Tử vi

Đây hẳn là nghiệp báo

Tuổi mỗi nhân sinh là một thế tiểu thái cực do lưỡng nghi thiên can và địa chi phối hiệp đúc kết, được đề danh là nạp âm. Thiên can là phần quan trọng đứng trên như cây có gốc, địa chi chỉ là nhánh là phần phụ. Mọi sự việc diễn trải qua ngày tháng do Can ấn phác, Chi trình bày sự hợp xung cách đứng. Nạp âm phần chính xác của Mệnh phụ họa với Can quyết định mức độ màn cảnh như:

Tuổi Giáp Tý can Giáp (mộc), chi Tý (thủy) thành nạp âm Giáp Tý (kim) gặp năm Canh Ngọ phải phân tích Can Canh khắc Can Giáp chi Ngọ xung chi Tí ( Thủy) khắc Ngọ ( Hỏa) có ý nghĩa tu Thiên khắc Địa xung, nhưng xung khắc xuất kể là nhẹ. Thành phần thứ 3 nạp âm năm Canh Ngọ (thổ) sinh nhập cho tuổi Giáp Tý (kim) đem lại kết quả toàn bộ cho tuổi Giáp Tý gặp năm Canh Ngọ (thiên khắc địa xung báo hiệu thời gian nguy hiểm) chỉ gặp những sự thị phi đau bịnh qua loa mà thôi.

Biết rằng hàng Can là quan hệ, nhưng nghiệp báo của người đời phải để ý 5 cặp hàng Can (Giáp Ất, Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý) đứng cùng nạp âm của mệnh mà đồng hành như Canh Thìn, Tân Tỵ có Canh Tân đều là Can Kim mà nạp âm cũng là Kim, khi gặp một sát tinh đứng trúng cách sát là khắc toàn vẹn như Hỏa Linh. Dương nhân phải cẩn thận nếu ở Mệnh phải e ngại trọn đời, còn ở một vận hội nào phải thận trọng ảnh hưởng thời gian đó. Trường hợp thiên thời Thái Tuế, sự tốt đẹp cũng chỉ còn 50%. Nhưng mỗi khi gặp lúc khó khăn vẫn có cái may bất ngờ dẫn cứu. Vậy có thể trình bày sắp xếp:

Bạn đang xem: Đây hẳn là nghiệp báo

a – Những tuổi Giáp Ất và mộc mạng phải đề phòng Thiên Hình (Kim).

b – Những tuổi Bính Đinh và hỏa mạng phải né tránh Hóa Kỵ (thủy)

c – Những tuổi Mậu Kỷ và Thổ mạng phải xa lãng Đường Phù (mộc).

d – Những tuổi Canh Tân và kim mạng phải lo ngại Hỏa Linh

e – Những tuổi Nhâm Quý và thủy mạng phải quan tâm đến Cô Quả (thổ)

Năm trường hợp thường đem đến:

1 – Người Giáp Ất và mộc mạng dễ bị Thiên Hình mổ xẻ cắt thiến thành vết sẹo mang trong thân thể hay yếu gan.

2 – Người Bính Đinh hay Hỏa mạng nên đề phòng sông nước và bệnh tim thừa thiếu máu, thân danh hay bị kiềm chế.

3 – Người Mậu Kỷ và Thổ mạng sự nghiệp trồi sụt bao tử khó tiêu hóa.

4 – Người Canh Tân và Kim mạng đề phòng họa tai mặt nhất là bệnh phổi.

5 – Người Nhâm Quý và Thủy mạng thừơng làm ơn nên oán, khó gây tình cảm, nội thương hay hành ở thận.

Để bảo thu bổn mạng, tránh phần nào sự khắc hãm mỗi hạng người nên dùng màu sắc như sau:

1 – Mộc mạng nên thường dùng màu xanh lá cây (quần áo hay sơn nhà cửa)

2 – Hỏa mạng thường hợp với màu đỏ.

3 – Thổ mạng tương đắc với màu vàng lụa.

4 – Màu trắng cho người Kim

5 – Màu xám đen lợi cho người Thủy.

Trong 5 hành chỉ có 4 hành Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý là có hàng Can đồng hành với nạp âm. Còn Giáp Ất không bao giờ có một tuổi Giáp Ất nào là hành mộc Giáp Tý, Ngọ (Kim) Giáp Dần, Thân (Thủy) Giáp Thìn, Tuất (Hỏa) nên tuổi này phải lấy nạp âm của mình mà dùng màu sắc.

Những Thiên Hình, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Cô Quả Dương Phù thủ những vai trò đao phủ tác hại hơn Không Kiếp. Thấy người Thái Tuế bị Không Kiếp đứng kèm là một đời dầu ở trường hợp nào cũng là lữ hành trên sa mạc. Bộ 3 Trường Sinh, Đế Vượng, Hoa Cái đối với dương nhân nên hiểu nghĩa sân khấu trường đời, vai trò chính mình vẫn phải thủ diễn đúng mức, nhưng nơi hậu trường sự thù lao chỉ là đạm bạc.

Bằng lá số tuổi Canh Tý sanh ngày 16 tháng 11 giờ Tỵ mở đường cho khả năng của số Di đến tuyệt đối với hai chưa tài nhập Mệnh và Thọ nhập Thân, chứa đựng một bầy hung sát tinh đắc chế hóa khiến ít ai thấu đáo rõ tư cách đương nhân (Mệnh có Hình, Đà, Hỏa được Triệt, Vũ Phá Linh gặp Tuần ở Thân, cả bộ Không Kiếp giáp Thân đều được cả Tuần lẫn Triệt lột xác). Bộ tam hợp bắt đầu từ Vũ Phá (tham vọng quá bạo) đi đến Tử Tham (uy hiếp hiền nhân) kết quả dẫn đến Liêm Sát (lộ thượng mai thi = chết đường) cần phân tích đâu là uy hiếp người đâu là người bị uy hiếp.

Tuổi Canh Tý thổ mạng chính là Tử Vi khắc chế được Tham Lang (Thủy) Tham Lang tuy là thủy mà đới mộc đầy ý nghĩa có vay là phải trả.

Người Canh Tý này đắc Đế Vượng ở tứ chính trong tam hợp mệnh đương nhiên giai đoạn Thái Tuế 53 – 62 ở Tý phải được ưu đãi địa vị và Thọ hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân (tam hợp).

Thời oanh liệt Tài và Thọ đã làm được gì để xứng đáng với Quan Phúc trực sẵn ở Ách có Thiên Sứ sẵn sàng chỉ huy Tang Mã. Biết rằng sau Thái Tuế tiếp đến Thiên Không ở Mộ Địa ngay cung Di có Dương Phù Kình Dương toa rập cùng Liêm Sát, mặc dầu 2 chữ Canh Tý có một căn vững chắc hơn người (Can Canh sinh cho Chi Tý).

Thật rõ ràng luật bù trừ của thiên nhiên không thể sai lệch đòn căn nhân quả nghiệp báo.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Đây hẳn là nghiệp báo

Tuổi mỗi nhân sinh là một thế tiểu thái cực do lưỡng nghi thiên can và địa chi phối hiệp đúc kết, được đề danh là nạp âm. Thiên can là phần quan trọng đứng trên như cây có gốc, địa chi chỉ là nhánh là phần phụ. Mọi sự việc diễn trải qua ngày tháng do Can ấn phác, Chi trình bày sự hợp xung cách đứng. Nạp âm phần chính xác của Mệnh phụ họa với Can quyết định mức độ màn cảnh như:

Tuổi Giáp Tý can Giáp (mộc), chi Tý (thủy) thành nạp âm Giáp Tý (kim) gặp năm Canh Ngọ phải phân tích Can Canh khắc Can Giáp chi Ngọ xung chi Tí ( Thủy) khắc Ngọ ( Hỏa) có ý nghĩa tu Thiên khắc Địa xung, nhưng xung khắc xuất kể là nhẹ. Thành phần thứ 3 nạp âm năm Canh Ngọ (thổ) sinh nhập cho tuổi Giáp Tý (kim) đem lại kết quả toàn bộ cho tuổi Giáp Tý gặp năm Canh Ngọ (thiên khắc địa xung báo hiệu thời gian nguy hiểm) chỉ gặp những sự thị phi đau bịnh qua loa mà thôi.

Biết rằng hàng Can là quan hệ, nhưng nghiệp báo của người đời phải để ý 5 cặp hàng Can (Giáp Ất, Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý) đứng cùng nạp âm của mệnh mà đồng hành như Canh Thìn, Tân Tỵ có Canh Tân đều là Can Kim mà nạp âm cũng là Kim, khi gặp một sát tinh đứng trúng cách sát là khắc toàn vẹn như Hỏa Linh. Dương nhân phải cẩn thận nếu ở Mệnh phải e ngại trọn đời, còn ở một vận hội nào phải thận trọng ảnh hưởng thời gian đó. Trường hợp thiên thời Thái Tuế, sự tốt đẹp cũng chỉ còn 50%. Nhưng mỗi khi gặp lúc khó khăn vẫn có cái may bất ngờ dẫn cứu. Vậy có thể trình bày sắp xếp:

a – Những tuổi Giáp Ất và mộc mạng phải đề phòng Thiên Hình (Kim).

b – Những tuổi Bính Đinh và hỏa mạng phải né tránh Hóa Kỵ (thủy)

c – Những tuổi Mậu Kỷ và Thổ mạng phải xa lãng Đường Phù (mộc).

d – Những tuổi Canh Tân và kim mạng phải lo ngại Hỏa Linh

e – Những tuổi Nhâm Quý và thủy mạng phải quan tâm đến Cô Quả (thổ)

Năm trường hợp thường đem đến:

1 – Người Giáp Ất và mộc mạng dễ bị Thiên Hình mổ xẻ cắt thiến thành vết sẹo mang trong thân thể hay yếu gan.

2 – Người Bính Đinh hay Hỏa mạng nên đề phòng sông nước và bệnh tim thừa thiếu máu, thân danh hay bị kiềm chế.

3 – Người Mậu Kỷ và Thổ mạng sự nghiệp trồi sụt bao tử khó tiêu hóa.

4 – Người Canh Tân và Kim mạng đề phòng họa tai mặt nhất là bệnh phổi.

5 – Người Nhâm Quý và Thủy mạng thừơng làm ơn nên oán, khó gây tình cảm, nội thương hay hành ở thận.

Để bảo thu bổn mạng, tránh phần nào sự khắc hãm mỗi hạng người nên dùng màu sắc như sau:

1 – Mộc mạng nên thường dùng màu xanh lá cây (quần áo hay sơn nhà cửa)

2 – Hỏa mạng thường hợp với màu đỏ.

3 – Thổ mạng tương đắc với màu vàng lụa.

4 – Màu trắng cho người Kim

5 – Màu xám đen lợi cho người Thủy.

Trong 5 hành chỉ có 4 hành Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý là có hàng Can đồng hành với nạp âm. Còn Giáp Ất không bao giờ có một tuổi Giáp Ất nào là hành mộc Giáp Tý, Ngọ (Kim) Giáp Dần, Thân (Thủy) Giáp Thìn, Tuất (Hỏa) nên tuổi này phải lấy nạp âm của mình mà dùng màu sắc.

Những Thiên Hình, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Cô Quả Dương Phù thủ những vai trò đao phủ tác hại hơn Không Kiếp. Thấy người Thái Tuế bị Không Kiếp đứng kèm là một đời dầu ở trường hợp nào cũng là lữ hành trên sa mạc. Bộ 3 Trường Sinh, Đế Vượng, Hoa Cái đối với dương nhân nên hiểu nghĩa sân khấu trường đời, vai trò chính mình vẫn phải thủ diễn đúng mức, nhưng nơi hậu trường sự thù lao chỉ là đạm bạc.

Bằng lá số tuổi Canh Tý sanh ngày 16 tháng 11 giờ Tỵ mở đường cho khả năng của số Di đến tuyệt đối với hai chưa tài nhập Mệnh và Thọ nhập Thân, chứa đựng một bầy hung sát tinh đắc chế hóa khiến ít ai thấu đáo rõ tư cách đương nhân (Mệnh có Hình, Đà, Hỏa được Triệt, Vũ Phá Linh gặp Tuần ở Thân, cả bộ Không Kiếp giáp Thân đều được cả Tuần lẫn Triệt lột xác). Bộ tam hợp bắt đầu từ Vũ Phá (tham vọng quá bạo) đi đến Tử Tham (uy hiếp hiền nhân) kết quả dẫn đến Liêm Sát (lộ thượng mai thi = chết đường) cần phân tích đâu là uy hiếp người đâu là người bị uy hiếp.

Tuổi Canh Tý thổ mạng chính là Tử Vi khắc chế được Tham Lang (Thủy) Tham Lang tuy là thủy mà đới mộc đầy ý nghĩa có vay là phải trả.

Người Canh Tý này đắc Đế Vượng ở tứ chính trong tam hợp mệnh đương nhiên giai đoạn Thái Tuế 53 – 62 ở Tý phải được ưu đãi địa vị và Thọ hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân (tam hợp).

Thời oanh liệt Tài và Thọ đã làm được gì để xứng đáng với Quan Phúc trực sẵn ở Ách có Thiên Sứ sẵn sàng chỉ huy Tang Mã. Biết rằng sau Thái Tuế tiếp đến Thiên Không ở Mộ Địa ngay cung Di có Dương Phù Kình Dương toa rập cùng Liêm Sát, mặc dầu 2 chữ Canh Tý có một căn vững chắc hơn người (Can Canh sinh cho Chi Tý).

Thật rõ ràng luật bù trừ của thiên nhiên không thể sai lệch đòn căn nhân quả nghiệp báo.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button