Tử vi

Chương 22: Cung Huynh Đệ

Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.

Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất quan trọng.

Bạn đang xem: Chương 22: Cung Huynh Đệ

Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn không còn hợp thời.

Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn “đồng môn” và bạn “đồng niên”)

Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định.

Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có “sao đôi” hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.

Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh chị em.

Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao Hình – Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.

Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình – Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 – 5 – 9 cư Tị, tháng 2 – 6 – 10 cư Thân, tháng 3 – 7 – 11 cư Dần, tháng 4 – 8 – 12 cư Hợi ].

Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình thương.

Cung Huynh đệ gặp “Lộc Quyền Khoa”, chưa chắc chủ về anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo.

Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có “hình thương”, hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.

Tử Vi

Có thể nhờ cậy dựa dẫm vào huynh trưởng (hoặc chủ nhận được sự đề bạt từ đồng sự). Hoặc huynh trưởng giàu có khoan hậu. Thêm tứ Sát Không Kiếp, thì khắc hại hoặc khiếm hòa, không thì huynh đệ lạc vào phá bại suy thoái.

Huynh đệ cận quý. Hội Khôi Việt, Xương Khúc, Phụ Bật thiệt vưu quý. Nhưng nếu hội tứ Sát, Không Kiếp, Hình Kị các sao, thì chủ hình khắc, hoặc trong huynh đệ tỷ muội có người bị sự nghiệp suy bại. Lưu Sát cùng lưu Kị nhập cung cũng đề phòng đại hạn hoặc lưu niên nội trong huynh đệ tỷ muội có tình hình hình thương phá bại. Kiến tứ Sát, nhưng Phụ mẫu cung có Hồng Loan Thiên Hỉ, thì khả năng có huynh đệ khác (các) bào, mà lại bất đồng tâm. Thiên Mã hội chiếu, huynh đệ tỷ muội đều phân tán đông tây.

Kiến Thiên Phủ, huynh đệ tỷ muội có được ba người. Ngộ Thiên Tướng, từ ba đến bốn người. Phá Quân hội chiếu, cũng chủ ba người. Nhưng có hình khắc, hoặc tích lũy tài sản ở xa nhau. Hoặc do khác mẹ sinh ra. Nếu Phụ mẫu cung Đào hoa kiến tập, lại kiến Hữu Bật. Đổi lại có khả năng thôi đoạn luận đoán có huynh đệ khác mẹ. Kiến Tả Phụ Hữu Bật, năm người trở lên. Hội Xương Khúc, năm hoặc bảy người. Gia tăng thêm Dương Dà Hỏa Linh Thất Sát, thì huynh đệ tỷ muội thích nghi với số chẳn, không thì có sự hình khắc. Tử Phá, ba người, không hòa thuận hoặc không đắc lực, cũng chủ khác (các) bào. Tử Phủ, ba người, huynh đệ đều có chủ kiến. Tử Tham, ba người, nhàn cung kiến Sát Kị hai người. Hòa thuận vui vẻ. Tử Sát, hai người. Kiến Sát Kị một người. Chủ đều có tâm tranh giành quyền lợi. Tử Tướng, ba bốn người. Gia tăng thêm Sát Kị hai người. Cảm tình bất chợt dể phát sinh rạn nứt sứt mẻ.

Thiên Cơ

Chủ huynh đệ tỷ muội quả ít. Duy chỉ kiến Phụ Tá cát diệu thì có thể tăng thêm số người. Nhập miếu hai người, hội Cát có người hiển đạt phú quý. Cự Môn hoặc Thiên Lương hoặc Thái Âm hội chiếu, hai người. Thiên Cơ lạc hãm thủ Huynh đệ cung, huynh đệ bất hòa, đều có chủ kiến. Kiến Thiên Lương Thiên Hình, có tranh tụng. Nếu hội Tứ sát Thiên Hình Thiên Mã, chủ hình khắc, phân li. Lạc hãm kiến Sát Kị, cô thân. Hữu kiến hình khắc. Cơ Nguyệt, hai người. Kiến Sát phân li. Cơ Cự, hai người, có khẩu thiệt phân tranh. Cơ Lương, hai người, dể vì hoàn cảnh mà phân li, nhưng có thể trùng phùng.

Thái Dương

Nhập miếu huynh đệ tỷ muội ba người trở lên, kiến Cát hội, huynh đệ chủ quý. Lạc hãm cùng với người sinh ban đêm, huynh đệ có nhiều tranh chấp bất hòa, thông minh phóng khoáng nhưng không nhờ cậy nhau. Nhưng kiến Tứ sát, Không Kiếp, Thiên Hình, chủ huynh đệ có hình khắc, hoặc nguyên nhân là tự bản thân mình hứng chịu những tổn thương thiệt hại bất ngờ ngoài ý muốn từ thương hại. Phàm khi Thái Dương lạc hãm vào thất địa cư Huynh đệ cung, thích nghi sống xa nhau, không đồng cư chung một chổ lại càng thêm tốt đẹp. Dương Âm, năm người trở lên. Thường thường chủ cảm tình dung hiệp. Dương Cự, nhiều huynh đệ ra nước ngoài, kiến Cát, thì là nhân tài sáng lập sự nghiệp. Ba người. Dương Lương, hai người. Hãm địa thiếu hòa khí, kiến Sát hình khắc. Cũng như trên kiến Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc, Thiên Khôi Thiên Việt các sao cũng có thể gia tăng số lượng huynh đệ tỷ muội.

Vũ Khúc

Vũ Khúc nhập Huynh đệ cung, chủ bất hòa mục, không có giúp đỡ trợ lực cho nhau. Nhập miếu hai người. Kiến Cát được thêm một người. Lạc hãm một người. Phùng Xương Khúc, ba người trở lên. Kiến Phụ Bật, cũng chủ ba người trở lên. Kiến Thất Sát Phá Quân, gần với một người, kiến Sát cô thân, hoặc khác (các) bào. Tứ Sát Không Kiếp hội, cô thân. Vũ Phủ, ba người. Kiến Sát Kị có khắc, hoặc hai người và thiếu hòa thuận. Vũ Tham hai người, kiến Sát một người. Vũ Tướng, hai hoặc ba người. Hãm địa kiến Sát có hình khắc. Vũ Sát, một người, mà lại thiếu hòa thuận. Vũ Phá, một người, mà lại thiếu hòa thuận, kiến hình dể tranh tụng.

Thiên Đồng

Nhập miếu, bốn người trở lên. Hòa thuận nhưng ít giúp đỡ trợ lực cho nhau. Lạc hãm, hai người. Huynh đệ nhu nhược yếu đuối. Phùng tứ Sát, Thiên Phủ, Không Kiếp, huynh đệ tỷ muội hình khắc bất hòa, thích nghi với ở xa nhau. Độc cư Thìn Tuất, có dị bào huynh đệ, kiến Phụ Bật Xương Khúc, tổng cộng sáu người trở lên. Đồng Cự, huynh đệ tỷ muội ba người, có khẩu thiệt thị phi. Đồng Lương, ba người, có âm thầm tranh giành. Nếu tại Dần Thân cung ngộ Sát, thì không nhiều huynh đệ. Đồng Nguyệt, năm người.

Liêm Trinh

Nhập miếu, huynh đệ tỷ muội hai người. Thường thường chủ cảm tình hòa hiệp. Hội Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quý, Thiên Phủ các Cát diệu, huynh đệ tỷ muội năm người còn lại ba người lưu tam nhân. Ngộ tứ Sát Không Kiếp Thiên Hình, chủ hình khắc, tai bệnh hoặc bất hòa. Thường sống riêng biệt rời xa nhau. Liêm Tướng, hai người. Liêm Phủ, hai đến ba người, kiến Xương Khúc Tả Hữu ba người. Liêm Tham, rất ít ỏi, có huynh đệ cũng chiêu oán, gia Sát thì chủ cô thân. Liêm Sát, một người. Liêm Phá, một người. Cảm tình dể phát sinh phản phục.

Thiên Phủ

Thủ Huynh đệ cung chủ có nhiều huynh đệ, năn người trở lên. Kiến Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật, huynh đệ có nhiều tài năng, mà lại có sự giúp đỡ trợ lực lẫn nhau. Cùng Vũ Khúc, Liêm Trinh hội, có thương khắc. Tái kiến Văn Khúc thì chủ huynh đệ tỷ muội nhiều dối trá không chân thật. Kiến Tứ sát, Hóa Kị, Thiên Hình, Không Kiếp, Đại Hao các sao, hình khắc bất hòa, hoặc huynh đệ tỷ muội cũng chỉ được một hai người, cần phải tự bản thân mình tự phấn đấu. Kiến Thất Sát Phá Quân hội hợp, chiêu oán. Tái kiến tứ Sát, Không Kiếp, huynh đệ chỉ hơn hai người.

Thái Âm

Nhập miếu huynh đệ tỷ muội năm người. Hãm địa ba người và không đồng tâm. Thiên Cơ đồng độ hai người. Ngộ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa các sao, huynh đệ phú quý đa tài. Ngộ tứ Sát, Không Kiếp, hình khắc bất hòa, hoặc ở xa nhau và bất hòa. Thái Âm Hóa Kị, hội hợp Thiên Lương, kiến Sát, chủ huynh đệ có âm mưu. Thái Âm và Thiên Đồng xung đối, trong huynh đệ với nữ là con trưởng là tốt đẹp. Không thì dể kiến hình khắc.

Tham Lang

Hội Phụ Bật, Khôi Việt, huynh đệ hòa thuận, hỗ tương bang trợ cho nhau. Giỏi bảo vệ duy trì sinh hoạt cân bằng trên mặt nước với sự lai vãng tới lui thăm hỏi, chủ có huynh đệ ba người. Tử Vi đồng độ hai người. Liêm Trinh đồng độ một người, hoặc bất hòa. Hội chiếu Vũ Khúc cô đơn, hoặc do khác mẹ sinh ra. Tham Lang lạc hãm thủ Huynh đệ cung, cũng chủ có huynh đệ khác mẹ. Hội chiếu Hỏa Linh, Dương Đà, Thiên Hình các sao, cô đơn, hoặc hình khắc bất hòa; chủ huynh đệ có sự tranh đoạt về phương diện vật chất.

Cự Môn

Nhập miếu hai người. Cùng với Thái Dương đồng độ, huynh đệ tỷ muội ba người. Tái dữ Phụ Bật, Khôi Việt, Xương Khúc, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Phúc đẳng diệu hội hợp, cũng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa các sao đồng cư, chủ huynh đệ đều có tài sáng lập cơ nghiệp. Cự Cơ, hai người, có cơ tâm mưu mẹo, đông tây li tán. Cự Đồng, có kết bái huynh đệ, nhưng cuối cùng hung ác khích mạt không ra gì. Phàm khi Cự Môn thủ Huynh đệ cung, cùng với Không Kiếp, Đại Hao các sao hội chiếu, chịu nhiều sự lợi dụng từ huynh đệ. Cùng với tứ Sát, Âm Sát, Cô Thần, Quả Tú các sao hội chiếu, hình khắc thị phi phân tranh. Hóa Kị, cũng chủ thị phi khẩu thiệt, mà lại chủ tai bệnh phá hao. Kiến Thiên Nguyệt, hình hao thì chủ nguyên nhân do huynh đệ có tai bệnh hao tốn tiền tài mà phá tài.

Thiên Tướng

Nhập miếu có Phụ Bật hội chiếu, năm người trở lên. Tử Vi đồng độ, ba người trở lên, mà huynh đệ thích mạnh bạo thích hơn người (hảo cường hảo cao). Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh các sao đồng độ, huynh đệ tỷ muội hai người, mà ý kiến bất hợp. Kiến Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng với Lộc Tồn các sao, huynh đệ tú phát, có tài có thế. Vũ Khúc Phá Quân củng chiếu, có Phụ Bật các sao, huynh đệ tuy nhiều, nhưng có hình thương, hoặc huynh đệ khác mẹ, cùng với nhiều năm về sau có rất nhiều tiểu huynh đệ, ước chừng tám năm hoặc trên mười hai năm.

Thiên Lương

Nhập miếu lâm Huynh đệ cung, hội Phụ Bật, Khôi Việt các sao, năm người trở lên, mà huynh đệ tỷ muội lại có hòa khí. Nếu nhập miếu mà không có Phụ Bật, chủ có huynh đệ khác mẹ. Phàm khi nhập miếu kiến Khôi Việt mà không có Phụ Bật, đồng bào huynh đệ khoảng hai ba người, có sự âm thầm tranh giành, nghiêng ngã khuynh tễ, hoặc lại phân li. Cùng với Thái Dương đồng độ tại Mão Dậu các cung, chủ tranh đoạt gia sản, hoặc phát sinh hiểu lầm ghen ghét đố kị. Cùng với Thiên Cơ đồng độ hoặc hội chiếu, huynh đệ hai người. Cùng với Thái Âm, Hồng Loan, Thiên Hỉ hội chiếu, nhiều tỉ muội. Cùng với Thiên Đồng đồng độ, đồng cư một chổ thì có hai người, phân cư hoặc cư dị địa thì có ba người. Cùng với tứ Sát, Thiên Hình, Không Kiếp các tinh diệu hội hợp, hình khắc bất hòa, phân li phân tranh.

Thất Sát

Nhập miếu mà lại hội chiếu Lộc, Quyền, Khoa Phụ Bật các sao. Huynh đệ nhiều người duy chỉ có hình khắc. Thất Sát thủ Huynh đệ cung, mà hội chiếu Phụ Bật, hoặc Mệnh cung hội chiếu Phụ Bật, cũng chủ có nhiều huynh đệ nhưng lại có hình khắc phân li. Cảm tình hòa hiệp, sợ rằng thật tế có ít trợ lực giúp đỡ nhau. Dần Thân nhị cung, huynh đệ nhiều tài thanh cao trong sạch. Tị Hợi nhị cung, huynh đệ có khả năng quý. Thìn Tuất nhị cung, huynh đệ có khả năng phú. Nếu hội chiếu Sát tinh Hóa Kị, vẫn có tai bệnh, hình khắc, phân li.

Phá Quân

Chủ huynh đệ sống xa nhau hoặc hình khắc. Phàm khi Phá Quân thủ Huynh đệ cung, tự bản thân mình thường làm con trưởng, hoặc tuy dù đứng thứ hai thứ ba, nhưng tại các chủng loại tình hình dưới đây, tuy dù không là huynh trưởng mà hình đồng huynh trường, như huynh trưởng tạ thế hoặc kế xuất; hoặc trưởng tỉ xuất giá, hoặc tự bản thân mình kế xuất đẳng. Không thì cũng tự bản thân mình gánh vác trách nhiệm trưởng nam hoặc trưởng nữ. Cùng với Lục cát đồng độ hoặc hội chiếu, chủ huynh đệ có sự nương nhờ nhau. Phá Quân thủ Huynh đệ cung mà có Sát tinh hội chiếu, hình khắc, cô độc. Tử Phá, ba người. Nhưng bất hòa hoặc khác (các) bào. Đồng sự thì dể kết đảng. Vũ Phá, hai người. Kiến Sát một người. Thiếu hòa thuận. Liêm Phá, khoảng một người.

Phụ Tá – Sát Diệu

Lộc Tồn.

Tại sinh vượng cung viên hấp dẫn hợp lòng người, nếu không phùng tứ Sát Không Kiếp, chủ trong huynh đệ tỷ muội có người quý hiển. Nếu cùng với Trường Sinh đồng độ, huynh đệ tỷ muội có duyên phận nhân duyên tốt đẹp. Cùng với Thiên Mã hội hợp, huynh đệ tỷ muội có người phát đạt tại nơi xa.

Thiên Mã.

Kiến Phụ Tá cát diệu hội hợp, huynh đệ tỷ muội tuy phân tán đông tây, nhưng giữa người này với người kia vẫn có sự trợ lực giúp đỡ nhau. Như Cát Hung tinh diệu tịnh hội, hoặc chủ có dị bào thủ túc, hoặc huynh đệ tỷ muội phân thành lưỡng đảng. Cát diệu hữu lực, thì cận chủ một số ít người xa lánh bất hòa, phần đông người lai vãng tới lui qua lại với nhau.

Tả Phụ.

Kiến Cát diệu, thì chủ đắc lực; nếu phùng tứ Sát, Hình, Kị thì chủ vì huynh đệ tỷ muội mà chịu liên lụy. Kiến Không Kiếp, lại hội Sát Kị, chủ cảm tình với bản chất tốt đẹp, nhưng đột ngột phát sinh biến hóa; hoặc huynh đệ tỷ muội bổng nhiên phát sinh tai ngộ bất ngờ ngoài ý muốn.

Hữu Bật.

Kiến Vũ Khúc Thất Sát, kiến Sát, chủ có hình khắc. Như Phụ mẫu cung kiến Đào hoa chư diệu, thì chủ dị bào. Không Kiếp, Hóa Kị, kiến nhiều Sát diệu, cô đơn.

Văn Xương.

Kiến Thiên Phủ, Tả Phụ, Hữu Bật, huynh đệ tỷ muội đắc lực. Phùng Dương Đà, huynh đệ tỷ muội có sự phân tranh. Hãm địa kiến Không Kiếp, Hóa Kị, số lượng huynh đệ tỷ muội tương ứng với từ Huynh đệ cung mất bớt người thành ít, mà lại bất hòa.

Văn Khúc.

Phùng Thất Sát, lại kiến Sát diệu, huynh đệ tỷ muội bất hòa. Hãm địa kiến Không Kiếp, rất thưa thớt ít ỏi, mà lại có khẩu thiệt. Nếu Kình Dương, Thiên Hình đồng hội, chủ tranh tụng.

Thiên Khôi.

Chủ quý mà không chủ phú. Hội chư Cát, chủ thủ túc đề huề đông vui hòa thuận.

Thiên Việt.

Giống như Thiên Khôi. Duy chỉ có lực đề kháng chống lại chư Sát, không giống như Thiên Khôi.

Hỏa Tinh, Linh Tinh.

Không mừng tái kiến Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, chủ rất thưa thớt ít ỏi. Nếu tái kiến Không Kiếp, Hóa Kị, hữu hình khắc. Kiến Tham Lang, hoặc chủ huynh đệ tỷ muội có tiền tài bất ngờ ngoài ý muốn. Nhưng cũng có khả năng chủ tự ti có tiền tài bất ngờ ngoài ý muốn. Thì nếu tái kiến Hóa Kị, Đại Hao, Sát diệu, thì không đúng như vậy.

Kình Dương.

Kiến Hóa Kị, Thiên Hình, chủ tranh tụng. Kiến Thiên Lương, càng đúng như vậy. Ngộ Không Kiếp, Đại Hao, Hỏa Linh, huynh đệ tỷ muội có thể khuynh gia bại sản. Không thích nghi sự nghiệp hợp tác với người khác.

Đà La.

Chủ huynh đệ tỷ muội người nay người kia ít lai vãng tới lui qua lại với nhau, nhưng không bất hòa. Kiến Thiên Mã, chủ huynh đệ tỷ muội rời xa quê hương ra thành phố (bối tỉnh li hương).

Địa Không.

Chủ có dị bào. Hoặc cũng chủ người này người kia li biệt. Kiến thêm Sát diệu. Huynh đệ tỷ muội đều phí công của mình để gặp gỡ.

Địa Kiếp.

Chủ dị bào hoặc li biệt. Không Kiếp giáp Huynh đệ cung, bất lợi. Giáp Liêm Trinh Hóa Kị, chủ thương tâm.

(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Chương 22: Cung Huynh Đệ

Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.

Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất quan trọng.

Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn không còn hợp thời.

Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn “đồng môn” và bạn “đồng niên”)

Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định.

Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có “sao đôi” hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.

Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh chị em.

Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao Hình – Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.

Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình – Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 – 5 – 9 cư Tị, tháng 2 – 6 – 10 cư Thân, tháng 3 – 7 – 11 cư Dần, tháng 4 – 8 – 12 cư Hợi ].

Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình thương.

Cung Huynh đệ gặp “Lộc Quyền Khoa”, chưa chắc chủ về anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo.

Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có “hình thương”, hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.

Tử Vi

Có thể nhờ cậy dựa dẫm vào huynh trưởng (hoặc chủ nhận được sự đề bạt từ đồng sự). Hoặc huynh trưởng giàu có khoan hậu. Thêm tứ Sát Không Kiếp, thì khắc hại hoặc khiếm hòa, không thì huynh đệ lạc vào phá bại suy thoái.

Huynh đệ cận quý. Hội Khôi Việt, Xương Khúc, Phụ Bật thiệt vưu quý. Nhưng nếu hội tứ Sát, Không Kiếp, Hình Kị các sao, thì chủ hình khắc, hoặc trong huynh đệ tỷ muội có người bị sự nghiệp suy bại. Lưu Sát cùng lưu Kị nhập cung cũng đề phòng đại hạn hoặc lưu niên nội trong huynh đệ tỷ muội có tình hình hình thương phá bại. Kiến tứ Sát, nhưng Phụ mẫu cung có Hồng Loan Thiên Hỉ, thì khả năng có huynh đệ khác (các) bào, mà lại bất đồng tâm. Thiên Mã hội chiếu, huynh đệ tỷ muội đều phân tán đông tây.

Kiến Thiên Phủ, huynh đệ tỷ muội có được ba người. Ngộ Thiên Tướng, từ ba đến bốn người. Phá Quân hội chiếu, cũng chủ ba người. Nhưng có hình khắc, hoặc tích lũy tài sản ở xa nhau. Hoặc do khác mẹ sinh ra. Nếu Phụ mẫu cung Đào hoa kiến tập, lại kiến Hữu Bật. Đổi lại có khả năng thôi đoạn luận đoán có huynh đệ khác mẹ. Kiến Tả Phụ Hữu Bật, năm người trở lên. Hội Xương Khúc, năm hoặc bảy người. Gia tăng thêm Dương Dà Hỏa Linh Thất Sát, thì huynh đệ tỷ muội thích nghi với số chẳn, không thì có sự hình khắc. Tử Phá, ba người, không hòa thuận hoặc không đắc lực, cũng chủ khác (các) bào. Tử Phủ, ba người, huynh đệ đều có chủ kiến. Tử Tham, ba người, nhàn cung kiến Sát Kị hai người. Hòa thuận vui vẻ. Tử Sát, hai người. Kiến Sát Kị một người. Chủ đều có tâm tranh giành quyền lợi. Tử Tướng, ba bốn người. Gia tăng thêm Sát Kị hai người. Cảm tình bất chợt dể phát sinh rạn nứt sứt mẻ.

Thiên Cơ

Chủ huynh đệ tỷ muội quả ít. Duy chỉ kiến Phụ Tá cát diệu thì có thể tăng thêm số người. Nhập miếu hai người, hội Cát có người hiển đạt phú quý. Cự Môn hoặc Thiên Lương hoặc Thái Âm hội chiếu, hai người. Thiên Cơ lạc hãm thủ Huynh đệ cung, huynh đệ bất hòa, đều có chủ kiến. Kiến Thiên Lương Thiên Hình, có tranh tụng. Nếu hội Tứ sát Thiên Hình Thiên Mã, chủ hình khắc, phân li. Lạc hãm kiến Sát Kị, cô thân. Hữu kiến hình khắc. Cơ Nguyệt, hai người. Kiến Sát phân li. Cơ Cự, hai người, có khẩu thiệt phân tranh. Cơ Lương, hai người, dể vì hoàn cảnh mà phân li, nhưng có thể trùng phùng.

Thái Dương

Nhập miếu huynh đệ tỷ muội ba người trở lên, kiến Cát hội, huynh đệ chủ quý. Lạc hãm cùng với người sinh ban đêm, huynh đệ có nhiều tranh chấp bất hòa, thông minh phóng khoáng nhưng không nhờ cậy nhau. Nhưng kiến Tứ sát, Không Kiếp, Thiên Hình, chủ huynh đệ có hình khắc, hoặc nguyên nhân là tự bản thân mình hứng chịu những tổn thương thiệt hại bất ngờ ngoài ý muốn từ thương hại. Phàm khi Thái Dương lạc hãm vào thất địa cư Huynh đệ cung, thích nghi sống xa nhau, không đồng cư chung một chổ lại càng thêm tốt đẹp. Dương Âm, năm người trở lên. Thường thường chủ cảm tình dung hiệp. Dương Cự, nhiều huynh đệ ra nước ngoài, kiến Cát, thì là nhân tài sáng lập sự nghiệp. Ba người. Dương Lương, hai người. Hãm địa thiếu hòa khí, kiến Sát hình khắc. Cũng như trên kiến Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc, Thiên Khôi Thiên Việt các sao cũng có thể gia tăng số lượng huynh đệ tỷ muội.

Vũ Khúc

Vũ Khúc nhập Huynh đệ cung, chủ bất hòa mục, không có giúp đỡ trợ lực cho nhau. Nhập miếu hai người. Kiến Cát được thêm một người. Lạc hãm một người. Phùng Xương Khúc, ba người trở lên. Kiến Phụ Bật, cũng chủ ba người trở lên. Kiến Thất Sát Phá Quân, gần với một người, kiến Sát cô thân, hoặc khác (các) bào. Tứ Sát Không Kiếp hội, cô thân. Vũ Phủ, ba người. Kiến Sát Kị có khắc, hoặc hai người và thiếu hòa thuận. Vũ Tham hai người, kiến Sát một người. Vũ Tướng, hai hoặc ba người. Hãm địa kiến Sát có hình khắc. Vũ Sát, một người, mà lại thiếu hòa thuận. Vũ Phá, một người, mà lại thiếu hòa thuận, kiến hình dể tranh tụng.

Thiên Đồng

Nhập miếu, bốn người trở lên. Hòa thuận nhưng ít giúp đỡ trợ lực cho nhau. Lạc hãm, hai người. Huynh đệ nhu nhược yếu đuối. Phùng tứ Sát, Thiên Phủ, Không Kiếp, huynh đệ tỷ muội hình khắc bất hòa, thích nghi với ở xa nhau. Độc cư Thìn Tuất, có dị bào huynh đệ, kiến Phụ Bật Xương Khúc, tổng cộng sáu người trở lên. Đồng Cự, huynh đệ tỷ muội ba người, có khẩu thiệt thị phi. Đồng Lương, ba người, có âm thầm tranh giành. Nếu tại Dần Thân cung ngộ Sát, thì không nhiều huynh đệ. Đồng Nguyệt, năm người.

Liêm Trinh

Nhập miếu, huynh đệ tỷ muội hai người. Thường thường chủ cảm tình hòa hiệp. Hội Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quý, Thiên Phủ các Cát diệu, huynh đệ tỷ muội năm người còn lại ba người lưu tam nhân. Ngộ tứ Sát Không Kiếp Thiên Hình, chủ hình khắc, tai bệnh hoặc bất hòa. Thường sống riêng biệt rời xa nhau. Liêm Tướng, hai người. Liêm Phủ, hai đến ba người, kiến Xương Khúc Tả Hữu ba người. Liêm Tham, rất ít ỏi, có huynh đệ cũng chiêu oán, gia Sát thì chủ cô thân. Liêm Sát, một người. Liêm Phá, một người. Cảm tình dể phát sinh phản phục.

Thiên Phủ

Thủ Huynh đệ cung chủ có nhiều huynh đệ, năn người trở lên. Kiến Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật, huynh đệ có nhiều tài năng, mà lại có sự giúp đỡ trợ lực lẫn nhau. Cùng Vũ Khúc, Liêm Trinh hội, có thương khắc. Tái kiến Văn Khúc thì chủ huynh đệ tỷ muội nhiều dối trá không chân thật. Kiến Tứ sát, Hóa Kị, Thiên Hình, Không Kiếp, Đại Hao các sao, hình khắc bất hòa, hoặc huynh đệ tỷ muội cũng chỉ được một hai người, cần phải tự bản thân mình tự phấn đấu. Kiến Thất Sát Phá Quân hội hợp, chiêu oán. Tái kiến tứ Sát, Không Kiếp, huynh đệ chỉ hơn hai người.

Thái Âm

Nhập miếu huynh đệ tỷ muội năm người. Hãm địa ba người và không đồng tâm. Thiên Cơ đồng độ hai người. Ngộ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa các sao, huynh đệ phú quý đa tài. Ngộ tứ Sát, Không Kiếp, hình khắc bất hòa, hoặc ở xa nhau và bất hòa. Thái Âm Hóa Kị, hội hợp Thiên Lương, kiến Sát, chủ huynh đệ có âm mưu. Thái Âm và Thiên Đồng xung đối, trong huynh đệ với nữ là con trưởng là tốt đẹp. Không thì dể kiến hình khắc.

Tham Lang

Hội Phụ Bật, Khôi Việt, huynh đệ hòa thuận, hỗ tương bang trợ cho nhau. Giỏi bảo vệ duy trì sinh hoạt cân bằng trên mặt nước với sự lai vãng tới lui thăm hỏi, chủ có huynh đệ ba người. Tử Vi đồng độ hai người. Liêm Trinh đồng độ một người, hoặc bất hòa. Hội chiếu Vũ Khúc cô đơn, hoặc do khác mẹ sinh ra. Tham Lang lạc hãm thủ Huynh đệ cung, cũng chủ có huynh đệ khác mẹ. Hội chiếu Hỏa Linh, Dương Đà, Thiên Hình các sao, cô đơn, hoặc hình khắc bất hòa; chủ huynh đệ có sự tranh đoạt về phương diện vật chất.

Cự Môn

Nhập miếu hai người. Cùng với Thái Dương đồng độ, huynh đệ tỷ muội ba người. Tái dữ Phụ Bật, Khôi Việt, Xương Khúc, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Phúc đẳng diệu hội hợp, cũng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa các sao đồng cư, chủ huynh đệ đều có tài sáng lập cơ nghiệp. Cự Cơ, hai người, có cơ tâm mưu mẹo, đông tây li tán. Cự Đồng, có kết bái huynh đệ, nhưng cuối cùng hung ác khích mạt không ra gì. Phàm khi Cự Môn thủ Huynh đệ cung, cùng với Không Kiếp, Đại Hao các sao hội chiếu, chịu nhiều sự lợi dụng từ huynh đệ. Cùng với tứ Sát, Âm Sát, Cô Thần, Quả Tú các sao hội chiếu, hình khắc thị phi phân tranh. Hóa Kị, cũng chủ thị phi khẩu thiệt, mà lại chủ tai bệnh phá hao. Kiến Thiên Nguyệt, hình hao thì chủ nguyên nhân do huynh đệ có tai bệnh hao tốn tiền tài mà phá tài.

Thiên Tướng

Nhập miếu có Phụ Bật hội chiếu, năm người trở lên. Tử Vi đồng độ, ba người trở lên, mà huynh đệ thích mạnh bạo thích hơn người (hảo cường hảo cao). Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh các sao đồng độ, huynh đệ tỷ muội hai người, mà ý kiến bất hợp. Kiến Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng với Lộc Tồn các sao, huynh đệ tú phát, có tài có thế. Vũ Khúc Phá Quân củng chiếu, có Phụ Bật các sao, huynh đệ tuy nhiều, nhưng có hình thương, hoặc huynh đệ khác mẹ, cùng với nhiều năm về sau có rất nhiều tiểu huynh đệ, ước chừng tám năm hoặc trên mười hai năm.

Thiên Lương

Nhập miếu lâm Huynh đệ cung, hội Phụ Bật, Khôi Việt các sao, năm người trở lên, mà huynh đệ tỷ muội lại có hòa khí. Nếu nhập miếu mà không có Phụ Bật, chủ có huynh đệ khác mẹ. Phàm khi nhập miếu kiến Khôi Việt mà không có Phụ Bật, đồng bào huynh đệ khoảng hai ba người, có sự âm thầm tranh giành, nghiêng ngã khuynh tễ, hoặc lại phân li. Cùng với Thái Dương đồng độ tại Mão Dậu các cung, chủ tranh đoạt gia sản, hoặc phát sinh hiểu lầm ghen ghét đố kị. Cùng với Thiên Cơ đồng độ hoặc hội chiếu, huynh đệ hai người. Cùng với Thái Âm, Hồng Loan, Thiên Hỉ hội chiếu, nhiều tỉ muội. Cùng với Thiên Đồng đồng độ, đồng cư một chổ thì có hai người, phân cư hoặc cư dị địa thì có ba người. Cùng với tứ Sát, Thiên Hình, Không Kiếp các tinh diệu hội hợp, hình khắc bất hòa, phân li phân tranh.

Thất Sát

Nhập miếu mà lại hội chiếu Lộc, Quyền, Khoa Phụ Bật các sao. Huynh đệ nhiều người duy chỉ có hình khắc. Thất Sát thủ Huynh đệ cung, mà hội chiếu Phụ Bật, hoặc Mệnh cung hội chiếu Phụ Bật, cũng chủ có nhiều huynh đệ nhưng lại có hình khắc phân li. Cảm tình hòa hiệp, sợ rằng thật tế có ít trợ lực giúp đỡ nhau. Dần Thân nhị cung, huynh đệ nhiều tài thanh cao trong sạch. Tị Hợi nhị cung, huynh đệ có khả năng quý. Thìn Tuất nhị cung, huynh đệ có khả năng phú. Nếu hội chiếu Sát tinh Hóa Kị, vẫn có tai bệnh, hình khắc, phân li.

Phá Quân

Chủ huynh đệ sống xa nhau hoặc hình khắc. Phàm khi Phá Quân thủ Huynh đệ cung, tự bản thân mình thường làm con trưởng, hoặc tuy dù đứng thứ hai thứ ba, nhưng tại các chủng loại tình hình dưới đây, tuy dù không là huynh trưởng mà hình đồng huynh trường, như huynh trưởng tạ thế hoặc kế xuất; hoặc trưởng tỉ xuất giá, hoặc tự bản thân mình kế xuất đẳng. Không thì cũng tự bản thân mình gánh vác trách nhiệm trưởng nam hoặc trưởng nữ. Cùng với Lục cát đồng độ hoặc hội chiếu, chủ huynh đệ có sự nương nhờ nhau. Phá Quân thủ Huynh đệ cung mà có Sát tinh hội chiếu, hình khắc, cô độc. Tử Phá, ba người. Nhưng bất hòa hoặc khác (các) bào. Đồng sự thì dể kết đảng. Vũ Phá, hai người. Kiến Sát một người. Thiếu hòa thuận. Liêm Phá, khoảng một người.

Phụ Tá – Sát Diệu

Lộc Tồn.

Tại sinh vượng cung viên hấp dẫn hợp lòng người, nếu không phùng tứ Sát Không Kiếp, chủ trong huynh đệ tỷ muội có người quý hiển. Nếu cùng với Trường Sinh đồng độ, huynh đệ tỷ muội có duyên phận nhân duyên tốt đẹp. Cùng với Thiên Mã hội hợp, huynh đệ tỷ muội có người phát đạt tại nơi xa.

Thiên Mã.

Kiến Phụ Tá cát diệu hội hợp, huynh đệ tỷ muội tuy phân tán đông tây, nhưng giữa người này với người kia vẫn có sự trợ lực giúp đỡ nhau. Như Cát Hung tinh diệu tịnh hội, hoặc chủ có dị bào thủ túc, hoặc huynh đệ tỷ muội phân thành lưỡng đảng. Cát diệu hữu lực, thì cận chủ một số ít người xa lánh bất hòa, phần đông người lai vãng tới lui qua lại với nhau.

Tả Phụ.

Kiến Cát diệu, thì chủ đắc lực; nếu phùng tứ Sát, Hình, Kị thì chủ vì huynh đệ tỷ muội mà chịu liên lụy. Kiến Không Kiếp, lại hội Sát Kị, chủ cảm tình với bản chất tốt đẹp, nhưng đột ngột phát sinh biến hóa; hoặc huynh đệ tỷ muội bổng nhiên phát sinh tai ngộ bất ngờ ngoài ý muốn.

Hữu Bật.

Kiến Vũ Khúc Thất Sát, kiến Sát, chủ có hình khắc. Như Phụ mẫu cung kiến Đào hoa chư diệu, thì chủ dị bào. Không Kiếp, Hóa Kị, kiến nhiều Sát diệu, cô đơn.

Văn Xương.

Kiến Thiên Phủ, Tả Phụ, Hữu Bật, huynh đệ tỷ muội đắc lực. Phùng Dương Đà, huynh đệ tỷ muội có sự phân tranh. Hãm địa kiến Không Kiếp, Hóa Kị, số lượng huynh đệ tỷ muội tương ứng với từ Huynh đệ cung mất bớt người thành ít, mà lại bất hòa.

Văn Khúc.

Phùng Thất Sát, lại kiến Sát diệu, huynh đệ tỷ muội bất hòa. Hãm địa kiến Không Kiếp, rất thưa thớt ít ỏi, mà lại có khẩu thiệt. Nếu Kình Dương, Thiên Hình đồng hội, chủ tranh tụng.

Thiên Khôi.

Chủ quý mà không chủ phú. Hội chư Cát, chủ thủ túc đề huề đông vui hòa thuận.

Thiên Việt.

Giống như Thiên Khôi. Duy chỉ có lực đề kháng chống lại chư Sát, không giống như Thiên Khôi.

Hỏa Tinh, Linh Tinh.

Không mừng tái kiến Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, chủ rất thưa thớt ít ỏi. Nếu tái kiến Không Kiếp, Hóa Kị, hữu hình khắc. Kiến Tham Lang, hoặc chủ huynh đệ tỷ muội có tiền tài bất ngờ ngoài ý muốn. Nhưng cũng có khả năng chủ tự ti có tiền tài bất ngờ ngoài ý muốn. Thì nếu tái kiến Hóa Kị, Đại Hao, Sát diệu, thì không đúng như vậy.

Kình Dương.

Kiến Hóa Kị, Thiên Hình, chủ tranh tụng. Kiến Thiên Lương, càng đúng như vậy. Ngộ Không Kiếp, Đại Hao, Hỏa Linh, huynh đệ tỷ muội có thể khuynh gia bại sản. Không thích nghi sự nghiệp hợp tác với người khác.

Đà La.

Chủ huynh đệ tỷ muội người nay người kia ít lai vãng tới lui qua lại với nhau, nhưng không bất hòa. Kiến Thiên Mã, chủ huynh đệ tỷ muội rời xa quê hương ra thành phố (bối tỉnh li hương).

Địa Không.

Chủ có dị bào. Hoặc cũng chủ người này người kia li biệt. Kiến thêm Sát diệu. Huynh đệ tỷ muội đều phí công của mình để gặp gỡ.

Địa Kiếp.

Chủ dị bào hoặc li biệt. Không Kiếp giáp Huynh đệ cung, bất lợi. Giáp Liêm Trinh Hóa Kị, chủ thương tâm.

(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button