Tử vi

Các nguyên tắc Tứ Hóa và áp dụng

Lúc hoạt bàn của mệnh bàn Tử Vi Đẩu Số chuyển động, tin rằng nhiều người nghiên cứu Đẩu Số, thậm chí kể cả một số người thuộc vào hàng “tiền bối”, đều bị “đại vận” và “lưu niên” gây khó khăn, mà nguyên nhân khiến cho người ta rối loạn là “tứ hóa”; hơn nữa, đại đa số các sách Từ Vi Đẩu Số đều ít khi đề cập một cách rõ ràng phương pháp luận đoán đại vận và lưu niên, dẫn đến tình trạng bị tứ hóa [năm sinh], tứ hóa [đại vận] và tứ hóa [lưu niên] làm cho hoa mắt, đến lúc “tự hóa” và “phi hóa” xuất hiện gây rối loạn, thì nhiều người đành buông tay, cho nên số người học Từ Vi Đẩu Số bỏ dỡ nửa chừng nhiều hơn người học Tứ Trụ Tử Bình.

Một số người nghiên cứu Tứ Hóa phái, trong quá trình suy đoán đã quên mất sự tồn tại của các sao trong cung mệnh, chi tập trung vào các sao của đại vận, nên không thể định vị cho tính chất của các sao ở đại vận, đó là chưa nói tới các sao của cung hạn lưu niên. Tứ hóa có cơ chế của chúng, các sao cũng có sự phân biệt về tác dụng. Trước khi luận giải về đại vận, xin các bạn ghi nhớ các điều sau đây:

  1. Lực tác động của Hóa KỊ [năm sinh] được thu vào “ngã cung”, tức là nói, Hóa KỊ rơi vào “ngã cung” sẽ không tái “phi xuất”.
  2. Có tứ hóa [năm sinh] ờ trong cung mới phải xem xét hiện tượng can cung phi hóa hay tự hóa.
  3. Can cung đại vận khiến Hóa Kị nhập “ngã cung”, cũng thuộc trường hợp “thu vào” mà không tái phi xuất!
  4. Các sao trong cung đại vận được xem “hiện tượng”, cũng có thể xem là “hóa khí” trong phần “hình phú”, công dụng của chúng là làm tăng hay giảm tác dụng của các sao trong cung của nguyên cục, chớ không phải mang toàn bộ tính chất “hình phú” của các sao trong cung nguyên cục dời sang cung đại vận.
  5. Nếu Hóa Kị ở “ngã cung”, gặp can cung dẫn phát tự Hóa Kị, cũng không có hiện tượng “phi xuất”, mà chỉ tìm hiểu hiện tượng Hóa KỊ lại tự Hóa Kị, mà không xung kích đối cung; nếu tự Hóa Lộc, tự hóa Quyền, hay tự Hóa Khoa cũng theo nguyên tắc này.

Tứ Hóa phái chia mệnh bàn thành ba loại: thiên bàn, địa bàn, nhân bàn; gọi là thiên bàn, tức mệnh bàn nguyên cục trong trạng thái tĩnh, còn địa bàn là đại vận bàn, lấy can cung để định phạm vi giới hạn thời gian 10 năm đó. Nói một cách khác, sau khi đặt can cung cho “địa bàn” mới gọi là “đại vận bàn”. Xin cử ví dụ, phạm vi “Liêm Trinh, Thất Sát” của can cung Kỉ Sửu nhất định là khác với phạm vi “Liêm Trinh, Thất Sát” của can cung Tân Sửu. Lấy can cung để định phạm vi giới hạn của đại vận này, cho nên, lúc ông A Thiên Đồng thù mệnh ở cung Dậu đi thuận theo hướng chiều kim đồng hồ đến đại vận “Liêm Trinh, Thất Sát”, và ông B Thiên Đồng thủ mệnh ở cung Thìn đi nghịch chiều kim đồng hồ đến đại vận “Liêm Trinh, Thất Sát”, hai người sẽ có cuộc sống hoàn toàn khác nhau, cát hung họa phúc cũng khác nhau một trời một vực. Xin đừng thấy địa bàn “Liêm Trinh, Thất Sát” thì lập tức đưa ra lời đoán, mà phải xem xét ảnh hường của tứ hóa [đại vận], và xem xét sự liên quan giữa các cung của đại vận với thiên bàn. Thông thường người ta dễ bị các sao HỎa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La bài bố ở thiên bàn làm cho rối loạn, nhưng thực ra không nhất định đại vận bàn sẽ bị các hung tinh này kiềm chế hoặc bị gây tổn hại.

Bạn đang xem: Các nguyên tắc Tứ Hóa và áp dụng

Nhân bàn tức là lưu niên bàn, lấy lưu niên Kỉ Sửu (2009) làm ví dụ. Năm đó mỗi cá nhân sẽ lấy các sao ở cung Kỉ Sửu (là xạ ảnh của các sao ở thiên bản, chớ không phải bản thân các sao ở thiên bàn, và cũng không liên quan gì đến tứ hóa [năm sinh]) để ứng nghiệm kết quả giao nhau của tứ hóa thiên bàn và tứ hóa địa bàn (giả thiết các sao tứ hóa của thiên bàn và các sao tứ hóa của địa bàn có tác động lẫn nhau), nhưng tứ hóa nhân bàn chỉ có thể hường úng tứ hóa địa bàn, mà không thể vượt ba cấp tác động trực tiếp đến các sao của thiên bàn, trừ phi địa bàn và thiên bàn có quan hệ tam phương tứ chính hoặc các sao tứ hóa tác động lẫn nhau, mới xét đến sự tác động lẫn nhau giữa tam bàn thiên địa nhân.

Giả thiết cung Sửu có Liêm Trinh Hóa Kị, Thất Sát (sinh năm Bính, cho nên Liêm Trinh Hóa Kị); lúc đến lưu niên Kỉ Sửu, như vậy cung mệnh của lưu niên nhập cung Sửu, sẽ thấy Liêm Trinh Hóa Kị [năm sinh] ở trong cung, nhưng đây là thuộc vê vận thế lưu niên, vì vậy ‘Xiêm Trinh, Thất Sát” không bị ảnh hưởng của Hóa Kị [năm sinh]. Nhưng giả thiết can cung đại vận là Bính, khiến Liêm Trinh lại Hóa KỊ. Như vậy lúc bước vào lưu niên Kỉ Sửu, mệnh tạo phải chịu ảnh hưởng của Liêm Trinh song Hóa Kị, vận thế sẽ biến động thay đôi kịch liệt. Trong tinh trạng này, cần phải xem xét Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] ở cung nào. Giả thiết Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] đều ở “ngã cung” của địa bàn hoặc thiên bàn, như vậy có thể đoán năm đó có thu hoạch lớn. Nếu không phải vậy, thì phải xem Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] ả đâu (là “ngã cung” hay “tha cung” của thiên bàn và địa bàn), mới có thể đoán sự cố gì sẽ xảy ra. Nếu dự đoán là hung, thì phải truy tìm cung có Hóa Khoa [đại vận] tọa lạc, để tính xem năng lực hóa giải tai ách mạnh hay yếu!

Lúc gặp song Hóa Kị xuất hiện ở cung mệnh, cung quan lộc, hay cung tài bạch của lưu niên, mói có tác dụng trực tiếp. Thông thường, nếu tứ hóa [lưu niên] không nhập cung có song Hóa Kị, thì có thể “an nhiên” vượt qua! Dù bị áp lực song Hóa Kị (Hóa Kị [năm sinh] và Hóa Kị [đại vận]), đối với lưu niên mà nói, đây là áp lực từ “thể” sinh ra (thiên bàn là thể, đại vận là dụng, đối với lưu niên thì đại vận là thể, lưu niên là dụng). Cho nên dù tiếp xúc trực tiếp vân không đến nỗi nào, vì “thể” tác động đến “dụng” có sức ảnh hưởng nhò hơn “dụng” tác động đến “thể”. Nói một cách khác, hung thật sự là lúc Hóa Kị [lưu niên] xung phá Hóa Lộc [đại vận], tình huống này mới nghiêm trọng!

Ví dụ, can cung tài bạch của đại vận khiến Hóa Kị xung cung tài bạch của thiên bàn, về lí thuyết, là nghiêm trọng, vì “dụng xung thể”. Cho nên lúc lưu niên nhập cung có Hóa Kị, phần nhiều sẽ xảy ra tôn thất về tài chính (lúc luận mệnh, cần phải thận trọng, phải xem xét can cung tài bạch của đại vận phi Hóa Lộc nhập cung nào, để biết nguyên nhân của tình trạng tiền bạc được mất, tốt xấu; còn phải mang cung đại vận sở tại quy về thiên bàn để tra xét sự việc liên quan, vậy mới là trình tự luận giải đúng cách!) Trong Tử Vi Đẩu Số Tứ Hóa phái, trường hợp “dụng xung thể” đều xem là sự cố nghiêm trọng.

Lúc lưu niên nhập cung có Hóa KỊ [đại vận], thường thường đây là thời điểm xảy ra sự cố; còn lúc lưu niên nhập cung bị Hóa KỊ [đại vận] xung, đây thường là thời kì cuối của sự cố. Vê lí thuyết, đó là “thể xung dụng”. ,

Theo lí thuyết của Tứ Hóa phái, cùng loại tương xung là hung (ví dụ, Hóa KỊ [đại vận] ở cung mệnh của đại vận xung cung mệnh của thiên bàn, Hóa Kị [đại vận] ở cung quan lộc của đại vận xung cung quan lộc của thiên bàn. Lúc lưu niên nhập cung có Hóa KỊ [đại vận], là năm xảy ra sự cố, lưu niên nhập cung bị Hóa Kị [đại vận] xung, đây là năm từ thịnh đã thành suy). Nhưng, giả thiết không phải là cùng loại tương xung, thông thường cung bị Hóa Kị [đại vận] xung (ví dụ Hóa Kị [đại vận] nhập cung Dậu, cung bị Hóa Kị xung là cung Mão, lúc lưu niên nhập cung Mão, đó là năm bị xung kích), cũng là năm xảy ra sự cố (cung bị xung sinh ra tự hóa là chuyện tốt, ít nhất đây cũng là lực đ’ê kháng thực hiện được chức trách, thậm chí là tự Hóa Kị cũng không phải là hoàn toàn xấu, mà thường thường chủ về đã trừ được họa căn).

*

Lấy cung mệnh (nguyên cục) làm “chủ thể” để luận giải, tác động của các sao ở đại vận sẽ làm tăng thêm hay giảm bớt tính chất của các sao ở cung mệnh (nguyên cục), để tiếp nhận thử thách của Thái Tuế lưu niên mỗi năm. Lúc đại vận xuất hiện kết cấu sao làm tăng mạnh tính chất của các sao ở cung mệnh, như vậy đại vận này là hành hạn có thể nâng mệnh tạo lên; ngay cả lúc Thái Tuế lưu niên bất lợi, cũng không đến nỗi xảy ra lực phá hoại nghiêm trọng đối với mệnh tạo. Vì mệnh bàn nguyên cục đã được nâng lên một cấp khác, bị xung kích cũng không đến nỗi khiến mệnh tạo mất hết sức mạnh, nhiều lúc còn biến thành tác nhân gây kích thích và làm cho mệnh chủ phấn chấn hơn. Lúc đại vận có lợi cho cung mệnh, còn lưu niên thì như gấm thêu hoa, vậy năm này sẽ có hi sự liên miên!

Lúc tổ hợp sao của đại vận mang lại hiệu ứng xấu cho cung mệnh (tức là mệnh tạo đã ở vào khoảng thời gian “xấu”), như vậy ứng nghiệm trong cuộc sống hiện thực là hướng xuống, trầm luân. Lúc mệnh tạo ở trong đại vận bất lợi, nếu Thái Tuế lưu niên là có lợi, thì có thê sẽ giảm bớt tốc độ trầm luân, cũng có thê khiến cho sự kiện xấu không đến nỗi “ác tính hóa”, hoặc nhiều lúc làm cho chuyện xẩu không xảy ra. Điều khiến người ta lo lắng nhất là lúc cung mệnh của đại vận trùng điệp vói cung vị đầy chướng khí, lúc đó mệnh bàn nguyên cục đã bị hạ xuống một cấp, còn cung hạn lưu niên thì mang lại khí “sát phạt tiêu điều” và lực phá hoại, như vậy có thể sẽ xảy ra thảm trạng “nhà dột mà gặp mưa dầm”. Trong cuộc sống hiện thực là bất lợi về sự nghiệp, tài phú, sức khỏe, hoặc xảy ra sự cố trong tình cảm hôn nhân.

Giả thiết ông A là “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh ở cung Sửu; lúc đại vận đến cung Hợi do Thái Âm tọa thủ, tình hình cát hung họa phúc sẽ như thế nào? Quan hệ đối ứng giữa “Thiên Đồng, Cự Môn” và Thái Âm sẽ xảy ra hiện tượng gì? Có người ờ trong khung giá kết cấu này thì tuổi trẻ đắc chí, rất giàu có; cũng có người tìm không ra việc để làm, đừng nói tới tích lũy; có người thì đi du học đạt được học vị cao, nhưng cũng có người ở trong tình trạng ăn cơm tù, hoặc phải gánh vác trọng trách nuôi cả gia đình.

Giả thiết nữ mệnh tạo A là sinh năm Canh: (Xem hình)

QUAN LỘC TỊ Thiên Cơ

NÔ BỘC ngọ Tử Vi

THIÊN DI MÙI Vô chính diệu

TẬT ÁCH THÂN Phá Quân

ĐIÊN TRẠCH THÌN Thất Sát

 

TÀI BẠCH DẬU Vô chính diệu

PHÚC ĐÚC MÃO

Thái Dưong Thiên Lương

TỬ NỬ TUẨT Liêm Trinh

Thiên Phủ

PHỤ MẢH DẦN Vũ khúc Thiên Tướng

MỆNH SỬU Thiên Đồng Cự Môn

HUYNH ĐỆ TÍ Tham Lang

PHU THẾ HỢI Thái Âm

Lúc người có “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh đến hành hạn “Thái Âm, Văn Khúc”, cung quan lộc của đại vận có can chi là Kỉ Mão, khiến Văn Khúc Hóa Kị xung phá Thiên Cơ ở cung quan lộc của thiên bàn, đó là ý tượng: Trong đại vận này, vận sự nghiệp sẽ bị phá hao tổn thất. Trong đại vận này, cung tài bạch của đại vận là vô chính diệu, như vậy sự nghiệp của nữ mệnh chủ không được thuận lợi, có thể xảy ra tình trạng thất nghiệp. Vì cung quan lộc của đại vận phi Hóa Kị xung cung quan lộc của thiên bàn (Văn Khúc Hóa Kị xung cung quan lộc của thiên bàn), như vậy cung quan lộc của thiên bàn đã bị phá hoại. Ngoài ra, “Thái Âm, Văn Khúc” tọa thủ cung Đinh Hợi, tứ hóa [đại vận] khiến Thiên Đồng Hóa Quyền và Cự Môn Hóa Kị trong cung mệnh của thiên bàn, còn khiến Thái Âm Hóa Lộc trong cung phu thê của thiên bàn, Thiên Cơ Hóa Khoa trong cung quan lộc của thiên bàn; tổng hợp luận đoán như sau:

“Thái Âm, Văn Khúc” trong cung hạn, nữ mệnh chủ sẽ vì hôn nhân mà từ bỏ công việc đang làm, nhưng hành động này làm cho người phụ nữ này có tâm trạng mâu thuẫn khá lâu. Vì cung tài bạch của đại vận có can chi là Quý Mùi, khiến Tham Lang Hóa Kị, đây là tượng “kho tiền” tạm thòi thiếu tiền!

Thông thường người có “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh, hành hạn đến cung Hợi là Thái Âm tọa thủ, cuộc đời của họ là thêm điểm hay bớt điểm? Cần phải vận dụng can cung Thái Âm tọa thủ phi tứ hóa để biết ảnh hưởng của chúng đối vói Thiên Đồng và Cự Môn. Lại lấy cung tài bạch và cung quan lộc của đại vận phi tứ hóa để tính toán xem cung tài bạch và cung quan lộc của thiên bàn sẽ bị loại tứ hóa nào nhập vào mà điều chỉnh luận giải cho phù hợp với chân tướng sự thực. Nếu Hóa Kị [đại vận] ở cung tài bạch của đại vận xung cung tài bạch của thiên bàn, như vậy sẽ xuất hiện hiện tượng bất lợi trong việc kiếm tiền. Giả thiết can của cung tài bạch và cung quan lộc của đại vận phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa nhập cung tài bạch và cung quan lộc của thiên bàn, đó là tượng trong đại vận này sẽ được tăng lương hay “thăng di” (đi nhậm chức cao hơn)!

(Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái – Nguyễn Anh Vũ dịch, tập 1)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Các nguyên tắc Tứ Hóa và áp dụng

Lúc hoạt bàn của mệnh bàn Tử Vi Đẩu Số chuyển động, tin rằng nhiều người nghiên cứu Đẩu Số, thậm chí kể cả một số người thuộc vào hàng “tiền bối”, đều bị “đại vận” và “lưu niên” gây khó khăn, mà nguyên nhân khiến cho người ta rối loạn là “tứ hóa”; hơn nữa, đại đa số các sách Từ Vi Đẩu Số đều ít khi đề cập một cách rõ ràng phương pháp luận đoán đại vận và lưu niên, dẫn đến tình trạng bị tứ hóa [năm sinh], tứ hóa [đại vận] và tứ hóa [lưu niên] làm cho hoa mắt, đến lúc “tự hóa” và “phi hóa” xuất hiện gây rối loạn, thì nhiều người đành buông tay, cho nên số người học Từ Vi Đẩu Số bỏ dỡ nửa chừng nhiều hơn người học Tứ Trụ Tử Bình.

Một số người nghiên cứu Tứ Hóa phái, trong quá trình suy đoán đã quên mất sự tồn tại của các sao trong cung mệnh, chi tập trung vào các sao của đại vận, nên không thể định vị cho tính chất của các sao ở đại vận, đó là chưa nói tới các sao của cung hạn lưu niên. Tứ hóa có cơ chế của chúng, các sao cũng có sự phân biệt về tác dụng. Trước khi luận giải về đại vận, xin các bạn ghi nhớ các điều sau đây:

  1. Lực tác động của Hóa KỊ [năm sinh] được thu vào “ngã cung”, tức là nói, Hóa KỊ rơi vào “ngã cung” sẽ không tái “phi xuất”.
  2. Có tứ hóa [năm sinh] ờ trong cung mới phải xem xét hiện tượng can cung phi hóa hay tự hóa.
  3. Can cung đại vận khiến Hóa Kị nhập “ngã cung”, cũng thuộc trường hợp “thu vào” mà không tái phi xuất!
  4. Các sao trong cung đại vận được xem “hiện tượng”, cũng có thể xem là “hóa khí” trong phần “hình phú”, công dụng của chúng là làm tăng hay giảm tác dụng của các sao trong cung của nguyên cục, chớ không phải mang toàn bộ tính chất “hình phú” của các sao trong cung nguyên cục dời sang cung đại vận.
  5. Nếu Hóa Kị ở “ngã cung”, gặp can cung dẫn phát tự Hóa Kị, cũng không có hiện tượng “phi xuất”, mà chỉ tìm hiểu hiện tượng Hóa KỊ lại tự Hóa Kị, mà không xung kích đối cung; nếu tự Hóa Lộc, tự hóa Quyền, hay tự Hóa Khoa cũng theo nguyên tắc này.

Tứ Hóa phái chia mệnh bàn thành ba loại: thiên bàn, địa bàn, nhân bàn; gọi là thiên bàn, tức mệnh bàn nguyên cục trong trạng thái tĩnh, còn địa bàn là đại vận bàn, lấy can cung để định phạm vi giới hạn thời gian 10 năm đó. Nói một cách khác, sau khi đặt can cung cho “địa bàn” mới gọi là “đại vận bàn”. Xin cử ví dụ, phạm vi “Liêm Trinh, Thất Sát” của can cung Kỉ Sửu nhất định là khác với phạm vi “Liêm Trinh, Thất Sát” của can cung Tân Sửu. Lấy can cung để định phạm vi giới hạn của đại vận này, cho nên, lúc ông A Thiên Đồng thù mệnh ở cung Dậu đi thuận theo hướng chiều kim đồng hồ đến đại vận “Liêm Trinh, Thất Sát”, và ông B Thiên Đồng thủ mệnh ở cung Thìn đi nghịch chiều kim đồng hồ đến đại vận “Liêm Trinh, Thất Sát”, hai người sẽ có cuộc sống hoàn toàn khác nhau, cát hung họa phúc cũng khác nhau một trời một vực. Xin đừng thấy địa bàn “Liêm Trinh, Thất Sát” thì lập tức đưa ra lời đoán, mà phải xem xét ảnh hường của tứ hóa [đại vận], và xem xét sự liên quan giữa các cung của đại vận với thiên bàn. Thông thường người ta dễ bị các sao HỎa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La bài bố ở thiên bàn làm cho rối loạn, nhưng thực ra không nhất định đại vận bàn sẽ bị các hung tinh này kiềm chế hoặc bị gây tổn hại.

Nhân bàn tức là lưu niên bàn, lấy lưu niên Kỉ Sửu (2009) làm ví dụ. Năm đó mỗi cá nhân sẽ lấy các sao ở cung Kỉ Sửu (là xạ ảnh của các sao ở thiên bản, chớ không phải bản thân các sao ở thiên bàn, và cũng không liên quan gì đến tứ hóa [năm sinh]) để ứng nghiệm kết quả giao nhau của tứ hóa thiên bàn và tứ hóa địa bàn (giả thiết các sao tứ hóa của thiên bàn và các sao tứ hóa của địa bàn có tác động lẫn nhau), nhưng tứ hóa nhân bàn chỉ có thể hường úng tứ hóa địa bàn, mà không thể vượt ba cấp tác động trực tiếp đến các sao của thiên bàn, trừ phi địa bàn và thiên bàn có quan hệ tam phương tứ chính hoặc các sao tứ hóa tác động lẫn nhau, mới xét đến sự tác động lẫn nhau giữa tam bàn thiên địa nhân.

Giả thiết cung Sửu có Liêm Trinh Hóa Kị, Thất Sát (sinh năm Bính, cho nên Liêm Trinh Hóa Kị); lúc đến lưu niên Kỉ Sửu, như vậy cung mệnh của lưu niên nhập cung Sửu, sẽ thấy Liêm Trinh Hóa Kị [năm sinh] ở trong cung, nhưng đây là thuộc vê vận thế lưu niên, vì vậy ‘Xiêm Trinh, Thất Sát” không bị ảnh hưởng của Hóa Kị [năm sinh]. Nhưng giả thiết can cung đại vận là Bính, khiến Liêm Trinh lại Hóa KỊ. Như vậy lúc bước vào lưu niên Kỉ Sửu, mệnh tạo phải chịu ảnh hưởng của Liêm Trinh song Hóa Kị, vận thế sẽ biến động thay đôi kịch liệt. Trong tinh trạng này, cần phải xem xét Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] ở cung nào. Giả thiết Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] đều ở “ngã cung” của địa bàn hoặc thiên bàn, như vậy có thể đoán năm đó có thu hoạch lớn. Nếu không phải vậy, thì phải xem Hóa Lộc và Hóa Kị [đại vận] ả đâu (là “ngã cung” hay “tha cung” của thiên bàn và địa bàn), mới có thể đoán sự cố gì sẽ xảy ra. Nếu dự đoán là hung, thì phải truy tìm cung có Hóa Khoa [đại vận] tọa lạc, để tính xem năng lực hóa giải tai ách mạnh hay yếu!

Lúc gặp song Hóa Kị xuất hiện ở cung mệnh, cung quan lộc, hay cung tài bạch của lưu niên, mói có tác dụng trực tiếp. Thông thường, nếu tứ hóa [lưu niên] không nhập cung có song Hóa Kị, thì có thể “an nhiên” vượt qua! Dù bị áp lực song Hóa Kị (Hóa Kị [năm sinh] và Hóa Kị [đại vận]), đối với lưu niên mà nói, đây là áp lực từ “thể” sinh ra (thiên bàn là thể, đại vận là dụng, đối với lưu niên thì đại vận là thể, lưu niên là dụng). Cho nên dù tiếp xúc trực tiếp vân không đến nỗi nào, vì “thể” tác động đến “dụng” có sức ảnh hưởng nhò hơn “dụng” tác động đến “thể”. Nói một cách khác, hung thật sự là lúc Hóa Kị [lưu niên] xung phá Hóa Lộc [đại vận], tình huống này mới nghiêm trọng!

Ví dụ, can cung tài bạch của đại vận khiến Hóa Kị xung cung tài bạch của thiên bàn, về lí thuyết, là nghiêm trọng, vì “dụng xung thể”. Cho nên lúc lưu niên nhập cung có Hóa Kị, phần nhiều sẽ xảy ra tôn thất về tài chính (lúc luận mệnh, cần phải thận trọng, phải xem xét can cung tài bạch của đại vận phi Hóa Lộc nhập cung nào, để biết nguyên nhân của tình trạng tiền bạc được mất, tốt xấu; còn phải mang cung đại vận sở tại quy về thiên bàn để tra xét sự việc liên quan, vậy mới là trình tự luận giải đúng cách!) Trong Tử Vi Đẩu Số Tứ Hóa phái, trường hợp “dụng xung thể” đều xem là sự cố nghiêm trọng.

Lúc lưu niên nhập cung có Hóa KỊ [đại vận], thường thường đây là thời điểm xảy ra sự cố; còn lúc lưu niên nhập cung bị Hóa KỊ [đại vận] xung, đây thường là thời kì cuối của sự cố. Vê lí thuyết, đó là “thể xung dụng”. ,

Theo lí thuyết của Tứ Hóa phái, cùng loại tương xung là hung (ví dụ, Hóa KỊ [đại vận] ở cung mệnh của đại vận xung cung mệnh của thiên bàn, Hóa Kị [đại vận] ở cung quan lộc của đại vận xung cung quan lộc của thiên bàn. Lúc lưu niên nhập cung có Hóa KỊ [đại vận], là năm xảy ra sự cố, lưu niên nhập cung bị Hóa Kị [đại vận] xung, đây là năm từ thịnh đã thành suy). Nhưng, giả thiết không phải là cùng loại tương xung, thông thường cung bị Hóa Kị [đại vận] xung (ví dụ Hóa Kị [đại vận] nhập cung Dậu, cung bị Hóa Kị xung là cung Mão, lúc lưu niên nhập cung Mão, đó là năm bị xung kích), cũng là năm xảy ra sự cố (cung bị xung sinh ra tự hóa là chuyện tốt, ít nhất đây cũng là lực đ’ê kháng thực hiện được chức trách, thậm chí là tự Hóa Kị cũng không phải là hoàn toàn xấu, mà thường thường chủ về đã trừ được họa căn).

*

Lấy cung mệnh (nguyên cục) làm “chủ thể” để luận giải, tác động của các sao ở đại vận sẽ làm tăng thêm hay giảm bớt tính chất của các sao ở cung mệnh (nguyên cục), để tiếp nhận thử thách của Thái Tuế lưu niên mỗi năm. Lúc đại vận xuất hiện kết cấu sao làm tăng mạnh tính chất của các sao ở cung mệnh, như vậy đại vận này là hành hạn có thể nâng mệnh tạo lên; ngay cả lúc Thái Tuế lưu niên bất lợi, cũng không đến nỗi xảy ra lực phá hoại nghiêm trọng đối với mệnh tạo. Vì mệnh bàn nguyên cục đã được nâng lên một cấp khác, bị xung kích cũng không đến nỗi khiến mệnh tạo mất hết sức mạnh, nhiều lúc còn biến thành tác nhân gây kích thích và làm cho mệnh chủ phấn chấn hơn. Lúc đại vận có lợi cho cung mệnh, còn lưu niên thì như gấm thêu hoa, vậy năm này sẽ có hi sự liên miên!

Lúc tổ hợp sao của đại vận mang lại hiệu ứng xấu cho cung mệnh (tức là mệnh tạo đã ở vào khoảng thời gian “xấu”), như vậy ứng nghiệm trong cuộc sống hiện thực là hướng xuống, trầm luân. Lúc mệnh tạo ở trong đại vận bất lợi, nếu Thái Tuế lưu niên là có lợi, thì có thê sẽ giảm bớt tốc độ trầm luân, cũng có thê khiến cho sự kiện xấu không đến nỗi “ác tính hóa”, hoặc nhiều lúc làm cho chuyện xẩu không xảy ra. Điều khiến người ta lo lắng nhất là lúc cung mệnh của đại vận trùng điệp vói cung vị đầy chướng khí, lúc đó mệnh bàn nguyên cục đã bị hạ xuống một cấp, còn cung hạn lưu niên thì mang lại khí “sát phạt tiêu điều” và lực phá hoại, như vậy có thể sẽ xảy ra thảm trạng “nhà dột mà gặp mưa dầm”. Trong cuộc sống hiện thực là bất lợi về sự nghiệp, tài phú, sức khỏe, hoặc xảy ra sự cố trong tình cảm hôn nhân.

Giả thiết ông A là “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh ở cung Sửu; lúc đại vận đến cung Hợi do Thái Âm tọa thủ, tình hình cát hung họa phúc sẽ như thế nào? Quan hệ đối ứng giữa “Thiên Đồng, Cự Môn” và Thái Âm sẽ xảy ra hiện tượng gì? Có người ờ trong khung giá kết cấu này thì tuổi trẻ đắc chí, rất giàu có; cũng có người tìm không ra việc để làm, đừng nói tới tích lũy; có người thì đi du học đạt được học vị cao, nhưng cũng có người ở trong tình trạng ăn cơm tù, hoặc phải gánh vác trọng trách nuôi cả gia đình.

Giả thiết nữ mệnh tạo A là sinh năm Canh: (Xem hình)

QUAN LỘC TỊ Thiên Cơ

NÔ BỘC ngọ Tử Vi

THIÊN DI MÙI Vô chính diệu

TẬT ÁCH THÂN Phá Quân

ĐIÊN TRẠCH THÌN Thất Sát

 

TÀI BẠCH DẬU Vô chính diệu

PHÚC ĐÚC MÃO

Thái Dưong Thiên Lương

TỬ NỬ TUẨT Liêm Trinh

Thiên Phủ

PHỤ MẢH DẦN Vũ khúc Thiên Tướng

MỆNH SỬU Thiên Đồng Cự Môn

HUYNH ĐỆ TÍ Tham Lang

PHU THẾ HỢI Thái Âm

Lúc người có “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh đến hành hạn “Thái Âm, Văn Khúc”, cung quan lộc của đại vận có can chi là Kỉ Mão, khiến Văn Khúc Hóa Kị xung phá Thiên Cơ ở cung quan lộc của thiên bàn, đó là ý tượng: Trong đại vận này, vận sự nghiệp sẽ bị phá hao tổn thất. Trong đại vận này, cung tài bạch của đại vận là vô chính diệu, như vậy sự nghiệp của nữ mệnh chủ không được thuận lợi, có thể xảy ra tình trạng thất nghiệp. Vì cung quan lộc của đại vận phi Hóa Kị xung cung quan lộc của thiên bàn (Văn Khúc Hóa Kị xung cung quan lộc của thiên bàn), như vậy cung quan lộc của thiên bàn đã bị phá hoại. Ngoài ra, “Thái Âm, Văn Khúc” tọa thủ cung Đinh Hợi, tứ hóa [đại vận] khiến Thiên Đồng Hóa Quyền và Cự Môn Hóa Kị trong cung mệnh của thiên bàn, còn khiến Thái Âm Hóa Lộc trong cung phu thê của thiên bàn, Thiên Cơ Hóa Khoa trong cung quan lộc của thiên bàn; tổng hợp luận đoán như sau:

“Thái Âm, Văn Khúc” trong cung hạn, nữ mệnh chủ sẽ vì hôn nhân mà từ bỏ công việc đang làm, nhưng hành động này làm cho người phụ nữ này có tâm trạng mâu thuẫn khá lâu. Vì cung tài bạch của đại vận có can chi là Quý Mùi, khiến Tham Lang Hóa Kị, đây là tượng “kho tiền” tạm thòi thiếu tiền!

Thông thường người có “Thiên Đồng, Cự Môn” thủ mệnh, hành hạn đến cung Hợi là Thái Âm tọa thủ, cuộc đời của họ là thêm điểm hay bớt điểm? Cần phải vận dụng can cung Thái Âm tọa thủ phi tứ hóa để biết ảnh hưởng của chúng đối vói Thiên Đồng và Cự Môn. Lại lấy cung tài bạch và cung quan lộc của đại vận phi tứ hóa để tính toán xem cung tài bạch và cung quan lộc của thiên bàn sẽ bị loại tứ hóa nào nhập vào mà điều chỉnh luận giải cho phù hợp với chân tướng sự thực. Nếu Hóa Kị [đại vận] ở cung tài bạch của đại vận xung cung tài bạch của thiên bàn, như vậy sẽ xuất hiện hiện tượng bất lợi trong việc kiếm tiền. Giả thiết can của cung tài bạch và cung quan lộc của đại vận phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa nhập cung tài bạch và cung quan lộc của thiên bàn, đó là tượng trong đại vận này sẽ được tăng lương hay “thăng di” (đi nhậm chức cao hơn)!

(Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái – Nguyễn Anh Vũ dịch, tập 1)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button