Tử vi

Đẩu Số Cốt Tủy Bình Chú

Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,

Thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,

tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.

Bạn đang xem: Đẩu Số Cốt Tủy Bình Chú

(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,

vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh

ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).

Bốn chữ “Thái Cực tinh diệu” chính là nói đến sao Bắc Cực (còn gọi là sao Thái Ất, Thái Nhất), nằm ở trung tâm của phía bắc bầu trời. Chính vì lý do Địa Cầu tự quay quanh mình, và trục của quả địa cầu khi kéo dài ra sẽ trỏ đúng vào sao Bắc Cực, nên người xưa mỗi khi quay mặt về phía bắc (diện bắc) và ngẩng mặt lên để xem xét (ngưỡng quan) bầu trời đêm thì ngỡ như tất cả chư tinh liệt tú hết thảy các sao đều chạy quay cái tâm là ngôi sao Thái Cực ở khu vực của Tử Vi viên. Ngày nay chúng ta biết được đó chính là các chuyển động biểu kiến (biểu thị theo những thứ mà mắt nhìn thấy). Từ đó mà cái bố sáng tác ra môn Đẩu Số mới mượn cái hình tượng Thiên Văn có thực để đặt tên cho hệ thống mô phỏng mối quan hệ [Thiên – Địa – Nhân], đó chính là nguyên cớ mà hình thành quan niệm coi sao Tử Vi là vua là chủ của tất cả các sao khác trên tinh bàn vậy.

Theo đó mà với những vận hạn (khoảng thời gian vận hành) của các sao trên bầu trời sẽ dẫn đến các tương tác mạnh yếu của bức xạ vũ trụ, lực hấp dẫn, thủy triều, nóng lạnh, mưa nắng, nhiệt độ, áp suất,… thông qua Địa cầu và khí hậu của nó để tác động đến sức khỏe, tính tình và hành vi của hết thảy các sinh vật nói chung và con người nói riêng. Đây chính là bản chất của câu nói sự vận hành của tinh tú tạo thành căn nguyên gốc rễ của việc phù Thân trợ Mệnh. Thí dụ, ai cũng biết chuyện nhiều tôn giáo khuyên ăn chay, tụng kinh, xưng tội, xám hối vào những ngày Rằm (Vọng), ngày mùng Một (Sóc), nhưng nào ai hay được bản chất ý nghĩa của việc làm đó là gì. Thực ra rất đơn giản, cơ thể con người hơn 2/3 là nước, chịu tác động không nhỏ của lực hấp dẫn từ mặt trăng giống như hiện tượng thủy triều. Những ngày Sóc Vọng là những ngày lực này đạt cực điểm, khiến cho khí huyết trong cơ thể người ta lưu thông bất thường, nảy sinh những tư duy cũng như tính cách và hành vi bất thường. Chẳng thế mà từ phương Đông tới phương Tây, thậm chí thổ dân châu Mỹ, đều chung nhau cái câu chuyện về kẻ X nào đó thấy trăng rằm là hóa thành hung tợn như lang sói. Cái việc ăn chay và tụng kinh hay sám hối, cốt yếu là cách kiềm chế dục tính, tĩnh tâm và kiểm soát hành vi đó thôi. Tư tưởng nó quyết định hành vi, và hành vi thì quyết định cái hậu quả mà bạn nhận được, đó chính là một phần của số mệnh của bạn vậy.

Ở tại Trời thì các tinh tú đều có những sự vận dụng linh hoạt, không phải giống hệt nhau, mỗi sao có một công dụng riêng, có sự vận hành hay tọa độ tương tác theo Kinh theo Vĩ cũng khác nhau. Vì thế mà nói “tại thiên tắc vận dụng vô thường”, hai chữ “vô thường” nghĩa là không theo một quy luật gò bó cố định nào cả. Còn nơi Người thì sự mã hóa các hiện tượng Thiên Văn thành các sao giả lập để mô phỏng sự vận động của số mệnh lại được căn cứ tính toán theo các Cách Cục mà hệ thống tinh đẩu ấy tạo thành. Cho nên nói “tại nhân tắc mệnh hữu cách cục” vậy. Cách cục thì có cao có thấp, có thanh có trọc, có quý có tiện, có phú có bần,… dẫu có loại giống nhau về tinh đẩu trong cùng Cách cục nhưng lại có độ số khác nhau về vượng suy, từ đó mà phân biệt được vinh (tươi tốt) hay khô (héo tàn). Tòng Đẩu Số khán nhân mệnh, xưa nay đều phải căn cứ vào Cách cục để mà phân định vậy. Xa rời Cách cục là lìa cành mất gốc, giống như giải bài toán viên bi chuyển động mà bỏ qua điều kiện và địa hình của quãng đường thì làm sao giải cho đúng, làm sao có thể có căn cứ mà suy luận phán đoán sự vận hành thịnh suy của cuộc đời người ta.

Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.

Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.

Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân,

Hoặc tại vượng hương, tao liên niên chi khốn khổ.

Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,

Cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.

(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.

Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu.

Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.

Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.

Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán,

Cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).

Bởi vì Cách cục rất quan trọng như đã nói, cho nên khi xem số thời việc đầu tiên phải làm đó là: xác định rõ ràng Cách cục. Mỗi một Cách cục đều được hình thành dựa trên các tính chất Âm – Dương, Động – Tĩnh, Cương – Nhu, Thời – Vị, Vượng – Suy,… Từ tam phương tứ chính mà tạo thành 1 kết cấu của Cách bài bố các sao dẫn đến một Cục diện đặc trưng. Đắc Thời đắc Vị là các Chính Tinh trong Cách cục phải miếu vượng, đủ bộ và thuần cách chứ không pha tạp. Thuần cách là Dương Cục như Mộc (3) Thổ (5) thì tốt nhất được Tử Vi ở Dương Cung, còn Âm Cục như Thủy (2) Kim (4) Hỏa (6) thì tốt nhất được Tử Vi ở Âm Cung, các Cương tinh có tính Động đi cùng các Cương tinh có tính Động, các Nhu tinh có tính Tĩnh thì nên đi với các Nhu tinh có tính tĩnh,…

Sau đó mới xét đến chúng tinh là các Phụ tinh, Tá tinh, Sát tinh, Bại diệu,… Cũng dùng các nguyên tắc Thời – Vị mà xét, như trong Cách Cục mà Chính tinh miếu vượng thì cần nhất là được Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt quý nhân, còn như trong Cách Cục mà Chính Tinh hãm địa thì lại tối quan trọng là cần được hóa cát Khoa Quyền Lộc. Lại như với nguyên tắc Cương – Nhu thì Sát Phá Tham hợp với Hỏa Linh chứ đừng đi cùng Xương Khúc. Còn theo Động – Tĩnh thì nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương không thể hòa hợp được với Kình Đà Linh Hỏa,…

Dẫu sinh cùng giờ cùng ngày tháng năm, thì số phận cũng có thể khác nhau nhiều lắm. Kẻ sinh ở kinh thành đô thị sẽ khác người sinh ở hải đảo hay non cao. Mà kể cả có sinh cùng nơi chốn đi nữa, đứa trẻ con nhà trí thức sống ở khu dân cư văn minh sẽ vẫn có số phận khác hẳn đứa trẻ con nhà nghiện ngập sống ở xóm nước đen. Môi trường và văn hóa xã hội, quy chuẩn đạo đức khác nhau sẽ tác động lên vận mệnh của chúng khác nhau. Giả như Cách Cục biểu thị 2 đứa trẻ ấy ắt phải thông minh, thì đứa con nhà trí thức nó sẽ thông minh theo cách rất sách vở nhưng kỹ năng sinh tồn thực nghiệm và láu cá ma lanh thì hoàn toàn sẽ thua xa cái đứa trẻ con nhà nghiện ngập.

Số phận người ta còn phụ thuộc vào Thời Thế vào bối cảnh xã hội. Sống trong một xã hội văn minh trong sạch liêm khiết như Đức mà đi hối lộ, trốn thuế, làm hàng giả kiểu thông minh láu cá ma lanh thì ba bữa là ngồi tù chăn kiến. Sống trong xã hội “thiên đường” nhà Sản mà làm ngay ăn thẳng, chẳng lắt léo quanh co thì chỉ có húp cháo hoặc bị đào thải khỏi guồng máy của các nhóm lợi ích. Cho nên có loại Cách Cục mà Nhật Nguyệt hãm địa lại gặp khắc tinh Kình Hình cùng Tam Hóa thì trong ác hạn lại phùng thời loạn thế được hiển vinh, tích được bạc vàng trăm vạn. Đó là Phản Cách.

Than ôi, Cách Cục tưởng dễ mà khó, dù khó lại cũng dễ lắm thay. Chỉ cần phân biệt được các mức độ Thượng Cách, Trung Cách, Hạ Cách, cần phải nắm được Chính Cách, Phản Cách, lại cần hiểu được Vượng Suy, thì như nắm được cơ trời trong tay vậy.

Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.

Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.

Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,

Nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã.

Chủ tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên,

Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.

Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,

Như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,

Tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý, ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện, mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.

Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,

An thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,

thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.

Nghĩa là:

Nên biết sự tươi hay héo của một đời người, được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.

Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.

Được tươi tốt thì phú quý vậy, còn khô héo thì hèn kém vậy,

Xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.

Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại,

Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận.

Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.

Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,

Ở tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện, chỗ Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung bình.

Lập Mệnh tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn ở cung của Tử Tuyệt thì nghèo,

An Thân tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn ở cung của Tử Tuyệt thì ti tiện,

tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,…)

Tại sao đoạn nói về Ngũ Hành này được viết ngay lập tức sau cái đoạn nhấn mạnh về vai trò quan trọng của Cách Cục?

Thưa, dĩ nhiên nó chính là một bộ phận tính chất không thể thiếu để định lượng sự ảnh hưởng của Cách Cục.

Sau khi phân định rõ ràng Cách Cục, lại xem xét các phụ tá tinh cũng như sát hung bại tinh tham gia vào Cách Cục ấy ít nhiều nặng nhẹ ra sao. Thời lập tức trở lại sử dụng quy tắc Vượng – Suy để mà đong đếm cho tường sự tươi tốt hay khô héo. Vượng thì tươi tốt, Suy thì khô héo, được tươi tốt thì tất sẽ sướng, còn khô héo dĩ nhiên khổ vậy.

Tại sao nhắc đến Ngũ Hành ở đây lại nói đến các vị của vòng Tràng Sinh?

Thưa, dùng vòng Tràng Sinh chính là cốt yếu của Vượng – Suy pháp, mỗi vị trí của vòng Tràng Sinh chính là mô tả một trạng thái đang Vượng hay Suy hay Trung Bình của một hành nào đó, bởi vì vòng Tràng Sinh là một chu trình tuần hoàn khép kín như một đồ thị hình Sin của quy luật thịnh suy, sinh lão bệnh tử, sinh sinh diệt diệt kéo dài liên miên bất tận.

Ngũ Hành đang nói ở đây là loại Ngũ Hành gì?

Thưa, là loại Ngũ Hành Nạp Âm.

Nạp Âm của Bản Mệnh hay của Cục?

Của Cục.

Phạm vi áp dụng với tinh đẩu trên thiên bàn ra sao?

Áp dụng cho 14 Chính Tinh.

Tại sao?

Số của Cục dùng an tinh tạo thành Cách, còn Hành của Cục định vượng suy cho cái Cách ấy. Đó chính là yếu chỉ trong việc xác định độ số của Cách Cục. Cũng chính là bí mật ngàn năm nay của môn Tử Vi Đẩu Số. Xưa kia, Đẩu Số và Bát Tự có chung cái gốc, sau này tách ra Đẩu Số chuyên dụng Thái Âm lịch với Số – Cung – Tinh coi nhẹ Ngũ Hành, còn Bát Tự chuyên dụng Thái Dương lịch với Can Chi – Ngũ Hành bỏ hết cả cách lập cung an Mệnh coi nhẹ Tinh Số. Chút Ngũ Hành còn lại trong môn Đẩu Số không thể bỏ được chính là phần tinh túy nhất, đặc trưng nhất, để định Vượng Suy cho Cách Cục. Cho nên, cần phải suy ngẫm cho kỹ để hiểu mà giữ lấy cái tinh túy này.

Đệ nhất tiên khán Phúc Đức, tái tam tế khảo Thiên Di,

Phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.

Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần; cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.

Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,

Kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.

Nghĩa là:

Đầu tiên phải xem Phúc Đức, rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,

Phân ra Thể Dụng của đối cung, xác định gốc rễ lưu chuyển của tam hợp.

Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu, cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.

Phàm đã được gốc rễ vững chắc, cần hợp cục tương sinh,

Vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng.

Bình chú:

Thế nào là Thể – Dụng, thế nào là Nguyên Lưu:

Thể là cái đối tượng ta đang xét, Dụng là công năng của nó. Thể như con dao, Dụng của nó là cắt, chém, cứa, mổ, cắt,… vào tay bác sĩ tốt thì dụng của dao có thể cứu người, vào tay đầu bếp giỏi thì dụng của dao có thể tạo ra món ngon, vào tay sát nhân thì dụng của dao có thể giết người,…

Nguyên Lưu là gốc rễ của vòng lưu chuyển, điểm khởi của quá trình vận hành. Dịch nói “số vãng giả, thuận; tri lai giả, nghịch” tức là muốn đếm lần về những cái đã qua thì tính thuận chiều, muốn biết những cái sắp xảy ra thì tính nghịch chiều. Tính ngược chiều để tìm về gốc rễ trước, biết điểm xuất phát thì bạn mới tỏ tường được con đường vận hành ra sao.

Mệnh cung lấy Quan cung làm cung vị của khí số, cho nên phần lớn tính cách của Mệnh cung lại bày tỏ rõ ở Quan cung. Cung vị khí số này chính là bản chất của câu “phùng Phủ khán Tướng”. Muốn tìm khí số vị của 1 cung nào đó, cứ đếm ngay từ cung ấy, nghịch hành về đến vị trí thứ 9.

Thiên Di là Dụng của cung Mệnh, và cũng chính là khí số vị của cung Phúc, trong khi Phúc là Dụng của Tài cho nên ông Tử Vân khi luận về tiền tài đầu tư thì lấy ngay cung Phúc là cung trọng điểm.

Cung Phúc Đức là cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cũng là một trong những cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại.

Vai trò quan trọng của cung Phúc Đức khi luận đoán số Tử Vi cũng được cổ nhân đúc kết trong lời các bài phú như:

Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, sau đó xét kỹ cung Thiên Di)

Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, đó là chỗ sở tại của tinh thần tư Phúc Ấm từ tổ tông ban cho).

Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.

(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).

Nếu phân chia cung Phúc Đức theo hai lĩnh vực Hữu hình và Vô hình, thì ta có thể nói rằng:

Phần Hữu hình bao gồm dòng dõi họ tộc, xuất thân của đương số thuộc tầng lớp nào trong xã hội, sự kiện một số người hay cả họ tộc thịnh suy ra sao đoàn tụ hay ly tán, hình thế ngôi mộ của tổ tông mà ảnh hưởng trực tiếp đến đương số, tài sản của tổ tông truyền thừa cho đương số,…

Phần Vô Hình bao gồm Âm đức của tổ tông truyền thừa cho đương số, Phúc đức của tự bản thân đương số được hưởng do chính mình làm việc thiện mà nên, bản năng con người (phần tiềm ẩn về tinh thần tư tưởng hành xử, nó quyết định sự bộc lộ ra bên ngoài của tính cách ở Mệnh Thân),…

Trong phần luận về Âm Chất của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có viết:

Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp “đảo hạn” (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại… xin xem thêm câu “Lộc đảo, Mã đảo…”) vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là “nhân tằng hành âm đằng” (tằng tổ – người cụ đã khuất – làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy. Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến mà được tăng thọ vậy. Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy.

Được hưởng những điều tốt lành cát lợi thì cũng được gọi là Phúc, mà gặp phải những điều xui xẻo hung hiểm thì gọi là Họa. Cho nên có thể dùng cặp Họa – Phúc để mà nói đến hoặc thay thế cho cặp Cát – Hung.

Cung Phúc Đức mà tốt có thể giải trừ tai họa, cho nên sách nói:

Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.

(Âm đức của tổ tông mà tốt đẹp là có thể khiến cho phúc tăng trăm lần, dẫu có đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).

Đó chính là lý do mà cung Phúc Đức có thể quyết định đến tuổi thọ của đương số. Xem cung Phúc Đức kết hợp cùng Mệnh Thân thì có thể đoán định được đương số thọ hay yểu.

Xem cung Phúc Đức cần phải lưu ý đến các sao Thiên Đồng vì nó hóa khí là Phúc, làm chủ của cung Phúc Đức, và đồng thời cũng cần lưu ý đến các sao Thiên Lương (hóa khí là Ấm), Tử Vi, Thiên Phủ, vì chúng cũng đều chủ ban phúc, may mắn, kéo dài tuổi thọ,… cát hung của các sao này cũng có ảnh hưởng đến tình hình cát hung chung của cung Phúc Đức.

Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh khi luận cung Phúc Đức có nói:

Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;

(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định)

Ấy là lấy tính chất của Không Vong và hung sát tinh khiến cho Âm đức của tổ tông ở Phúc Đức của đương số bị hao tán, thành ra họ hàng cũng chẳng được tề tựu, bản thân đương số cũng ly hương bôn tẩu,… Dĩ nhiên đã lang thang vô định thì tuổi trẻ thường là nghèo hèn, cho nên sách cũng nói:

Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,

Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.

(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,

Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).

Nói chung cung Phúc Đức rất ưa có các sao Quý Nhân, Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc,… có các sao chủ quan tước như Thái Dương, Thiên Tướng đắc miếu thì cũng rất tốt, bởi vì:

Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,

Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.

(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà được giàu có,

Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).

Cung Phúc Đức thường e ngại các sao Không Vong (trừ khi vô chính diệu), Hao Phá, sát ám hung tinh,…

(… Còn tiếp)

(Quách Ngọc Bội)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Đẩu Số Cốt Tủy Bình Chú

Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,

Thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,

tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.

(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,

vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh

ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).

Bốn chữ “Thái Cực tinh diệu” chính là nói đến sao Bắc Cực (còn gọi là sao Thái Ất, Thái Nhất), nằm ở trung tâm của phía bắc bầu trời. Chính vì lý do Địa Cầu tự quay quanh mình, và trục của quả địa cầu khi kéo dài ra sẽ trỏ đúng vào sao Bắc Cực, nên người xưa mỗi khi quay mặt về phía bắc (diện bắc) và ngẩng mặt lên để xem xét (ngưỡng quan) bầu trời đêm thì ngỡ như tất cả chư tinh liệt tú hết thảy các sao đều chạy quay cái tâm là ngôi sao Thái Cực ở khu vực của Tử Vi viên. Ngày nay chúng ta biết được đó chính là các chuyển động biểu kiến (biểu thị theo những thứ mà mắt nhìn thấy). Từ đó mà cái bố sáng tác ra môn Đẩu Số mới mượn cái hình tượng Thiên Văn có thực để đặt tên cho hệ thống mô phỏng mối quan hệ [Thiên – Địa – Nhân], đó chính là nguyên cớ mà hình thành quan niệm coi sao Tử Vi là vua là chủ của tất cả các sao khác trên tinh bàn vậy.

Theo đó mà với những vận hạn (khoảng thời gian vận hành) của các sao trên bầu trời sẽ dẫn đến các tương tác mạnh yếu của bức xạ vũ trụ, lực hấp dẫn, thủy triều, nóng lạnh, mưa nắng, nhiệt độ, áp suất,… thông qua Địa cầu và khí hậu của nó để tác động đến sức khỏe, tính tình và hành vi của hết thảy các sinh vật nói chung và con người nói riêng. Đây chính là bản chất của câu nói sự vận hành của tinh tú tạo thành căn nguyên gốc rễ của việc phù Thân trợ Mệnh. Thí dụ, ai cũng biết chuyện nhiều tôn giáo khuyên ăn chay, tụng kinh, xưng tội, xám hối vào những ngày Rằm (Vọng), ngày mùng Một (Sóc), nhưng nào ai hay được bản chất ý nghĩa của việc làm đó là gì. Thực ra rất đơn giản, cơ thể con người hơn 2/3 là nước, chịu tác động không nhỏ của lực hấp dẫn từ mặt trăng giống như hiện tượng thủy triều. Những ngày Sóc Vọng là những ngày lực này đạt cực điểm, khiến cho khí huyết trong cơ thể người ta lưu thông bất thường, nảy sinh những tư duy cũng như tính cách và hành vi bất thường. Chẳng thế mà từ phương Đông tới phương Tây, thậm chí thổ dân châu Mỹ, đều chung nhau cái câu chuyện về kẻ X nào đó thấy trăng rằm là hóa thành hung tợn như lang sói. Cái việc ăn chay và tụng kinh hay sám hối, cốt yếu là cách kiềm chế dục tính, tĩnh tâm và kiểm soát hành vi đó thôi. Tư tưởng nó quyết định hành vi, và hành vi thì quyết định cái hậu quả mà bạn nhận được, đó chính là một phần của số mệnh của bạn vậy.

Ở tại Trời thì các tinh tú đều có những sự vận dụng linh hoạt, không phải giống hệt nhau, mỗi sao có một công dụng riêng, có sự vận hành hay tọa độ tương tác theo Kinh theo Vĩ cũng khác nhau. Vì thế mà nói “tại thiên tắc vận dụng vô thường”, hai chữ “vô thường” nghĩa là không theo một quy luật gò bó cố định nào cả. Còn nơi Người thì sự mã hóa các hiện tượng Thiên Văn thành các sao giả lập để mô phỏng sự vận động của số mệnh lại được căn cứ tính toán theo các Cách Cục mà hệ thống tinh đẩu ấy tạo thành. Cho nên nói “tại nhân tắc mệnh hữu cách cục” vậy. Cách cục thì có cao có thấp, có thanh có trọc, có quý có tiện, có phú có bần,… dẫu có loại giống nhau về tinh đẩu trong cùng Cách cục nhưng lại có độ số khác nhau về vượng suy, từ đó mà phân biệt được vinh (tươi tốt) hay khô (héo tàn). Tòng Đẩu Số khán nhân mệnh, xưa nay đều phải căn cứ vào Cách cục để mà phân định vậy. Xa rời Cách cục là lìa cành mất gốc, giống như giải bài toán viên bi chuyển động mà bỏ qua điều kiện và địa hình của quãng đường thì làm sao giải cho đúng, làm sao có thể có căn cứ mà suy luận phán đoán sự vận hành thịnh suy của cuộc đời người ta.

Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.

Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.

Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân,

Hoặc tại vượng hương, tao liên niên chi khốn khổ.

Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,

Cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.

(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.

Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu.

Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.

Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.

Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán,

Cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).

Bởi vì Cách cục rất quan trọng như đã nói, cho nên khi xem số thời việc đầu tiên phải làm đó là: xác định rõ ràng Cách cục. Mỗi một Cách cục đều được hình thành dựa trên các tính chất Âm – Dương, Động – Tĩnh, Cương – Nhu, Thời – Vị, Vượng – Suy,… Từ tam phương tứ chính mà tạo thành 1 kết cấu của Cách bài bố các sao dẫn đến một Cục diện đặc trưng. Đắc Thời đắc Vị là các Chính Tinh trong Cách cục phải miếu vượng, đủ bộ và thuần cách chứ không pha tạp. Thuần cách là Dương Cục như Mộc (3) Thổ (5) thì tốt nhất được Tử Vi ở Dương Cung, còn Âm Cục như Thủy (2) Kim (4) Hỏa (6) thì tốt nhất được Tử Vi ở Âm Cung, các Cương tinh có tính Động đi cùng các Cương tinh có tính Động, các Nhu tinh có tính Tĩnh thì nên đi với các Nhu tinh có tính tĩnh,…

Sau đó mới xét đến chúng tinh là các Phụ tinh, Tá tinh, Sát tinh, Bại diệu,… Cũng dùng các nguyên tắc Thời – Vị mà xét, như trong Cách Cục mà Chính tinh miếu vượng thì cần nhất là được Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt quý nhân, còn như trong Cách Cục mà Chính Tinh hãm địa thì lại tối quan trọng là cần được hóa cát Khoa Quyền Lộc. Lại như với nguyên tắc Cương – Nhu thì Sát Phá Tham hợp với Hỏa Linh chứ đừng đi cùng Xương Khúc. Còn theo Động – Tĩnh thì nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương không thể hòa hợp được với Kình Đà Linh Hỏa,…

Dẫu sinh cùng giờ cùng ngày tháng năm, thì số phận cũng có thể khác nhau nhiều lắm. Kẻ sinh ở kinh thành đô thị sẽ khác người sinh ở hải đảo hay non cao. Mà kể cả có sinh cùng nơi chốn đi nữa, đứa trẻ con nhà trí thức sống ở khu dân cư văn minh sẽ vẫn có số phận khác hẳn đứa trẻ con nhà nghiện ngập sống ở xóm nước đen. Môi trường và văn hóa xã hội, quy chuẩn đạo đức khác nhau sẽ tác động lên vận mệnh của chúng khác nhau. Giả như Cách Cục biểu thị 2 đứa trẻ ấy ắt phải thông minh, thì đứa con nhà trí thức nó sẽ thông minh theo cách rất sách vở nhưng kỹ năng sinh tồn thực nghiệm và láu cá ma lanh thì hoàn toàn sẽ thua xa cái đứa trẻ con nhà nghiện ngập.

Số phận người ta còn phụ thuộc vào Thời Thế vào bối cảnh xã hội. Sống trong một xã hội văn minh trong sạch liêm khiết như Đức mà đi hối lộ, trốn thuế, làm hàng giả kiểu thông minh láu cá ma lanh thì ba bữa là ngồi tù chăn kiến. Sống trong xã hội “thiên đường” nhà Sản mà làm ngay ăn thẳng, chẳng lắt léo quanh co thì chỉ có húp cháo hoặc bị đào thải khỏi guồng máy của các nhóm lợi ích. Cho nên có loại Cách Cục mà Nhật Nguyệt hãm địa lại gặp khắc tinh Kình Hình cùng Tam Hóa thì trong ác hạn lại phùng thời loạn thế được hiển vinh, tích được bạc vàng trăm vạn. Đó là Phản Cách.

Than ôi, Cách Cục tưởng dễ mà khó, dù khó lại cũng dễ lắm thay. Chỉ cần phân biệt được các mức độ Thượng Cách, Trung Cách, Hạ Cách, cần phải nắm được Chính Cách, Phản Cách, lại cần hiểu được Vượng Suy, thì như nắm được cơ trời trong tay vậy.

Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.

Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.

Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,

Nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã.

Chủ tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên,

Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.

Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,

Như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,

Tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý, ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện, mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.

Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,

An thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,

thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.

Nghĩa là:

Nên biết sự tươi hay héo của một đời người, được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.

Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.

Được tươi tốt thì phú quý vậy, còn khô héo thì hèn kém vậy,

Xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.

Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại,

Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận.

Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.

Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,

Ở tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện, chỗ Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung bình.

Lập Mệnh tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn ở cung của Tử Tuyệt thì nghèo,

An Thân tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn ở cung của Tử Tuyệt thì ti tiện,

tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,…)

Tại sao đoạn nói về Ngũ Hành này được viết ngay lập tức sau cái đoạn nhấn mạnh về vai trò quan trọng của Cách Cục?

Thưa, dĩ nhiên nó chính là một bộ phận tính chất không thể thiếu để định lượng sự ảnh hưởng của Cách Cục.

Sau khi phân định rõ ràng Cách Cục, lại xem xét các phụ tá tinh cũng như sát hung bại tinh tham gia vào Cách Cục ấy ít nhiều nặng nhẹ ra sao. Thời lập tức trở lại sử dụng quy tắc Vượng – Suy để mà đong đếm cho tường sự tươi tốt hay khô héo. Vượng thì tươi tốt, Suy thì khô héo, được tươi tốt thì tất sẽ sướng, còn khô héo dĩ nhiên khổ vậy.

Tại sao nhắc đến Ngũ Hành ở đây lại nói đến các vị của vòng Tràng Sinh?

Thưa, dùng vòng Tràng Sinh chính là cốt yếu của Vượng – Suy pháp, mỗi vị trí của vòng Tràng Sinh chính là mô tả một trạng thái đang Vượng hay Suy hay Trung Bình của một hành nào đó, bởi vì vòng Tràng Sinh là một chu trình tuần hoàn khép kín như một đồ thị hình Sin của quy luật thịnh suy, sinh lão bệnh tử, sinh sinh diệt diệt kéo dài liên miên bất tận.

Ngũ Hành đang nói ở đây là loại Ngũ Hành gì?

Thưa, là loại Ngũ Hành Nạp Âm.

Nạp Âm của Bản Mệnh hay của Cục?

Của Cục.

Phạm vi áp dụng với tinh đẩu trên thiên bàn ra sao?

Áp dụng cho 14 Chính Tinh.

Tại sao?

Số của Cục dùng an tinh tạo thành Cách, còn Hành của Cục định vượng suy cho cái Cách ấy. Đó chính là yếu chỉ trong việc xác định độ số của Cách Cục. Cũng chính là bí mật ngàn năm nay của môn Tử Vi Đẩu Số. Xưa kia, Đẩu Số và Bát Tự có chung cái gốc, sau này tách ra Đẩu Số chuyên dụng Thái Âm lịch với Số – Cung – Tinh coi nhẹ Ngũ Hành, còn Bát Tự chuyên dụng Thái Dương lịch với Can Chi – Ngũ Hành bỏ hết cả cách lập cung an Mệnh coi nhẹ Tinh Số. Chút Ngũ Hành còn lại trong môn Đẩu Số không thể bỏ được chính là phần tinh túy nhất, đặc trưng nhất, để định Vượng Suy cho Cách Cục. Cho nên, cần phải suy ngẫm cho kỹ để hiểu mà giữ lấy cái tinh túy này.

Đệ nhất tiên khán Phúc Đức, tái tam tế khảo Thiên Di,

Phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.

Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần; cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.

Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,

Kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.

Nghĩa là:

Đầu tiên phải xem Phúc Đức, rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,

Phân ra Thể Dụng của đối cung, xác định gốc rễ lưu chuyển của tam hợp.

Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu, cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.

Phàm đã được gốc rễ vững chắc, cần hợp cục tương sinh,

Vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng.

Bình chú:

Thế nào là Thể – Dụng, thế nào là Nguyên Lưu:

Thể là cái đối tượng ta đang xét, Dụng là công năng của nó. Thể như con dao, Dụng của nó là cắt, chém, cứa, mổ, cắt,… vào tay bác sĩ tốt thì dụng của dao có thể cứu người, vào tay đầu bếp giỏi thì dụng của dao có thể tạo ra món ngon, vào tay sát nhân thì dụng của dao có thể giết người,…

Nguyên Lưu là gốc rễ của vòng lưu chuyển, điểm khởi của quá trình vận hành. Dịch nói “số vãng giả, thuận; tri lai giả, nghịch” tức là muốn đếm lần về những cái đã qua thì tính thuận chiều, muốn biết những cái sắp xảy ra thì tính nghịch chiều. Tính ngược chiều để tìm về gốc rễ trước, biết điểm xuất phát thì bạn mới tỏ tường được con đường vận hành ra sao.

Mệnh cung lấy Quan cung làm cung vị của khí số, cho nên phần lớn tính cách của Mệnh cung lại bày tỏ rõ ở Quan cung. Cung vị khí số này chính là bản chất của câu “phùng Phủ khán Tướng”. Muốn tìm khí số vị của 1 cung nào đó, cứ đếm ngay từ cung ấy, nghịch hành về đến vị trí thứ 9.

Thiên Di là Dụng của cung Mệnh, và cũng chính là khí số vị của cung Phúc, trong khi Phúc là Dụng của Tài cho nên ông Tử Vân khi luận về tiền tài đầu tư thì lấy ngay cung Phúc là cung trọng điểm.

Cung Phúc Đức là cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cũng là một trong những cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại.

Vai trò quan trọng của cung Phúc Đức khi luận đoán số Tử Vi cũng được cổ nhân đúc kết trong lời các bài phú như:

Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, sau đó xét kỹ cung Thiên Di)

Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, đó là chỗ sở tại của tinh thần tư Phúc Ấm từ tổ tông ban cho).

Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.

(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).

Nếu phân chia cung Phúc Đức theo hai lĩnh vực Hữu hình và Vô hình, thì ta có thể nói rằng:

Phần Hữu hình bao gồm dòng dõi họ tộc, xuất thân của đương số thuộc tầng lớp nào trong xã hội, sự kiện một số người hay cả họ tộc thịnh suy ra sao đoàn tụ hay ly tán, hình thế ngôi mộ của tổ tông mà ảnh hưởng trực tiếp đến đương số, tài sản của tổ tông truyền thừa cho đương số,…

Phần Vô Hình bao gồm Âm đức của tổ tông truyền thừa cho đương số, Phúc đức của tự bản thân đương số được hưởng do chính mình làm việc thiện mà nên, bản năng con người (phần tiềm ẩn về tinh thần tư tưởng hành xử, nó quyết định sự bộc lộ ra bên ngoài của tính cách ở Mệnh Thân),…

Trong phần luận về Âm Chất của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có viết:

Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp “đảo hạn” (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại… xin xem thêm câu “Lộc đảo, Mã đảo…”) vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là “nhân tằng hành âm đằng” (tằng tổ – người cụ đã khuất – làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy. Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến mà được tăng thọ vậy. Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy.

Được hưởng những điều tốt lành cát lợi thì cũng được gọi là Phúc, mà gặp phải những điều xui xẻo hung hiểm thì gọi là Họa. Cho nên có thể dùng cặp Họa – Phúc để mà nói đến hoặc thay thế cho cặp Cát – Hung.

Cung Phúc Đức mà tốt có thể giải trừ tai họa, cho nên sách nói:

Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.

(Âm đức của tổ tông mà tốt đẹp là có thể khiến cho phúc tăng trăm lần, dẫu có đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).

Đó chính là lý do mà cung Phúc Đức có thể quyết định đến tuổi thọ của đương số. Xem cung Phúc Đức kết hợp cùng Mệnh Thân thì có thể đoán định được đương số thọ hay yểu.

Xem cung Phúc Đức cần phải lưu ý đến các sao Thiên Đồng vì nó hóa khí là Phúc, làm chủ của cung Phúc Đức, và đồng thời cũng cần lưu ý đến các sao Thiên Lương (hóa khí là Ấm), Tử Vi, Thiên Phủ, vì chúng cũng đều chủ ban phúc, may mắn, kéo dài tuổi thọ,… cát hung của các sao này cũng có ảnh hưởng đến tình hình cát hung chung của cung Phúc Đức.

Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh khi luận cung Phúc Đức có nói:

Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;

(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định)

Ấy là lấy tính chất của Không Vong và hung sát tinh khiến cho Âm đức của tổ tông ở Phúc Đức của đương số bị hao tán, thành ra họ hàng cũng chẳng được tề tựu, bản thân đương số cũng ly hương bôn tẩu,… Dĩ nhiên đã lang thang vô định thì tuổi trẻ thường là nghèo hèn, cho nên sách cũng nói:

Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,

Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.

(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,

Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).

Nói chung cung Phúc Đức rất ưa có các sao Quý Nhân, Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc,… có các sao chủ quan tước như Thái Dương, Thiên Tướng đắc miếu thì cũng rất tốt, bởi vì:

Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,

Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.

(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà được giàu có,

Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).

Cung Phúc Đức thường e ngại các sao Không Vong (trừ khi vô chính diệu), Hao Phá, sát ám hung tinh,…

(… Còn tiếp)

(Quách Ngọc Bội)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button