Tử vi

Luận về mệnh cách Cự Đồng.

Lá số mệnh cách Cự Đồng cư Sửu đắc cách, có địa vị cao trong xã hội. Phần luận cách cục này học trò luận. Về cách cục đã có cái nhìn tổng thể về tử vi, ứng hợp đúng với mệnh tạo ngoài thực tế người viết đã từng luận, trình bày luận tương đối đầy đủ về định cách cơ bản, xóa bỏ được một phần cách luận thiên lệch trước đây. Người nghiên cứu tử vi không nên nóng vội, nghiệm lý từng cách cục nhỏ, từ cơ bản nắm rõ, thực lý rõ thì gốc vững, gốc vững thì luận không gặp rối loạn. 

Bố cục chung Thiên bàn phân thành 4 nhóm sao đó là TPVTL, SPT, Cự Đồng Cơ và Âm Dương Lương. Tinh hệ này là tinh hệ Tử Vi cư Ngọ, đương số sẽ có những phẩm chất hơn người, chí ít là ở hoàn cảnh. Tử Vi độc tọa, lý tưởng và tính chất bộc lộ rõ ràng, không bị ảnh hưởng và bộ Âm Dương sáng tạo điều kiện tốt cho đương số. Trò luận đương số có chính kiến, có lý tưởng. Đó là xét về chính tinh. Xét tiếp đến Bàng tinh, Không Kiếp Kỵ Hình Linh Hỏa không tụ tập. Các sao tăng mức độ quan trọng tụ tập nhiều ở cung độ Thái Âm Khoa Khôi Việt Đại. Thực ra trò vẫn khó phân biệt cung trọng điểm. Các trường hợp rõ ràng như lá số của trò có thể ngay lập tức nhận ra. Nhưng nhiều lá số rất khó. Ở đây trò vẫn nhận định cung trọng điểm là cung quan lộc với chính tinh Thiên Cơ ngộ Hữu Việt Hư Mã Không Kiếp nhập Sinh. Ở đây là bố cục khá xấu nhưng may mắn nhập được Sinh Vượng mà hóa cát. Người này sẽ gặp nhiều nghịch cảnh nhưng lại vượt qua được mà thành công. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn hạnh phúc.

Mệnh cung chủ ý chí, nghị lực con người, cũng là nơi bộc lộ phẩm chất và tính cách. Bố cục chung Mệnh Tài Quan là Cự Cơ Đồng ngộ Tả Hữu Việt Quyền Kình Tiểu với Tang Hư Khách có Tuần Triệt Không Kiếp nhập Sinh Vượng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao chủ bất mãn, phản đối, dễ sinh thị phi, bất đồng mà đưa đến phản bội, mang tính chất nội bộ. Ở đây Cự Đồng Cơ ngộ Kình Hao, tính phản kháng càng thêm mạnh, nhưng chỉ là Tiểu Hao, tính chủ động bị hạn chế, trong lòng chứa nhiều bất mãn. Cự Đồng cơ ngộ Tang Hư Khách, can Quý Cự hóa Quyền, Tang Hư Khách hợp với Thiên Đồng chủ từ thiện, làm phúc, lại có Thiên Việt thật tốt quá, đương số tốt bụng, thương người, hay giúp đỡ người khác mà cũng được giúp đỡ lại. Tuy nhiên cũng hình thành các cách xấu như Đồng Không Kiếp, Cự Không Kiếp, nếu không làm phúc sau này tai họa tất đến, dù cho Không Kiếp đắc địa đi chăng nữa. Bố cục nhập Sinh Vượng nên vượt qua được những khó khăn, năng lượng lớn, có ý chí, có sức khỏe: “Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập Mộ hoặc cư Tuyệt xứ. VCD hoan phùng Tả Hữu Sinh Vượng hóa hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài”. Đương số lại được sinh ra trong gia đình giàu có, được học hành đầy đủ, do vậy hưởng phúc tài lại càng đúng. (Câu phú nói đến VCD nhưng trò nghĩ là tính cả chính tinh, không biết đúng k thầy?). 

Bạn đang xem: Luận về mệnh cách Cự Đồng.

Mệnh cung cũng là đại vận đầu tiên là Cự Đồng ngộ Tang Kình Quyền nhập Vượng có Tuần Triệt án ngữ. 

Mệnh Thân đồng cung, đương số khá thống nhất trong suy nghĩ và hành động, ngôi sao Tử Vi độc tọa tại Ngọ chủ lý tưởng. Người này có ước mơ và phấn đấu theo ước mơ đó. Mệnh Thủy, Đồng Cự cũng đều là hành Thủy, luận theo cả 2 sao. Ở đây dụng Thiên Đồng có lẽ tốt hơn so với Cự Môn do hình thành cách Đồng Tang hay hơn Cự Kình không có Phượng. Cái hay là Tuần Triệt án ngữ nên được hưởng 2 chữ phòng tránh, hai cung Tài Quan tuy rằng không đẹp nhưng cũng khó ảnh hưởng đến Mệnh Thân. Mệnh có Tang Môn, đương số có nét buồn trên gương mặt. “Tang Hổ Điếu Binh vị chi tứ Hung, nhược ngộ Đồng tinh nhi hóa cát”, đương số phẩm chất tốt, đây là người tốt bụng, tuy nhiên công việc không tốt, dễ gặp tai họa tác động trở lại cung Mệnh, khiến Mệnh cung có điều bất mãn, lo nghĩ. Cung Quan Lộc với cách Cơ ngộ Hư Mã Không Kiếp có Việt chủ phát sinh khó khăn, tai họa và đánh giá sai thời cơ. Mệnh cung phản kháng lại bằng sự bất mãn Cự Kình nhưng chỉ là Tiểu hao, phản kháng và sự thay đổi cũng không mạnh mẽ, không được ủng hộ của Phượng Các. Tuổi nhỏ đi học, có lẽ đương số kết quả học tập không được tốt.

Phú có câu: “ Cự hãm tứ Mộ đa ngôn, phản phúc nghi hoặc học càng tối tăm” Đa ngôn là nói nhiều, lại nói tầm bậy cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối. Từ chỗ cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối đến vô tình hay cố ý phản bội người. Mệnh tại đây ta là người có khuynh hướng tạo phản, đồng thời cũng là kẻ bị hại.

Đại vận thứ hai nhập cung độ Tham Lang. Tham Lang ngộ Tuần Triệt Đào Tồn Kỵ. Tham Đào ham chơi, lại gặp cách cục xấu “Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cục”. Tam hợp là Phá Tướng Ấn nhập Tuyệt và Thất Sát ngộ Xương Hồng Bệnh. Đại vận này bất lợi cho tình cảm, lại Phá Quân nhập Tuyệt không lợi cho phá bỏ. Mệnh Cự Đồng đến hạn Cáo Phụ, Tồn Kỵ khéo còn mang tiếng hỗn láo với người trên, trong lòng tồn tại bất mãn. Tuy nhiên Tham ngộ Tuần Triệt lại hướng đương số đến Không cách, huyền học tu đạo: “Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần tâm hồn thư thái”. Ở đây trò nghĩ cả nam và nữ, Triệt Tuần ở đây giúp đương số bớt ham chơi mà thay vào là được giáo dục tốt, nhưng bại cục vẫn là khó tránh khỏi. Ở đây luận khí hình biến đổi theo hướng tĩnh, đi theo Thiên Đồng, dụng ngôi sao này, ở đây trò khó khăn trong việc luận khí hình vận, mong thầy giảng thế nào để đánh giá là khí hình mạnh/cao, thế nào là khí hình thấp ạ. Đương số sinh ra trong gia đình giàu có nên khí hình gốc vượng. 

Đại vận thứ 3 hội họp nhiều sao quan trọng, đến đây đương số bắt đầu gặt hái được thành công, nhưng nhìn chung nếu là một người xuất thân bình thường các đại vận trải qua trò thấy không nổi bật cho lắm, thành công cũng không được vang dội. Ở đây có lẽ do hoàn cảnh đương số sinh ra trong gia đình như vậy nên mới được làm Tổng giám đốc, nếu không có lẽ cuộc đời sẽ rẽ sang hướng khác.

(Dẫn theo trang www.luantuvi.vn)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Luận về mệnh cách Cự Đồng.

Lá số mệnh cách Cự Đồng cư Sửu đắc cách, có địa vị cao trong xã hội. Phần luận cách cục này học trò luận. Về cách cục đã có cái nhìn tổng thể về tử vi, ứng hợp đúng với mệnh tạo ngoài thực tế người viết đã từng luận, trình bày luận tương đối đầy đủ về định cách cơ bản, xóa bỏ được một phần cách luận thiên lệch trước đây. Người nghiên cứu tử vi không nên nóng vội, nghiệm lý từng cách cục nhỏ, từ cơ bản nắm rõ, thực lý rõ thì gốc vững, gốc vững thì luận không gặp rối loạn. 

Bố cục chung Thiên bàn phân thành 4 nhóm sao đó là TPVTL, SPT, Cự Đồng Cơ và Âm Dương Lương. Tinh hệ này là tinh hệ Tử Vi cư Ngọ, đương số sẽ có những phẩm chất hơn người, chí ít là ở hoàn cảnh. Tử Vi độc tọa, lý tưởng và tính chất bộc lộ rõ ràng, không bị ảnh hưởng và bộ Âm Dương sáng tạo điều kiện tốt cho đương số. Trò luận đương số có chính kiến, có lý tưởng. Đó là xét về chính tinh. Xét tiếp đến Bàng tinh, Không Kiếp Kỵ Hình Linh Hỏa không tụ tập. Các sao tăng mức độ quan trọng tụ tập nhiều ở cung độ Thái Âm Khoa Khôi Việt Đại. Thực ra trò vẫn khó phân biệt cung trọng điểm. Các trường hợp rõ ràng như lá số của trò có thể ngay lập tức nhận ra. Nhưng nhiều lá số rất khó. Ở đây trò vẫn nhận định cung trọng điểm là cung quan lộc với chính tinh Thiên Cơ ngộ Hữu Việt Hư Mã Không Kiếp nhập Sinh. Ở đây là bố cục khá xấu nhưng may mắn nhập được Sinh Vượng mà hóa cát. Người này sẽ gặp nhiều nghịch cảnh nhưng lại vượt qua được mà thành công. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn hạnh phúc.

Mệnh cung chủ ý chí, nghị lực con người, cũng là nơi bộc lộ phẩm chất và tính cách. Bố cục chung Mệnh Tài Quan là Cự Cơ Đồng ngộ Tả Hữu Việt Quyền Kình Tiểu với Tang Hư Khách có Tuần Triệt Không Kiếp nhập Sinh Vượng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao chủ bất mãn, phản đối, dễ sinh thị phi, bất đồng mà đưa đến phản bội, mang tính chất nội bộ. Ở đây Cự Đồng Cơ ngộ Kình Hao, tính phản kháng càng thêm mạnh, nhưng chỉ là Tiểu Hao, tính chủ động bị hạn chế, trong lòng chứa nhiều bất mãn. Cự Đồng cơ ngộ Tang Hư Khách, can Quý Cự hóa Quyền, Tang Hư Khách hợp với Thiên Đồng chủ từ thiện, làm phúc, lại có Thiên Việt thật tốt quá, đương số tốt bụng, thương người, hay giúp đỡ người khác mà cũng được giúp đỡ lại. Tuy nhiên cũng hình thành các cách xấu như Đồng Không Kiếp, Cự Không Kiếp, nếu không làm phúc sau này tai họa tất đến, dù cho Không Kiếp đắc địa đi chăng nữa. Bố cục nhập Sinh Vượng nên vượt qua được những khó khăn, năng lượng lớn, có ý chí, có sức khỏe: “Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập Mộ hoặc cư Tuyệt xứ. VCD hoan phùng Tả Hữu Sinh Vượng hóa hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài”. Đương số lại được sinh ra trong gia đình giàu có, được học hành đầy đủ, do vậy hưởng phúc tài lại càng đúng. (Câu phú nói đến VCD nhưng trò nghĩ là tính cả chính tinh, không biết đúng k thầy?). 

Mệnh cung cũng là đại vận đầu tiên là Cự Đồng ngộ Tang Kình Quyền nhập Vượng có Tuần Triệt án ngữ. 

Mệnh Thân đồng cung, đương số khá thống nhất trong suy nghĩ và hành động, ngôi sao Tử Vi độc tọa tại Ngọ chủ lý tưởng. Người này có ước mơ và phấn đấu theo ước mơ đó. Mệnh Thủy, Đồng Cự cũng đều là hành Thủy, luận theo cả 2 sao. Ở đây dụng Thiên Đồng có lẽ tốt hơn so với Cự Môn do hình thành cách Đồng Tang hay hơn Cự Kình không có Phượng. Cái hay là Tuần Triệt án ngữ nên được hưởng 2 chữ phòng tránh, hai cung Tài Quan tuy rằng không đẹp nhưng cũng khó ảnh hưởng đến Mệnh Thân. Mệnh có Tang Môn, đương số có nét buồn trên gương mặt. “Tang Hổ Điếu Binh vị chi tứ Hung, nhược ngộ Đồng tinh nhi hóa cát”, đương số phẩm chất tốt, đây là người tốt bụng, tuy nhiên công việc không tốt, dễ gặp tai họa tác động trở lại cung Mệnh, khiến Mệnh cung có điều bất mãn, lo nghĩ. Cung Quan Lộc với cách Cơ ngộ Hư Mã Không Kiếp có Việt chủ phát sinh khó khăn, tai họa và đánh giá sai thời cơ. Mệnh cung phản kháng lại bằng sự bất mãn Cự Kình nhưng chỉ là Tiểu hao, phản kháng và sự thay đổi cũng không mạnh mẽ, không được ủng hộ của Phượng Các. Tuổi nhỏ đi học, có lẽ đương số kết quả học tập không được tốt.

Phú có câu: “ Cự hãm tứ Mộ đa ngôn, phản phúc nghi hoặc học càng tối tăm” Đa ngôn là nói nhiều, lại nói tầm bậy cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối. Từ chỗ cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối đến vô tình hay cố ý phản bội người. Mệnh tại đây ta là người có khuynh hướng tạo phản, đồng thời cũng là kẻ bị hại.

Đại vận thứ hai nhập cung độ Tham Lang. Tham Lang ngộ Tuần Triệt Đào Tồn Kỵ. Tham Đào ham chơi, lại gặp cách cục xấu “Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cục”. Tam hợp là Phá Tướng Ấn nhập Tuyệt và Thất Sát ngộ Xương Hồng Bệnh. Đại vận này bất lợi cho tình cảm, lại Phá Quân nhập Tuyệt không lợi cho phá bỏ. Mệnh Cự Đồng đến hạn Cáo Phụ, Tồn Kỵ khéo còn mang tiếng hỗn láo với người trên, trong lòng tồn tại bất mãn. Tuy nhiên Tham ngộ Tuần Triệt lại hướng đương số đến Không cách, huyền học tu đạo: “Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần tâm hồn thư thái”. Ở đây trò nghĩ cả nam và nữ, Triệt Tuần ở đây giúp đương số bớt ham chơi mà thay vào là được giáo dục tốt, nhưng bại cục vẫn là khó tránh khỏi. Ở đây luận khí hình biến đổi theo hướng tĩnh, đi theo Thiên Đồng, dụng ngôi sao này, ở đây trò khó khăn trong việc luận khí hình vận, mong thầy giảng thế nào để đánh giá là khí hình mạnh/cao, thế nào là khí hình thấp ạ. Đương số sinh ra trong gia đình giàu có nên khí hình gốc vượng. 

Đại vận thứ 3 hội họp nhiều sao quan trọng, đến đây đương số bắt đầu gặt hái được thành công, nhưng nhìn chung nếu là một người xuất thân bình thường các đại vận trải qua trò thấy không nổi bật cho lắm, thành công cũng không được vang dội. Ở đây có lẽ do hoàn cảnh đương số sinh ra trong gia đình như vậy nên mới được làm Tổng giám đốc, nếu không có lẽ cuộc đời sẽ rẽ sang hướng khác.

(Dẫn theo trang www.luantuvi.vn)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button