân Thuyên thì chưa hoàn toàn hiểu thấu.

3. Tử Bình Chân Tông Cách Cục Phái

Căn cứ vào nhân nguyên ti lệnh tại nguyệt lệnh thấu can hay không, lại đem bát tự phân thành cách và cục để luận riêng biệt. Căn cứ vào hiệu quả ứng dụng cùng với độ chuẩn xác thì phái này cao hơn hai phái còn lại nhiều.

Nhân vật đại biểu: Thuỷ Uông Uông, Ngai Quỷ.

Đề cử sách: không có sách xuất bản, có tư liệu rải rác trên mạng.

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆ Có khả năng chưa có sách nào nói đến thuật xem mệnh này nhưng thực tiễn ứng dụng không tệ, độ chính xác tương đối cao, rất nhiều qui tắc ứng dụng không công bố ra ngoài, không biết nội tình, học rồi thì thấy như gân gà (bỏ thì thương, vương thì tội – Thiên Khánh). Cá biệt có những khẩu quyết so với nội dung kinh điển có cải biến quá lớn, nên khó mà làm cho người tin phục.

4. Thấu Phái Cách Cục:

Ha ha. Phái này chỉ có tôi một người ứng dụng để luận, đoán chừng về sau sẽ có học trò của tôi sử dụng. Đương nhiên, nếu có người cảm thấy lý luận phù hợp đạo lý thì có thể sử dụng. Thấu Phái Cách Cục giảng giải về tiền minh đạo, theo nguyên tắc nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà tiến hành lấy hay bỏ thiên can. Sau đó phân biệt tìm kiếm địa đạo và nhân đạo mà duy trì. Còn những nguyên tắc nhỏ bên trong thì không thích hợp nói ra. Những lý luận này phù hợp với bản thân tôi không có nghĩa là phù hợp với tất cả mọi người. Cho nên tôi quyết định thử dạy vài học trò xem mệnh bằng phương pháp này, thử xem họ ứng dụng có tốt hay không tốt. Nếu như mọi người đều cảm thấy ứng dụng tốt, tôi sẽ cân nhắc việc hệ thống hoá lý luận này.

Nhân vật đại biểu: Thấu Trường An.

Chỉ số đánh giá: tạm thời không đề cử, ai thích thì dùng.

Sáu: Cùng Thông Phái

Chủ yếu căn cứ vào Cùng Thông Bảo Giám để luận mệnh. Nghiêm ngặt mà nói thì Cùng Thông Phái không tính là một cái đơn lẻ lưu phái. Cùng Thông Bảo Giám cũng không phải một pháp tắc đặc biệt ghê gớm. Tuy nhiên, nếu muốn trở thành cao thủ luận mệnh thì nhất định phải qua một ải này. Phái này chủ yếu có nguồn gốc từ những cảm ngộ đối với tự nhiên vạn tượng, từ đó mà trực tiếp vận dụng cho bát tự, cũng chính là cảnh giới thiên nhân hợp nhất cao tầng. Trong nước dùng thủ pháp này thành thạo nhất phải kể đến lão sư Thái Tích Quỳnh.

Nhân vật đại biểu: Bành Khang Dân, Thái Tích Quỳnh.

Đề cử sách: Thập Can Tinh Vi (Thái Tích Quỳnh).

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆☆ Người mới học nên nghiên cứu cẩn thận. Nếu muốn trở thành cao thủ nhất định phải học.

Phía trên đã giới thiệu đơn giản các lưu phái khá nổi tiếng trong mệnh lý bát tự. Nói tóm lại, mặc dù lưu phái khác biệt, nhưng giữa chúng cũng không có xung đột. Chỉ bất quá là phương hướng nghiên cứu không giống nhau mà thôi. Cần phải biết, Dịch học là một thế giới học thuật vô cùng rộng lớn, nghiên cứu một phương diện là quý hồ tinh, nhưng nếu có thể dung hợp nhiều lưu phái sử dụng, thì nghiên cứu mệnh lý lại càng thêm chuẩn xác.

——-

Cảm nhận:

(1) Tác giả Thấu Trường An qua bài viết này là người khá chừng mực, có tự trọng. Các lưu phái không tán đồng thì cũng phủ định nhẹ nhàng, lưu phái của bản thân lập ra thì không dám đánh giá, để mọi người tự đánh giá. Nói chung là có liêm sỉ cao, là người đáng trọng, không đạp lên người khác để ca ngợi lưu phái của mình.

(2) Tuy nhiên, trong bài viết cũng có một số điểm sơ hở mà nhìn “mắt thường”, hoặc cái đầu logic thông thường cũng có thể nhận ra. Ví dụ:

a. Phê phán Tích Thiên Phái “quá ỷ lại linh cảm” nhưng lại đề cao Cùng Thông Phái “cảnh giới thiên nhân hợp nhất”. Lần sau nếu có cơ duyên tôi sẽ phân tích thử 1 bài luận mệnh của Cùng Thông Phái xem có phải là huyền bí “thiên nhân hợp nhất” hay không, hay người ta có hệ thống lý luận chặt chẽ rõ ràng.

b. Phê phán Vượng Suy Tân Phái 1 năm sau khi học thì xem vô cùng chuẩn xác, nhưng sau đó càng xem càng không ứng nghiệm. Thật ra không phải chỉ có Vượng Suy Tân Phái có hiện tượng này mà tất cả các môn huyền học đều có, kể cả bói Dịch. Qua trao đổi với một số vị đồng đạo thì có ý kiến cho rằng đây là do Tổ hoặc các vị Tiên Hiền, Hậu Hiền thử thách hậu học. Thời gian đầu khi mới bắt đầu nghiên cứu đều có hiện tượng xem gần như bách phát bách trúng, xem chuẩn xác một cách kì dị. Đó là các Vị ấy thử xem người này một khi có thành tựu thì có huênh hoang, tự đại xem thường đồng đạo hay đương số hay không; khi có thành tựu rồi thì cái tâm cầu đạo như thế nào, thành thật nghiên cứu hay cho mình là nhất, xem thường Tiên Hiền, Hậu Hiền; khi có thành tựu rồi thì có dựa vào đó mà mua danh, trục lợi hay không. Giai đoạn này nếu không qua được thì khó lòng mà nghiên cứu chuyên sâu, xem như chỉ dừng lại ở đây.

Tôi nói điều này không phải mê tín mà là từ thảo luận, quan sát những câu chuyện có thật ngoài đời của giới thuật số tại Sài Gòn. Cũng thấy có nhiều trường hợp không qua được mà vẫn cố bám víu nghiên cứu thì thường hay có nghĩ suy nghĩ lạ lùng, mất cân bằng, không theo thói thường.

c. Đối với Tử Bình Chân Tông Cách Cục Phái, tác giả có nhận xét là gân gà, nhiều qui tắc ứng dụng không công bố ra ngoài, không biết nội tình của môn phái này, nhưng vẫn đánh giá 4 sao.

d. Đối với bát tự Càn: Tân Mão – Đinh Dậu – Bính Tý – Nhâm Thìn. Tác giả Thấu Trường An cần phải dùng khẩu quyết đoán mệnh để đoán là hung mệnh. Tôi không cần dùng khẩu quyết mà chỉ dùng Vượng Suy cùng ngũ hành cơ bản cũng có thể đoán là hung mệnh như sau. Mệnh Bính sinh trọng thu tháng Dậu: thất tiết. Bát tự Nhâm – Tý – Thìn Sát cục nhập mệnh cung, trực chỉ khắc Bính. Tháng Dậu kim vượng xung tán Ấn Mão, Đinh Bính vô căn. Đây là mệnh thất tiết, thất thời, thất địa, thất thế, lại vô căn, là rất nhược. Sát thần nhập mệnh cung không có chế hoá, Tài Quan lại động mà hoành hành. Bệnh thì trọng, mà bát tự không thấy giải dược là hung mệnh.

Ngoài ra, dùng đoán ngữ như tác giả có lẽ không đoán được bệnh tim, nhưng dùng Vượng Suy lại thấy rõ bệnh tim. Vì không biết rõ ngày sinh dương lịch nên tôi lấy tiểu vận luận đoán, vì 1 tuổi khởi vận tính chung chung thì chiếm 10% các lá số Tử Bình, nên không biết giờ dương lịch mà lấy tiểu vận năm 1 tuổi thì xác suất hợp lý là 80-90%. Lấy tiểu vận năm 1 tuổi Tân Mão. Tân – Bính – Tý – Thìn – Nhâm hoá thuỷ cách. Toàn cục dụng hỷ đảo lộn. Mệnh thấu Đinh hoả vô căn, lại không có thông quan (hai Mão không phát huy tác dụng thông quan) thì bệnh về mắt, về tim, về khí huyết. Trích Thiên Tuỷ có ví dụ nói rất rõ: tòng vượng thuỷ mà thấy Tài (hoả), lại không có thông quan cứu giải thì dễ bị đui mù. Ở đây Đinh ứng vào mắt, vào tim. Lại nhìn vị trí của nó trong bố cục bát tự thì biết ở phần đầu hay phần ngực.

Tôi nói đây không phải để chê bai, hay ganh đua mà để thấy Vượng Suy vẫn luận được như bình thường và luận dễ dàng chứ không hề khó khăn.

d. Kết luận: tôi vẫn có cảm nhận những lưu phái nào tác giả sử dụng được thì được đánh giá cao, không sử dụng được thì bị đánh giá thấp. Ở đây theo ý kiến của tôi thì vấn đề nằm ở cái phúc duyên của mình là ở lưu phái nào mà thôi. Tức mình có duyên với lưu phái nào của Tử Bình. Bởi vì đa số các sách người ta chỉ công bố phần mệnh pháp, quá lắm là tượng pháp, còn phần kỹ pháp đa số đều giấu. Nếu muốn nhận xét một lưu phái nào một cách chính xác thì cần nắm những kĩ pháp bí truyền của lưu phái đó thì mới biết thực chất sức mạnh của nó.

e. Cảm nhận cuối cùng: hiện nay tôi thấy có hiện tượng rộ lên là đả phá Vượng Suy Phái và Manh Phái, lại đề cao Hình Khí là toàn năng. Ví dụ cho rằng Vượng Suy lấy nhật chủ làm điểm thái cực là sai lầm, hoặc Manh Phái chỉ xem được chuẩn những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống mà không xem được những “sự kiện lớn”, còn Hình Khí là hoàn thiện nhất, không hề có kẽ hở. Khi nghe những lí luận này tôi thật sự hoang mang, không biết chuyện gì đang xảy ra trong giới học thuật Tử Bình Việt Nam. Hôm qua ngồi lướt web về ông Thái Tích Quỳnh tôi tình cờ đọc được bài này. Có thể thấy rõ những lập luận trên của các vị Tử Bình Việt Nam có sự ăn khớp kì dị với lập luận của tác giả Thấu Trường An trong bài này. Tôi ngờ rằng những lập luận kì dị, cực đoan như vậy là từ bài này mà ra, đọc nhưng không công bố rồi xem nó như trân bảo. Tôi cảm thấy chúng ta nên cẩn thận mà đọc, đọc rồi nên đi kiểm nghiệm thực tế một chút thì hơn.

(Nguồn: sưu tầm)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Các lưu phái trong mệnh lý bát tự

Công bố: 25/04/2015

Tác giả: Thấu Trường An

Phỏng dịch: Thiên Khánh

Giới Dịch học là một giới học thuật có tính qui phạm thấp khi thảo luận bởi vì học thuật mệnh lý được truyền thừa từ trăm nghìn năm qua, lý luận học thuật liên tục bị lật đổ và và hoàn thiện, thành ra không có một đáp án cố định hoặc một tiêu chuẩn nào. Hơn nữa bản thân cũng khó được quốc gia trân trọng và bảo hộ. Cho nên trong giới Dịch học, việc tranh luận là rất thường xuyên, từ đó đồng thời cũng xuất hiện rất nhiều lưu phái.

Bên dưới trình bày và giới thiệu một vài lưu phái tương đối nổi tiếng của mệnh lý bát tự cùng với đánh giá về các lưu phái này.

Về cơ bản, các môn phải mệnh lý hiện đang lưu hành tôi đều học qua và dùng qua. Ở bài này tôi sẽ giới thiệu đơn giản, và để cử một vài sách nhập môn để thuận tiện cho người mới học. Chủ yếu tôi đề cử những tác phẩm hiện đại, còn sách của cổ nhân thì sợ nhiều người đọc không thông. Tuy nhiên, học đến thời điểm nhất định đều phải quay lại đọc những tác phẩm cổ này.

Một: Manh phái

Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hoà Quyền. Do tiên sinh Đoàn Kiến nghiệp cầm đầu khai sáng ra phương pháp đoán mệnh Manh Phái. Thật ra Manh Phái Đoàn Kiến Nghiệp từ lâu đã thoát ly Manh Phái nguyên thuỷ, mà mang đầy tính thương nghiệp mì ăn liền. Tôi nghĩ những manh nhân hành tẩu giang hồ xưa kia chắc cũng không biết có một môn phái của chính mình. Nghe nói tiên sinh Đoàn Kiến Nghiệp được thân truyền của cao thủ manh nhân Hác Kim Dương, học được một số đại pháp độc môn, nên đã phát triển lý luận phân tách rạch ròi với lưu phái vượng suy đã có từ trước đó. Tiên sinh Đoàn Kiến Nghiệp sáng tạo ra các khái niệm tố công, xuyên, chế, khách chủ, và binh tặc thần. Những khái niệm này kỳ thật cũng chỉ là một chút kỹ pháp của Tử Bình, nay đem ra trau chuốt lại, cho vào bao bì mới. Hác Kim Dương, Hạ Trọng Kỳ đều được miêu tả như thần tiên, cao cao cao thủ, lợi hại có thể ví như Tây Môn Xuy Tuyết, nhưng không có người nào từng thấy các vị này ra tay xem bói, hoặc là những người từng thấy qua thì nay đều đã qua đời. Tôi thích ví von phái này là Thái Bình Thiên Quốc trong mệnh học giang hồ. Mọi người đều bị Hồng Tú Tài, nhân danh người phát ngôn của Thiên Chủ, sai phái, giật dây. Thử hỏi ai từng thấy qua Thiên Chủ? Thiên Chủ đến cùng có lợi hại như lời đồn? Chỉ sợ chỉ có bản thân Hồng Tú Tài mới biết được.

Nhân vật đại biểu: Đoàn Kiến Nghiệp, Hình Tú Phân, Đỗ Hữu Tài.

Sách đề cử: Mệnh Lý Trân Bảo (Đoàn Kiến Nghiệp), Bát Tự Manh Phái Giáo trình (Hình Tú Phân)

Chỉ số đánh giá: ☆ Ngoại trừ ý hướng Thập Thần, Can Chi nguyên tượng, Thập Thần tượng ý thì những cái khác đều không đáng giá.

Hai: Hình Phái

Thật ra đây mới thật sự là Manh Phái. Rất nhiều khẩu quyết có nguồn gốc từ cân tương bổn (loại sách thời xưa, có khổ nhỏ thường bằng cái khăn tay hoặc cái khăn buộc trên đầu thư sinh, để tiện mang theo – Thiên Khánh) và các ghi chép bí mật lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên lại cùng với Manh Phái đề cập phía trên thuộc hai lưu phái khác nhau. Tôi tự đặt tên cho phái này là Hình Phái. Lưu phái này có đặc điểm là thiết đoán trực đoán (luận đoán chắc chắn, cụ thể, sắc nét – Thiên Khánh). Trực tiếp căn cứ vào hình tượng của tổ hợp can chi trong tứ trụ mà đoán sự kiện lớn. Thường thường có thể trực chỉ chỗ đau nhất của người đến nhờ luận đoán (nhất châm kiến huyết – Thiên Khánh). Như cách đây mấy ngày cùng các sư huynh đệ thảo luận bát tự Nam: Tân Mão – Đinh Dậu – Bính Tý – Nhâm Thìn. Không cần phân tích cách cục, ngũ hành mà trực tiếp căn cứ vào mẫu pháp Hình Phái, bát tự có tổ hợp “song xung lại song hợp, mệnh hung chết yểu” thì liền có thể đoán là mệnh đại hung, gọn gàng dứt khoát. Đứa bé trai này vừa sinh ra đời là đã bị bệnh tim, nguy tại sớm tối. Sang năm đối hiện song hợp, hiển nhiên là sinh tử quan khẩu. Rất nhiều lý luận Hình Phái đều có nguồn gốc từ những quyết khiếu khẩu truyền tâm thuật của giới Manh Sư. Hậu học đều không hiểu phải giải thích những quyết khiếu này cụ thể như thế nào, thành ra khả năng học thuộc lòng là rất quan trọng.

Nhân vật đại biểu: Lương Tương Nhuận.

Sách đề cử: Tử Bình Mẫu Pháp Hệ Liệt (Lương Tương Nhuận)

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆☆ Nội dung phức tạp. Ngôn ngữ dông dài, thật giả hỗn tạp, nếu đem làm tài liệu giảng dạy thì rất khó nhìn rõ đầu mối. Tuy nhiên muốn trở thành cao thủ nhất định phải đọc.

Ba: Vượng Suy

Dùng vượng suy của nhật can để làm tiêu chuẩn phán đoán bát tự. Ví dụ như, thiên can là mộc, sinh vào mùa xuân liền vượng. Nếu như lại có Ấn tinh đến sinh, Tỷ Kiếp trợ, thì có thể xác định nó tương đối vượng. Đó là căn cứ theo phép cân bằng. Nhật chủ vượng thì dụng Tài, Quan, Sát, Thực, Thương. Nhược thì cần trợ giúp, dụng Ấn, Tỷ chẳng hạn. Bên trong Vượng Suy lại phân hai phái khác nhau.

1. Tích Thiên Phái: như ông tiên sinh hay nói giáo điều. Thật ra thì tôi thích gọi phái này là phái truyền thống. Hiện nay phái truyền thống chủ yếu là chỉ cùng một loại Tử Bình, cho nên để dễ phân biệt, tôi gọi phái này là Tích Thiên Phái. Thánh điển của bọn họ là quyển Tích Thiên Tuỷ do Nhậm Thiết Tiều chú thích. Hiện tại các đại sư xuất hiện sau Thiệu Vỹ Hoa và trước Lý Hàm Thần đều cơ bản là thuộc phái này.

Đặc điểm: kết luận mơ hồ, thích dùng Tích Thiên thể. Ví dụ như Giáp mộc sinh trọng xuân, thân vượng không thể nghi ngờ; thích nhất là thời trụ thấu Bính hoả Thực Thần tiết tú. Địa chi thanh khí quấn quanh. (Thật ra chính họ có biết thanh khí là gì hay không đều rất khó nói.)

Đề cử sách: người thuần theo phái Tích Thiên hiện tại rất ít. Sách có Tứ Trụ Tường Thuật (Khúc Vỹ). Ngoại trừ sách vở truyền thống, phái này cũng dung hợp nhiều kỹ pháp khác có thể đọc thử.

Chỉ số đánh giá: ☆ Định tính mơ hồ, quá ỷ lại linh cảm. Tích Thiên Tuỷ là bộ sách kinh điển mà người học mệnh lý nào đều phải đọc qua. Bất quá, chú giải của Nhậm Thiết Tiều có thể có nhiều sai lầm, chỉ đề nghị đọc Tích Thiên Tuỷ nguyên văn thì sẽ tốt hơn.

2. Tân Phái: cải cách phá bỏ cái cũ. Do Lý Hàm Thuần ở Sơn Đông phát minh và khởi xướng. Đối với người không có căn bản Dịch học hoặc Quốc học, nhập môn vô cùng nhanh, hiệu quả cũng rất rõ ràng. Đặc điểm thứ nhất của phái này là công thức hoá Vượng Suy. Thứ hai là mô thức một đi với một thành tượng. Bình thường mà nói, một năm đầu sau khi học xong thì ứng dụng rất tốt, về sau càng dùng thì xác suất đúng càng thấp. Phái này phủ định Thần Sát, cũng không dùng địa chi tương hại, tương phá truyền thống, chỉ còn lại các quan hệ đơn giản như sinh, khắc, tổn hao. Tân Phái quật khởi có thể ví von như là vận động cải cách văn hoá, giống như một đám người điên ý đồ muốn lật đổ truyền thống văn hoá truyền thừa ngàn năm.

Hệ thống suy đoán của Tân Phái vô cùng đơn giản, về cơ bản thì người người đều có thể học được trong thời gian ngắn. Ví dụ như nguyệt lệnh quyết định vượng suy 50 phần trăm. Nhật chi đối với nhật can có quan hệ trợ giúp chẳng hạn. Các đoán ngữ thường dùng cũng rất cứng nhắc. Như Quan thượng thì cát, Ấn thượng thì hung. Chỉ cần nhìn phương pháp luận đoán của họ như đã đề cập phía trên thì có thể nhìn ra vấn đề.

Nhân vật đại biểu: Lý Hàm Thần, Chúc Quốc Anh, Tịch Học Dị.

Đề cử sách: Bát Tự Dự Đoán Chân Tông (Lý Hàm Thần)

Chỉ số đánh giá: ☆☆ Đặc biệt thích hợp cho người mới học, nhưng học xong nhất định phải vứt bỏ như giày rách.

Bốn: Lộc Mệnh Phái

Phái này là phái luận mệnh cực kì theo lối cổ, lấy niên làm chủ, nạp âm, thần sát, 12 cung trường sinh là lý luận chủ yếu. Từ trước dùng phương pháp này rất ít người. Tôi chỉ thấy qua Ngũ Hành Diễn Nghĩa tại diễn đàn Long Ấn, có vận dụng Nguyên Hanh của cổ Dịch. Hiện tại cũng không còn thấy có ai có lưu giữ sách loại này. Nếu có hứng thú, có thể nhìn xem các cổ thư như Lý Hư Trung Mệnh Thư, Tinh Mệnh Quyết Cổ Lục.

Chỉ số đánh giá: không hiểu rõ nên không dám vội kết luận.

Năm: Cách Cục Phái

Đây là pháp đoán mệnh Đại Tông, trước đây là thủ pháp đoán mệnh chủ lưu, có thể ứng đối đến 70 phần trăm trở lên các nội dung dự trắc bát tự. Căn cứ các sách Tam Mệnh Thông Hội, Uyên Hải Tử Bình, Tử Bình Chân Thuyên mà ngộ ra. Hiện tại có ba phái nhỏ chủ yếu:

1. Nguyệt Lệnh Cách Cục Phái:

Trực tiếp lấy nguyệt lệnh chủ khí (thấu can hay không không quan trọng) để lấy cách cục. Quan Ấn Tài Thực thuận dụng, Sát Kiêu Kiếp Thương nghịch dụng.

Nhân vật đại biểu: Từ Vỹ Cương.

Đề cử sách: Bát Tự Chính Giải Tử Bình Thuật Tinh Tích.

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆ Có căn cứ ở nhiều sách kinh điển, mà quyển sách này cũng viết không tệ, nội dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu. Nhưng trực tiếp dùng nguyệt lệnh làm cách cục thì có một chút lẫn lộn thập thần luận mệnh với tứ thời ngũ hành. Nhưng xác thực Tam Mệnh Thông Hội chính là viết như vậy, vô cùng trung thành với nội dung kinh điển.

2. Nguyệt Lệnh Thấu Can Cách Cục Phái

Phái này tôn sùng Tử Bình Chân Thuyên, coi trọng nguyệt lệnh thấu can, lấy đó mà định cách cục. Còn những nguyên tắc luận mệnh khác thì không sai biệt lắm so với Nguyệt Lệnh Cách Cục Phái.

Nhân vật đại biểu: Hoàng Đại Lục.

Đề cử sách: Mệnh Lý Biên Học Biên Liêu

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆ Có căn cứ ở sách kinh điển, cũng trung thành với nội dung kinh điển, tính logic cũng cao. Nhưng đối với nghĩa gốc của Tử Bình Chân Thuyên thì chưa hoàn toàn hiểu thấu.

3. Tử Bình Chân Tông Cách Cục Phái

Căn cứ vào nhân nguyên ti lệnh tại nguyệt lệnh thấu can hay không, lại đem bát tự phân thành cách và cục để luận riêng biệt. Căn cứ vào hiệu quả ứng dụng cùng với độ chuẩn xác thì phái này cao hơn hai phái còn lại nhiều.

Nhân vật đại biểu: Thuỷ Uông Uông, Ngai Quỷ.

Đề cử sách: không có sách xuất bản, có tư liệu rải rác trên mạng.

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆ Có khả năng chưa có sách nào nói đến thuật xem mệnh này nhưng thực tiễn ứng dụng không tệ, độ chính xác tương đối cao, rất nhiều qui tắc ứng dụng không công bố ra ngoài, không biết nội tình, học rồi thì thấy như gân gà (bỏ thì thương, vương thì tội – Thiên Khánh). Cá biệt có những khẩu quyết so với nội dung kinh điển có cải biến quá lớn, nên khó mà làm cho người tin phục.

4. Thấu Phái Cách Cục:

Ha ha. Phái này chỉ có tôi một người ứng dụng để luận, đoán chừng về sau sẽ có học trò của tôi sử dụng. Đương nhiên, nếu có người cảm thấy lý luận phù hợp đạo lý thì có thể sử dụng. Thấu Phái Cách Cục giảng giải về tiền minh đạo, theo nguyên tắc nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà tiến hành lấy hay bỏ thiên can. Sau đó phân biệt tìm kiếm địa đạo và nhân đạo mà duy trì. Còn những nguyên tắc nhỏ bên trong thì không thích hợp nói ra. Những lý luận này phù hợp với bản thân tôi không có nghĩa là phù hợp với tất cả mọi người. Cho nên tôi quyết định thử dạy vài học trò xem mệnh bằng phương pháp này, thử xem họ ứng dụng có tốt hay không tốt. Nếu như mọi người đều cảm thấy ứng dụng tốt, tôi sẽ cân nhắc việc hệ thống hoá lý luận này.

Nhân vật đại biểu: Thấu Trường An.

Chỉ số đánh giá: tạm thời không đề cử, ai thích thì dùng.

Sáu: Cùng Thông Phái

Chủ yếu căn cứ vào Cùng Thông Bảo Giám để luận mệnh. Nghiêm ngặt mà nói thì Cùng Thông Phái không tính là một cái đơn lẻ lưu phái. Cùng Thông Bảo Giám cũng không phải một pháp tắc đặc biệt ghê gớm. Tuy nhiên, nếu muốn trở thành cao thủ luận mệnh thì nhất định phải qua một ải này. Phái này chủ yếu có nguồn gốc từ những cảm ngộ đối với tự nhiên vạn tượng, từ đó mà trực tiếp vận dụng cho bát tự, cũng chính là cảnh giới thiên nhân hợp nhất cao tầng. Trong nước dùng thủ pháp này thành thạo nhất phải kể đến lão sư Thái Tích Quỳnh.

Nhân vật đại biểu: Bành Khang Dân, Thái Tích Quỳnh.

Đề cử sách: Thập Can Tinh Vi (Thái Tích Quỳnh).

Chỉ số đánh giá: ☆☆☆☆☆ Người mới học nên nghiên cứu cẩn thận. Nếu muốn trở thành cao thủ nhất định phải học.

Phía trên đã giới thiệu đơn giản các lưu phái khá nổi tiếng trong mệnh lý bát tự. Nói tóm lại, mặc dù lưu phái khác biệt, nhưng giữa chúng cũng không có xung đột. Chỉ bất quá là phương hướng nghiên cứu không giống nhau mà thôi. Cần phải biết, Dịch học là một thế giới học thuật vô cùng rộng lớn, nghiên cứu một phương diện là quý hồ tinh, nhưng nếu có thể dung hợp nhiều lưu phái sử dụng, thì nghiên cứu mệnh lý lại càng thêm chuẩn xác.

——-

Cảm nhận:

(1) Tác giả Thấu Trường An qua bài viết này là người khá chừng mực, có tự trọng. Các lưu phái không tán đồng thì cũng phủ định nhẹ nhàng, lưu phái của bản thân lập ra thì không dám đánh giá, để mọi người tự đánh giá. Nói chung là có liêm sỉ cao, là người đáng trọng, không đạp lên người khác để ca ngợi lưu phái của mình.

(2) Tuy nhiên, trong bài viết cũng có một số điểm sơ hở mà nhìn “mắt thường”, hoặc cái đầu logic thông thường cũng có thể nhận ra. Ví dụ:

a. Phê phán Tích Thiên Phái “quá ỷ lại linh cảm” nhưng lại đề cao Cùng Thông Phái “cảnh giới thiên nhân hợp nhất”. Lần sau nếu có cơ duyên tôi sẽ phân tích thử 1 bài luận mệnh của Cùng Thông Phái xem có phải là huyền bí “thiên nhân hợp nhất” hay không, hay người ta có hệ thống lý luận chặt chẽ rõ ràng.

b. Phê phán Vượng Suy Tân Phái 1 năm sau khi học thì xem vô cùng chuẩn xác, nhưng sau đó càng xem càng không ứng nghiệm. Thật ra không phải chỉ có Vượng Suy Tân Phái có hiện tượng này mà tất cả các môn huyền học đều có, kể cả bói Dịch. Qua trao đổi với một số vị đồng đạo thì có ý kiến cho rằng đây là do Tổ hoặc các vị Tiên Hiền, Hậu Hiền thử thách hậu học. Thời gian đầu khi mới bắt đầu nghiên cứu đều có hiện tượng xem gần như bách phát bách trúng, xem chuẩn xác một cách kì dị. Đó là các Vị ấy thử xem người này một khi có thành tựu thì có huênh hoang, tự đại xem thường đồng đạo hay đương số hay không; khi có thành tựu rồi thì cái tâm cầu đạo như thế nào, thành thật nghiên cứu hay cho mình là nhất, xem thường Tiên Hiền, Hậu Hiền; khi có thành tựu rồi thì có dựa vào đó mà mua danh, trục lợi hay không. Giai đoạn này nếu không qua được thì khó lòng mà nghiên cứu chuyên sâu, xem như chỉ dừng lại ở đây.

Tôi nói điều này không phải mê tín mà là từ thảo luận, quan sát những câu chuyện có thật ngoài đời của giới thuật số tại Sài Gòn. Cũng thấy có nhiều trường hợp không qua được mà vẫn cố bám víu nghiên cứu thì thường hay có nghĩ suy nghĩ lạ lùng, mất cân bằng, không theo thói thường.

c. Đối với Tử Bình Chân Tông Cách Cục Phái, tác giả có nhận xét là gân gà, nhiều qui tắc ứng dụng không công bố ra ngoài, không biết nội tình của môn phái này, nhưng vẫn đánh giá 4 sao.

d. Đối với bát tự Càn: Tân Mão – Đinh Dậu – Bính Tý – Nhâm Thìn. Tác giả Thấu Trường An cần phải dùng khẩu quyết đoán mệnh để đoán là hung mệnh. Tôi không cần dùng khẩu quyết mà chỉ dùng Vượng Suy cùng ngũ hành cơ bản cũng có thể đoán là hung mệnh như sau. Mệnh Bính sinh trọng thu tháng Dậu: thất tiết. Bát tự Nhâm – Tý – Thìn Sát cục nhập mệnh cung, trực chỉ khắc Bính. Tháng Dậu kim vượng xung tán Ấn Mão, Đinh Bính vô căn. Đây là mệnh thất tiết, thất thời, thất địa, thất thế, lại vô căn, là rất nhược. Sát thần nhập mệnh cung không có chế hoá, Tài Quan lại động mà hoành hành. Bệnh thì trọng, mà bát tự không thấy giải dược là hung mệnh.

Ngoài ra, dùng đoán ngữ như tác giả có lẽ không đoán được bệnh tim, nhưng dùng Vượng Suy lại thấy rõ bệnh tim. Vì không biết rõ ngày sinh dương lịch nên tôi lấy tiểu vận luận đoán, vì 1 tuổi khởi vận tính chung chung thì chiếm 10% các lá số Tử Bình, nên không biết giờ dương lịch mà lấy tiểu vận năm 1 tuổi thì xác suất hợp lý là 80-90%. Lấy tiểu vận năm 1 tuổi Tân Mão. Tân – Bính – Tý – Thìn – Nhâm hoá thuỷ cách. Toàn cục dụng hỷ đảo lộn. Mệnh thấu Đinh hoả vô căn, lại không có thông quan (hai Mão không phát huy tác dụng thông quan) thì bệnh về mắt, về tim, về khí huyết. Trích Thiên Tuỷ có ví dụ nói rất rõ: tòng vượng thuỷ mà thấy Tài (hoả), lại không có thông quan cứu giải thì dễ bị đui mù. Ở đây Đinh ứng vào mắt, vào tim. Lại nhìn vị trí của nó trong bố cục bát tự thì biết ở phần đầu hay phần ngực.

Tôi nói đây không phải để chê bai, hay ganh đua mà để thấy Vượng Suy vẫn luận được như bình thường và luận dễ dàng chứ không hề khó khăn.

d. Kết luận: tôi vẫn có cảm nhận những lưu phái nào tác giả sử dụng được thì được đánh giá cao, không sử dụng được thì bị đánh giá thấp. Ở đây theo ý kiến của tôi thì vấn đề nằm ở cái phúc duyên của mình là ở lưu phái nào mà thôi. Tức mình có duyên với lưu phái nào của Tử Bình. Bởi vì đa số các sách người ta chỉ công bố phần mệnh pháp, quá lắm là tượng pháp, còn phần kỹ pháp đa số đều giấu. Nếu muốn nhận xét một lưu phái nào một cách chính xác thì cần nắm những kĩ pháp bí truyền của lưu phái đó thì mới biết thực chất sức mạnh của nó.

e. Cảm nhận cuối cùng: hiện nay tôi thấy có hiện tượng rộ lên là đả phá Vượng Suy Phái và Manh Phái, lại đề cao Hình Khí là toàn năng. Ví dụ cho rằng Vượng Suy lấy nhật chủ làm điểm thái cực là sai lầm, hoặc Manh Phái chỉ xem được chuẩn những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống mà không xem được những “sự kiện lớn”, còn Hình Khí là hoàn thiện nhất, không hề có kẽ hở. Khi nghe những lí luận này tôi thật sự hoang mang, không biết chuyện gì đang xảy ra trong giới học thuật Tử Bình Việt Nam. Hôm qua ngồi lướt web về ông Thái Tích Quỳnh tôi tình cờ đọc được bài này. Có thể thấy rõ những lập luận trên của các vị Tử Bình Việt Nam có sự ăn khớp kì dị với lập luận của tác giả Thấu Trường An trong bài này. Tôi ngờ rằng những lập luận kì dị, cực đoan như vậy là từ bài này mà ra, đọc nhưng không công bố rồi xem nó như trân bảo. Tôi cảm thấy chúng ta nên cẩn thận mà đọc, đọc rồi nên đi kiểm nghiệm thực tế một chút thì hơn.

(Nguồn: sưu tầm)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button