Nghiên cứu

Lý do Đức Phật không trả lời các câu hỏi siêu hình

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được cho là người có nhiều trích dẫn nhất trong lịch sử, với hàng triệu câu nói được chứa trong hàng ngàn bản kinh. Bất kể chủ đề nào, chúng ta đều coi đó là một lời dạy hay của Phật. Tuy nhiên, bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng có bốn câu hỏi mà Đức Phật đã từ chối trả lời.

Bốn câu hỏi đó là:

  1. Vũ trụ là hữu hạn hay vô hạn trong không gian?
  2. Vũ trụ là hữu hạn hay vô hạn trong thời gian?
  3. Tâm và thân là hai đối tượng khác nhau hay đồng nhất?
  4. Đức Phật có tồn tại sau khi chết không? (Vì Ngài đã đạt được Niết bàn).

Hãy cùng PGVN tìm hiểu xem vì sao Đức Phật lại từ chối trả lời các câu hỏi này nhé!

Bạn đang xem: Lý do Đức Phật không trả lời các câu hỏi siêu hình

Kinh Màlunkyà: Những câu hỏi Đức Phật không trả lời

Trên thực tế, có một bài kinh nói về những câu hỏi siêu hình mà Đức Phật từ chối trả lời đó là Tiểu kinh Màlunkyà (Cula-Malunkyovada Sutta). Tên gọi bài kinh này được lấy từ tên Tôn giả Malunkyaputta, vị học trò đã đặt những câu hỏi này cho Đức Phật. Thậm chí ông đã đi xa đến mức nói rằng nếu Đức Phật không thể trả lời những câu hỏi này, ông sẽ từ bỏ việc tu tập.

Bài kinh nói rõ rằng Đức Phật từ chối trả lời chứ không phải là Ngài không thể trả lời. Bởi vì đối với Đức Phật thì những câu hỏi đó không quan trọng.

Ngày nay, nhiều người rất thích thú với những câu hỏi về vũ trụ, những chủ đề rộng lớn và siêu hình vẫn khiến các nhà khoa học và thần học phải vật lộn để tìm câu trả lời. Vì vậy, tại sao Đức Phật lại cho rằng chúng không quan trọng? Tại sao Ngài lại từ chối trả lời và không thốt ra một từ nào, thậm chí Ngài còn không nói “Có” – “Không” hay “Đúng” – “Sai” như một số vị hiền triết lỗi lạc khác!

Không trả lời – đó là một câu trả lời trong chính nó. Những câu hỏi siêu hình “không thể trả lời được” vì không có câu trả lời nào là thỏa đáng với người đặt câu hỏi, và câu trả lời có thể dẫn đến một nhận thức sai về bản chất thật.

Thiền sư Nhất Hạnh đã giải thích điều này trong một bài giảng:

Đức Phật luôn nói với các học trò của mình đừng lãng phí thời gian và sức lực vào sự suy đoán siêu hình. Bất cứ khi nào Ngài được hỏi một câu hỏi siêu hình, Ngài vẫn im lặng. Thay vào đó, Ngài hướng các học trò của mình tới những nỗ lực thực tiễn để đạt những thành quả thực tế hơn.

Để giải thích lý do tại sao Ngài vẫn không trả lời các câu hỏi siêu hình, Đức Phật đã sử dụng câu chuyện ngụ ngôn về mũi tên tẩm độc. Người bị thương từ chối tháo mũi tên cho đến khi anh ta biết ai đã bắn nó, cho dù đó là mũi tên thông thường, mũi tên cong, hay mũi tên cây trúc đào. Người đàn ông sẽ chết và những điều đó vẫn còn là một ẩn số đối với anh ấy.

Thiền sư Nhất Hạnh chia sẻ thêm:

“Một ngày nọ khi được hỏi về sự vô tận của thế giới, Đức Phật nói:

Thế cho dù thế giới là hữu hạn hay vô hạn, có giới hạn hay không giới hạn, vấn đề giải thoát của bạn vẫn như cũ. Giả sử một người đàn ông bị trúng một mũi tên tẩm độc và bác sĩ muốn rút mũi tên ra ngay lập tức. Giả sử người đàn ông không muốn loại bỏ mũi tên cho đến khi anh ta biết chính xác ai đã bắn nó, tuổi của anh ta, cha mẹ anh ta và tại sao anh ta lại bắn nó. Chuyện gì sẽ xảy ra?

Nếu anh ta đợi cho đến khi tất cả những câu hỏi này được trả lời, anh ấy có thể chết. Cuộc sống rất ngắn ngủi. Không nên phí phạm thời gian trong sự suy đoán siêu hình mà không đưa chúng ta đến gần hơn với sự thật, giác ngộ giải thoát.”

Đức Phật đã trả lời Tôn giả Malunkyaputta như thế nào?

Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những gì Ta không trả lời. Hãy thọ trì là có trả lời những gì Ta có trả lời. Và này Malunkyaputta, điều gì Ta không trả lời? “Thế giới là thường còn”, này Malunkyaputta là điều Ta không trả lời. “Thế giới là vô thường” là điều Ta không trả lời. “Thế giới là hữu biên” là điều Ta không trả lời. “Thế giới là vô biên” là điều Ta không trả lời. “Sinh mạng này và thân này là một” là điều Ta không trả lời.

“Sinh mạng này và thân này khác” là điều Ta không trả lời. “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai không có tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời.

Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta không trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy không liên hệ đến mục đích, điều ấy không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta không trả lời.

Nói cách khác, các câu hỏi siêu hình không liên quan gì đến những lời dạy của Đức Phật về việc chấm dứt đau khổ. Đức Phật làm cho điều đó rõ ràng hơn nữa khi Ngài nói với Malunkyaputta:

Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời? “Đây là khổ”, này Malunkyaputta là điều Ta trả lời”. “Đây là khổ tập” là điều Ta trả lời. “Đây là khổ diệt” là điều Ta trả lời. “Đây là con đường đưa đến khổ diệt” là điều Ta trả lời.

Và này Malunkyaputta,vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời. Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hãy thọ trì là trả lời những điều Ta có trả lời.

Những câu hỏi về vũ trụ không hữu ích cho sự giác ngộ giải thoát khỏi đau khổ.

Cái bẫy của thuyết nhị nguyên

Một lý do chính đáng thường được viện dẫn là tại sao Đức Phật không trả lời bất kỳ câu hỏi siêu hình nào, đó là vì câu trả lời sẽ củng cố lập trường nhị nguyên: Tôi và bạn, không gian và thời gian, đối tượng và chủ đề.

Vì vậy, Đức Phật không trả lời vì chúng không có lợi ích gì trên con đường phát triển tâm linh, mà còn kích thích tư duy nhị nguyên ngăn cản hành giả nhận ra bản chất thật của thế giới này.

Phật tánh, như được thể hiện trong Kinh điển Đại thừa là cái gì đó vốn có trong chúng sinh, không phân biệt, không đối lập. Trong Thiền, điều này thường được thể hiện dưới dạng “Đồng nhất” hay “Nhất tâm”. Trong kinh điển có học thuyết về Vô ngã (Anatta) nói về sự không bền vững và không tách biệt của các sự vật hiện tượng.

Các câu hỏi của Malunkyaputta đều là nhị nguyên. Ông nhìn thực tại với góc nhìn tương đối. Bám sát thực tại tương đối và tính hai mặt, đối lập là một trong những nguyên nhân khiến chúng ta đau khổ.

Theo đuổi sự vĩnh cửu là một hình thức chấp trước

Trong thực tế, những câu hỏi siêu hình kích thích những suy nghĩ về sự đeo bám và chấp trước. Tại sao điều quan trọng trong cuộc sống lại là sự vô hạn hay hữu hạn của vũ trụ, hay sự vô hạn của không gian và thời gian? Phải chăng chúng ta muốn một phần của chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi, bám lấy sự bất tử?

Câu hỏi về bản ngã cũng bắt nguồn từ sự chấp trước dẫn đến một bản ngã độc lập, trường tồn. Nếu vậy, chúng ta đang cảm thấy chính cảm giác chấp trước mà Đức Phật đã dạy chúng ta vượt qua. Phật dạy Vô ngã và những câu hỏi như thế sẽ kích động các chấp trước hơn là giúp chúng ta từ bỏ chúng.

Có lẽ chấp trước lớn nhất của những người theo đạo Phật là quan niệm rằng Đức Phật, một khi được giải thoát và giác ngộ sẽ tồn tại sau khi chết.

Nếu Phật không tồn tại sau khi chết, vậy thì chúng ta cúi đầu khi gặp một bức tượng hay hình ảnh Phật để làm gì? Nếu chúng ta cầu nguyện Phật, chúng ta đang cầu nguyện cho ai? Vì tôn kính, chúng ta cúi đầu trước những gì Đức Phật đại diện.

Hay nói chính xác hơn, chúng ta đang cúi đầu trước Đức Phật bên trong của chúng ta. Nếu chúng ta là Phật tử Đại thừa, chúng ta có thể cúi đầu trước một vị Bồ tát nhưng không phải vì quyền năng ban phước của Ngài. Phật giáo Đại thừa nhấn mạnh vào Tánh không. Ở cấp độ không nhị nguyên, chúng ta cũng đang cúi đầu trước Tánh không.

Giống như không gian, thời gian là vô hạn, khả năng vĩnh cửu lại một lần nữa khiêu khích, lôi cuốn chúng ta bám vào những quan niệm hạnh phúc về một cuộc sống bất diệt ở Vòng luân hồi (Samsara).

Nội dung Tiểu Kinh Màlunkyà

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.

Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).

Rồi Tôn giả Malunkyaputta, trong khi độc trú tịnh cư, khởi lên sự suy tư như sau: Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.

Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy. Vì Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy, nên ta không được hài lòng, không được thỏa mãn. Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn, và sẽ hỏi ý nghĩa này. Nếu Thế Tôn trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác;

Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết; Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời ta sẽ sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Thế Tôn. Còn nếu Thế Tôn không trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời ta sẽ bỏ học pháp và hoàn tục.

Rồi Tôn giả Malunkyaputta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Malunkyaputta bạch Thế Tôn:

— Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi độc trú tịnh cư, con khởi lên ý nghĩ như sau: Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên loại bỏ ra: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy. Vì Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy, nên ta không được hài lòng, không được thỏa mãn. Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn và sẽ hỏi ý nghĩa này.

Nếu Thế Tôn trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời ta sẽ sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Thế Tôn. Còn nếu Thế Tôn không trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời ta sẽ bỏ học pháp và hoàn tục.

Nếu Thế Tôn biết: “Thế giới là thường còn”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Thế giới là thường còn”. Nếu Thế Tôn biết: “Thế giới là vô thường”. Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Thế giới là vô thường”. Nếu Thế Tôn không biết: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường”, thời không biết, không thấy, hãy thẳng thắn trả lời: “Ta không biết, Ta không thấy”.

Nếu Thế Tôn biết: “Thế giới là hữu biên”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Thế giới là hữu biên”. Nếu Thế Tôn biết: “Thế giới là vô biên”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Thế giới là vô biên”. Nếu Thế Tôn không biết: “Thế giới là hữu biên” hay “Thế giới là vô biên,” thời không biết, không thấy, hãy thẳng thắn trả lời: “Ta không biết, Ta không thấy”.

Nếu Thế Tôn biết: “Sinh mạng này và thân này là một”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Sinh mạng này và thân này là một”. Nếu Thế Tôn biết: “Sinh mạng này và thân này là khác,” Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Sinh mạng này và thân này là khác”. Nếu Thế Tôn không biết: “Sinh mạng này và thân này là một” hay “Sinh mạng này và thân này là khác,” thời không biết, không thấy, hãy thẳng thắn trả lời: “Ta không biết, Ta không thấy”.

Nếu Thế Tôn biết: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. Nếu Thế Tôn biết: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”. Nếu Thế Tôn không biết: “Như Lai có tồn tại sau khi chết,” hay “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”, thời không biết, không thấy, hãy thẳng thắn trả lời: “Ta không biết, Ta không thấy”.

Nếu Thế Tôn biết: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”, Thế Tôn hãy trả lời cho con: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Nếu Thế Tôn không biết: “Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết,” hay “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời không biết, không thấy, hãy thẳng thắn trả lời: “Ta không biết, Ta không thấy”.

— Này Malunkyaputta, Ta nào có nói với Ông: Này Malunkyaputta, hãy đến và sống Phạm hạnh theo Ta, Ta sẽ trả lời cho Ông: “Thế giới là thường còn,” hay “Thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

— Hay Ông có nói với Ta như sau: Bạch Thế Tôn, con sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn, nếu Thế Tôn sẽ trả lời cho con: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” ?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

— Như vậy, này Malunkyaputta, Ta không nói với Ông: Này Malunkyaputta, hãy đến và sống Phạm hạnh theo Ta và Ta sẽ trả lời cho Ông: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường… (như trên)…

Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, và Ông cũng không nói với Ta: Bạch Thế Tôn, con sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn nếu Thế Tôn sẽ trả lời cho con: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Sự tình là như vậy, thời này kẻ ngu kia, Ông là ai, và Ông phủ nhận cái gì ?

Này Malunkyaputta, nếu có ai nói như sau: Ta sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn khi nào Thế Tôn sẽ trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết (và) vẫn không được Như Lai trả lời.

Này Malunkyaputta, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi tên được tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè và bà con huyết thống của người ấy mời một vị y sĩ khoa mổ xẻ đến săn sóc. Nhưng người ấy lại nói: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi thuộc giòng hoàng tộc, hay Bà-la-môn, hay buôn bán, hay người làm công”.

Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi tên là gì, tộc tánh là gì?” Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi là cao hay thấp, hay người bậc trung”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi là da đen, da sẫm hay da vàng”.

Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi thuộc làng nào, thuộc thị trấn nào, thuộc thành phố nào”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái cung mà tôi bị bắn, cái cung ấy thuộc loại cung thông thường hay loại cung nỏ”.

Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được dây cung mà tôi bị bắn, dây cung ấy làm bằng cây leo, hay cây lau, hay một thứ gân, hay một thứ dây gai, hay một thứ cây có nhựa”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc một loại cây lau này hay cây lau khác”.

Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, mũi tên ấy có kết lông gì, hoặc lông con kên, hoặc lông con cò, hoặc lông con ó, hoặc lông con công, hoặc lông một loại két”.

Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy được cuốn (parikkhittam) bởi loại gân nào, hoặc là gân bò cái, hoặc là gân trâu, hoặc là gân nai, hoặc là gân lừa”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc loại tên nhọn, hay thuộc loại tên móc, hay thuộc loại tên như đầu sào, hay thuộc loại tên như răng bò, hay thuộc loại tên như kẽm gai”. Này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được biết gì.

Cũng vậy, này Malunkyaputta, ai nói như sau: “Ta sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn khi nào Thế Tôn trả lời cho ta: “Thế giới là thường còn hay thế giới là vô thường… (như trên)… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết (và) vẫn không được Như Lai trả lời.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm “Thế giới là thường còn”. Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm “Thế giới là vô thường”. Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm “Thế giới là thường còn”, hay dầu cho có quan điểm “Thế giới là vô thường”, thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não, mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm “Thế giới là hữu biên”. Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm “Thế giới là vô biên”. Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm “Thế giới là hữu biên”, hay dầu cho có quan điểm “Thế giới là vô biên” thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não, mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm “Sinh mạng này và thân này là một”. Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm “Sinh mạng này và thân này là khác”.

Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm “Sinh mạng này và thân này là một”, hay dầu cho có quan điểm “Sinh mạng này và thân này là khác”, thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”. Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm “Như Lai có tồn tại sau khi chết” hay dầu cho có quan điểm “Như Lai không có tồn tại sau khi chết,” thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc vào quan điểm “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.

Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm “Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết”, hay dầu cho có quan điểm: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại”.

Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những gì Ta không trả lời. Hãy thọ trì là có trả lời những gì Ta có trả lời. Và này Malunkyaputta, điều gì Ta không trả lời? “Thế giới là thường còn”, này Malunkyaputta là điều Ta không trả lời. “Thế giới là vô thường” là điều Ta không trả lời. “Thế giới là hữu biên” là điều Ta không trả lời. “Thế giới là vô biên” là điều Ta không trả lời.

“Sinh mạng này và thân này là một” là điều Ta không trả lời. “Sinh mạng này và thân này khác” là điều Ta không trả lời. “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai không có tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời. “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là điều Ta không trả lời.

Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta không trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy không liên hệ đến mục đích, điều ấy không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta không trả lời.

Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời? “Đây là khổ”, này Malunkyaputta là điều Ta trả lời”. “Đây là khổ tập” là điều Ta trả lời. “Đây là khổ diệt” là điều Ta trả lời. “Đây là con đường đưa đến khổ diệt” là điều Ta trả lời.

Và này Malunkyaputta,vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời. Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hãy thọ trì là trả lời những điều Ta có trả lời.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Malunkyaputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

PGVN

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Nghiên cứu

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button