Tử vi

LUẬN TAM SÁT

“Thông thư” nói rằng: “Tam sát chỉ kỵ tu phương, trước hết theo phương cát bắt tay làm,liên tiếp đó tu sửa thời không sao. Như năm Tý tam sát tại Tỵ Ngọ Mùi, nếu phương Tốn, Khôn có cát tinh thời theo phương Tốn khởi công, liên tiếp đến phương Tỵ Ngọ Mùi, đến phương Khôn dừng công việc cũng được. Chỉ kiêng việc tu sửa phương Tỵ Ngọ Mùi vậy.

“Tuyển trạch Tông kính” viết: “Tam sát vẫn là sát cực mạnh, Phục binh, Đại Họa là thứ. Muốn chế phục chỗ đến đó, nếu chiếm sơn thời tạo táng thời phải kỵ, duy chiếm phương có thể chế mà tu sửa vậy. Phếp chế là

– Cần tam hợp cục để thắng được.

Bạn đang xem: LUẬN TAM SÁT

– Tam hợp được thời lệnh của tháng, tam sát là tháng hưu tù.

– Cần bản mệnh có Lộc mã quý nhân, bát tiết tam kỳ, nhật nguyệt chiếu lâm vào. Tiểu tu thời hoặc nguyệt hay nhật nạp âm khắc nạp âm tam sát, được một vài cát tinh đến phương, là có thể được.

Tam sát tại phương nam Tỵ Ngọ Mùi thời thuộc hỏa dùng năm tháng ngày giờ Thân Tý Thìn. Tại phương đông Dần Mão Thìn thuộc mộc dùng ngày tháng Tỵ Dậu Sửu. Tại Phương tây Thân Dậu Tuất thuộc kim dùng tháng ngày giờ Dần Ngọ Tuất. Hợi Tý Sửu tam hợp không có thổ cục không thể chế được nên kỵ ko dùng. Còn Thìn Tuất Sửu Mùi xung nhau.

Tăng Văn Mông cho trạch chủ Nhâm thân tu sửa ở phương tam sát Ngọ mùi, ông dùng năm Giáp thìn, tháng Mậu thìn, Ngày Nhâm tý, giờ Canh tý dựng cột lên cùng với mệnh sinh năm Nhâm thân thành thủy cục Thân Tý Thìn, để khắc hỏa sát, đó là một cái tốt. thiên can Giáp Mậu Canh là tam kỳ, hai chi Thìn Tý không tạp, Ngọ là tam hợp, mà Giáp Mậu canh Quý nhân tại Mùi. Năm Giáp phương Ngọ Mùi Canh ngọ, Tân mùi nạp âm thuộc thổ mà tháng Mậu thìn, Nhâm tý nạp âm đều là mộc khắc thổ. Mã ở Nhâm pDần, tuế lộc, tuế mà ở Bính dần đều đến ly là cát. Người xưa dùng khéo như thế đó.

Xét tam sát là chỗ xung thái tuế tam hợp, có thể hướng vào mà không có thể ngồi vào, vì vậy chiếm sơn thời tạo táng đều phải kị, chiếm phương có thể chể đi dùng tạm mà tu sửa.

Như vậy không thể luận các năm như nhau được. Năm Dần tỵ thân hợi sát tại phương sinh ra ta, là vị trí Thu khai bế lại dương ở khí hưu. Năm Thìn tuất sửu mùi sát tại phương ta sinh ra, là vị trí Trừ mãn bình, dương là khí tướng. Phép chế hóa tuy có khinh trọng nhưng cũng không giống nhau, mà cần có thể chế được hóa được biến hung thành cát.

Lại hóa sát biến khắc thành sinh, có khác với nghĩa của chế sát. Sát khắc ta thì dùng con của sát. Như kim sát khắc mộc tuế, dùng ngày giờ thủy cục, thời tiết kim để sinh mộc rồi. Tuế khắc sát dùng tài của sát. Như thủy tuế khắc hỏa sát, dùng ngày tháng giờ kim cục, thời tiết hỏa để sinh thủy rồi. dùng tử sát hưu, tài sát tù đều có diệu nghĩa. Duy mộc sát không có thổ cục, thời không dùng hỏa mà phải chế mới được. tháng tam sát cũng phỏng theo như thế.

(Dẫn từ Hiệp kỷ)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm LUẬN TAM SÁT

“Thông thư” nói rằng: “Tam sát chỉ kỵ tu phương, trước hết theo phương cát bắt tay làm,liên tiếp đó tu sửa thời không sao. Như năm Tý tam sát tại Tỵ Ngọ Mùi, nếu phương Tốn, Khôn có cát tinh thời theo phương Tốn khởi công, liên tiếp đến phương Tỵ Ngọ Mùi, đến phương Khôn dừng công việc cũng được. Chỉ kiêng việc tu sửa phương Tỵ Ngọ Mùi vậy.

“Tuyển trạch Tông kính” viết: “Tam sát vẫn là sát cực mạnh, Phục binh, Đại Họa là thứ. Muốn chế phục chỗ đến đó, nếu chiếm sơn thời tạo táng thời phải kỵ, duy chiếm phương có thể chế mà tu sửa vậy. Phếp chế là

– Cần tam hợp cục để thắng được.

– Tam hợp được thời lệnh của tháng, tam sát là tháng hưu tù.

– Cần bản mệnh có Lộc mã quý nhân, bát tiết tam kỳ, nhật nguyệt chiếu lâm vào. Tiểu tu thời hoặc nguyệt hay nhật nạp âm khắc nạp âm tam sát, được một vài cát tinh đến phương, là có thể được.

Tam sát tại phương nam Tỵ Ngọ Mùi thời thuộc hỏa dùng năm tháng ngày giờ Thân Tý Thìn. Tại phương đông Dần Mão Thìn thuộc mộc dùng ngày tháng Tỵ Dậu Sửu. Tại Phương tây Thân Dậu Tuất thuộc kim dùng tháng ngày giờ Dần Ngọ Tuất. Hợi Tý Sửu tam hợp không có thổ cục không thể chế được nên kỵ ko dùng. Còn Thìn Tuất Sửu Mùi xung nhau.

Tăng Văn Mông cho trạch chủ Nhâm thân tu sửa ở phương tam sát Ngọ mùi, ông dùng năm Giáp thìn, tháng Mậu thìn, Ngày Nhâm tý, giờ Canh tý dựng cột lên cùng với mệnh sinh năm Nhâm thân thành thủy cục Thân Tý Thìn, để khắc hỏa sát, đó là một cái tốt. thiên can Giáp Mậu Canh là tam kỳ, hai chi Thìn Tý không tạp, Ngọ là tam hợp, mà Giáp Mậu canh Quý nhân tại Mùi. Năm Giáp phương Ngọ Mùi Canh ngọ, Tân mùi nạp âm thuộc thổ mà tháng Mậu thìn, Nhâm tý nạp âm đều là mộc khắc thổ. Mã ở Nhâm pDần, tuế lộc, tuế mà ở Bính dần đều đến ly là cát. Người xưa dùng khéo như thế đó.

Xét tam sát là chỗ xung thái tuế tam hợp, có thể hướng vào mà không có thể ngồi vào, vì vậy chiếm sơn thời tạo táng đều phải kị, chiếm phương có thể chể đi dùng tạm mà tu sửa.

Như vậy không thể luận các năm như nhau được. Năm Dần tỵ thân hợi sát tại phương sinh ra ta, là vị trí Thu khai bế lại dương ở khí hưu. Năm Thìn tuất sửu mùi sát tại phương ta sinh ra, là vị trí Trừ mãn bình, dương là khí tướng. Phép chế hóa tuy có khinh trọng nhưng cũng không giống nhau, mà cần có thể chế được hóa được biến hung thành cát.

Lại hóa sát biến khắc thành sinh, có khác với nghĩa của chế sát. Sát khắc ta thì dùng con của sát. Như kim sát khắc mộc tuế, dùng ngày giờ thủy cục, thời tiết kim để sinh mộc rồi. Tuế khắc sát dùng tài của sát. Như thủy tuế khắc hỏa sát, dùng ngày tháng giờ kim cục, thời tiết hỏa để sinh thủy rồi. dùng tử sát hưu, tài sát tù đều có diệu nghĩa. Duy mộc sát không có thổ cục, thời không dùng hỏa mà phải chế mới được. tháng tam sát cũng phỏng theo như thế.

(Dẫn từ Hiệp kỷ)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button