Tử vi

Lý thuyết xuất không điền thật (thienkyquy)

Xuất Không-Điền Thật, là lúc Đại Vận, Tiểu Vận, hay Lưu Niên Thái Tuế, nguyệt Hạn hay Nguyệt Lệnh, Nhật Hạn hay Nhật Kiến (Nhật Thần), Thời Hạn hay Thời Hoàng Đạo xung cung có Tuần Triệt hoặc vào cung có Tuần Triệt, thì tất cả những gì ở trong cung ấy xấu hoặc tốt sẽ thành sự thật, hiển hiện. 

Lại như ở Dần Mão có Tuần Triệt, khi Vận, Hạn, Lưu Thái Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời vào cung Dần, thì cung Mão cũng được mở ra, ngược lại vào cung Mão thì Dần cũng mở ra, tùy theo đương số Vận Hạn chuyển thuận hay nghịch. 

Riêng hợp mất Không thì như cung Hợi có Tuần Triệt, Vận Hạn không đến hợi (vì nếu đến là Xuất Không rồi), mà đến Dần thì Dần hợp mất cái Không ở Hợi, cho nên những gì xấu tốt ở Hợi sẽ phơi bày ra, và hơn nữa là cung nhị hợp cho nên những sao đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cung Dần, ít ra là 70%. 

Bạn đang xem: Lý thuyết xuất không điền thật (thienkyquy)

Phân độ nặng nhẹ của các sao liên quan đến CHÍNH CUNG từ các cung: 

– Tại cung (CHÍNH CUNG) các sao ảnh hưởng 100% 

– Cung nhị hợp và giáp, như Tí-Sửu, Ngọ Mùi ảnh hưởng 99% giống như đóng tại cung. 

– Cung xung ảnh hưởng 95% 

– Nhị hợp ảnh hưởng 70-80%, nếu nhị hợp thành Cách thì xem như tại cung, ảnh hưởng khoảng 90-95% 

– Tam hợp ảnh hưởng sao cặp như Xương Khúc, Quang Quý, Thai Tọa… 70%, nếu sao đơn chỉ có ảnh hưởng 50%. 

Con số % chỉ là tiêu biểu không phải tuyệt đối để chúng ta dễ bề cân phân nặng nhẹ mà thôi. 

———————–

TUẦN, TRIỆT (An theo Lục Giáp) 

Tuần Trung Không Vong: 

Tuần Trung Không Vong; Tuần Giáp Tí ở Tuất Hợi, Tuần Giáp Tuất ở Ngọ Mùi; Tuần Giáp Ngọ ở Thìn Tỵ; Tuần Giáp Thìn ở Dần Mão; Tuần Giáp Dần ở Tí Sửu. 

“Khảo Nguyên Phụ Luận” nói rằng: “Mười Can là một Tuần, lấy 10 Can phối với 12 Chi từ Giáp đến Quý là hết, Thiên Can không bằng nên dư ra hai thời là Không Vong. Như Giáp Tí đến Quý Dậu không tới Tuất Hợi; vậy nên Giáp Tí lấy Tuất Hợi là Tuần Trung Không Vong. Ngoài ra phỏng theo như thế”. 

Lại theo thơ về Tuần Trung Không Vong, thì nội trong một Tuần, mới nói là 10 Can không tới 2 Chi vậy, Không Vong vốn dĩ là bất lợi rồi. 

Triệt Lộ Không Vong: 

“Lịch Lệ” nói rằng: “Triệt Lộ Không Vong, Can Giáp, Kỷ ở Thân Dậu; Can Ất Canh ở Ngọ Mùi, Can Bính Tân ở Thìn Tỵ; Can Đinh, Nhâm ở Dần Mão; Can Mậu, Quý ở Tí Sửu, Tuất Hợi”. 

Sách “Khảo Nguyên” nói rằng: “Triệt Lộ Không Vong gặp Nhâm Quý vậy. Đi đường mà gặp nước thời không đi được. Như Can Giáp dùng Ngũ Thử Độn khởi Giáp Tí, thuận đi đến Nhâm Thân, Quý Dậu, vậy nên ngày Giáp lấy Thân Dậu là Triệt Lộ Không Vong. Ngoài ra phỏng theo như thế”. Từ Giáp đến Kỷ là 5 Tuần (tức 60 năm hoặc 60 ngày hay 60 giờ) thì hết 1 Hoa Giáp và trở lại từ đầu, khởi Giáp Tí. Do đó, Giáp Kỷ có Triệt ở Thân Dậu). Theo cách an Triệt Mậu và Quý khởi Ngũ Thử Độn thì Tí Sửu là Nhâm Quý, do đó Mậu Quý Triệt an ở Tí Sửu vậy. 

“Hiệp Kỷ Nguỵ Biện” nói rằng: Theo nghĩa của Triệt Lộ Không Vong, cho rằng 10 Can đến đó là cực rồi, từ đó về sau hai Chi là Tuần Không, khiến cho không có đất để lâm tiếp sau, vậy nên gọi là Triệt Lộ Không Vong. 

Thuyết này chép ở “Thần Sát Khởi Lệ”. Lấy Ngũ Thử Độn dùng nhật Can độn Chi, được Giáp Ất thời vô cát vô hung; được Bính Đinh thời là Hỷ Thần; được Mậu Kỷ thời là Ngũ Quỹ, được Canh Tân thời là Kim Thần, được Nhâm Quý thời là Triệt Lộ Không Vong. 

“Thông Thư” duy chỉ dùng một loại. Triệt Lộ Không Vong, nay theo nghĩa đó, đại thể Kỳ Môn rất coi trọng Bính Đinh nên kỵ Nhâm Quý khắc vậy. 

Nếu lấy đi đường gặp nước là Triệt, thời có phương (thuyền bè) là có thể được, đâu phải là vô dụng. 

Nói chung thuyết Tuần Triệt có trước Tử Vi rất lâu xa. Trên đây là Nguyên Lý của Tuần Triệt từ sách xưa ghi chép lại để ôn cố tri tân. 

Nay nói theo thời đại bây giờ cho dễ hiểu! Bởi Thánh Nhân xưa không biết toán học – chỉ biết trừ và cộng, lại cũng chẳng biết gì về Khoa Học, nên suy lý của họ đều dựa theo Trời Đất Tự Nhiên – theo Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan của Đông Phương mà thôi. Còn Khoa Học thì họ mù tịt, nên chi những ai ít hiểu biết về Khoa Học, dốt nát quê mùa mà chịu khó Dụng Chân Tâm tư duy thì thường dễ có cái nhìn giống với Thánh Nhân hơn, nhờ đầu óc đơn giản, không dùng Tâm Ý Thức (Những Cái Bị Học hay Được Học) suy nghĩ lăng xăng mà chỉ dùng Chân Tâm suy nghĩ mới dễ tiếp cận được Tâm Ý của Thánh Nhân. Xưa đến kẻ “chăn trâu” cũng hiểu rõ Dịch Lý không sai một tơ hào, thời nay Tiến Sĩ đầy thế giới mà số người nắm rõ Dịch Lý lại có thể đếm được trên đầu ngón tay thì đủ chứng minh điều nói trên. 

Tôi xin giải thích rõ ràng vì sao tôi lại có thế phát minh ra nghĩa lý của Tuần Triệt theo lời dạy của Thánh Nhân xưa, tất cả họ đã nói rồi chỉ là người thời nay thích theo ngọn quên gốc mà ra đó thôi. Dĩ nhiên, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của Tuần Triệt thì mới mong thấu triệt mà đem áp dụng vào thực tế được. 

Tuần là nơi hai cung cuối của 10 ngày hay 10 năm, chỗ không có Can vì từ Giáp Đến Quý là hết 10 Can, Tuất Hợi là Chi thứ 11 và 12 nên không có Can để phụ vào nên “cho đó là hai cung Thời Gian chưa đến”, phải đợi hết Giáp đó qua Giáp khác của Tuần sau thì mới đến, mới thành thật. Hầu dư là có cũng như không, tốt thì chưa tốt, xấu thì chưa xấu… 

Còn Triệt thì theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Bính Đinh là hai Kỳ rất xem trọng, Nhâm Quý là Thuỷ khắc Bính Đinh hai Kỳ, nên đó là chỗ kỵ. Lại ví như đi đường bỗng dưng bị đứt đoạn vì bị nước ngăn không đi được, gọi là Triệt Lộ. Thế thì hai cung Triệt là hai cung của Nhâm Quý Thuỷ cản đường khó thông. Ý nghĩa của thời gian ngăn cách, phải có cầu, hay tau bè mới qua sông được (thời nay thì dễ, còn thời xưa đây là một vấn nạn). Tỷ dụ như người tuổi Bính Thìn thì khởi từ Tí là Mậu Tí, Đinh Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, như vậy hai cung Thìn Tỵ bị Triệt. 

“Danh có chánh thì ngôn mới thuận”. Khi hiểu rõ ý nghĩa của Tuần Triệt và từ Nguyên Lý nào mà Cổ Nhân dựng lập thành hai sao này thì ta có thể tìm ra được lúc nào là thời gian tốt xấu của chúng ngay thôi. Điều này thì trong Bói Dịch người ta có thể kiểm chứng mỗi 10 ngày cho Tuần. Tỷ như trong Bói Dịch cầu tài thì lấy hào Tài làm Dụng Thần, khi Tài lâm Tuần Không thì dù là hào đó vượng đến đâu (tức là tốt đến đâu) cũng chưa thể có tiền, cho đến khi gặp lúc Xuất Không, Xung Không, Điền Thật, hay Hợp Không thì mới có tiền. Dĩ nhiên nếu hào nào đó gặp Kỵ Thần thì cũng thế, tạm thời thì chưa hại, nhưng gặp lúc Xuất Không, Xung Không, Điền Thật, Hợp Không thì họa liền ập đến ngay. Cái này trong Bói Dịch người ta đã xài mấy ngàn năm nay rồi. 

Trong Tử Bình cũng thế, nếu Phúc Thần bị Tuần Triệt thì cũng vậy, còn Sát Thần gặp Tuần Triệt thì dĩ nhiên gặp lúc Xung Không, Điền Thật, Hợp Không tai họa sẽ ập đến ngay. Cái này trong Tử Bình người ta cũng xài mấy ngàn năm nay rồi. 

Thế thì trong Tử Vi đâu thể nào ngoại lệ. Những điều thế này chắc chắn trong Tử Vi thời của Trần Đoàn tất cả mọi người đều biết và nắm rõ ràng như thế. Tiếc là giống như Dịch Lý, ngày xưa kẻ chăn trâu cũng lãnh hội rõ ràng, nên chẳng ai thèm giải thích, bất chợt thời gian qua đi những nguời biết đó dần dần chết hết khiến cho những điều như thế này từ từ trở nên huyền bí, không ai hiểu rõ vậy thôi. 

Nhân đây tôi xin ví dụ đơn giản để mọi người đều có thể hiểu Tuần Triệt một cách rõ ràng hơn. Tuần: như có “một đám cướp” (Sát Tinh) bị Tuần bào bọc, như cướp nhốt trong hàng rào song sắt nhà tù… không cho ra ngoài, nên không thể cướp bóc, giết hại ai đươc. Nhưng khi có xe ủi sập các hàng rào song sắt ấy hay được thả tù thì họ sẽ tràn ra gây hại ngay (ví như Thái Tuế hay Tiểu Vận xung cung có Tuần); hoặc nếu có ai đó xui rũi, lại chui vào ngay ổ của khu đó thì tàn đời (ví như Điền Thật); hoặc như khi có ai đỏ mở cửa rào bên trong thì họ cũng có thể tràn ra mà sát hại người vào đó, hoặc anh hết chuyện lại đứng xớ rớ gần quá họ có thể đứng bên trong thò tay ra túm anh mà làm hại anh (ví như Dần có Tuần, Tiểu Vận hay Thái Tuế đến cung Mão); hoặc như một kẻ Sát Nhân có tay trong hay đồng bọn giúp cho thoát ngục để ra ngoài sát hại người vô tội (ví như cung nhị hợp). 

Còn Triệt thì theo ví dụ trên thay vì nhốt đám cướp vào hàng rao song sắt nhà tù lại đem bỏ họ lên một xà lang nhà tù để giữa sông, hay nhốt họ vào bên kia sông. Dĩ nhiên, hễ khi gặp các Vận trình như đã nói giống như Tuần thì tai họa cũng sẽ phát sinh ngay. 

Hiểu được như thế cho tai họa, thì việc tốt hay vàng bạc châu báu đem để vào hai cung Tuần Triệt thì cũng chẳng gì khác biệt! 

Cho nên học Tử Vi, Tử Bình, Mai Hoa, Bói Dịch… thì Dịch Lý giống như bản chữ cái a b c, hay các phép tính cộng trừ nhân chia… là cương lĩnh, dù chúng ta học môn nào mà nếu không lãnh hội hay hiểu rõ Dịch Lý thì chắc chắn chúng ta cũng không thế nghiên cứu rốt ráo được, và nếu chúng ta có cố cường điệu đi nữa thì cũng chỉ là dùng dao to búa lớn cho vui vậy thôi, chứ làm gì biết điều chúng ta nói là THẬT ĐÚNG hay THẬT SAI. Một khi chúng ta đã lãnh hội được Dịch Lý thì cho dù ai đó có nói gì đi nữa chỉ cần nhìn qua là tự biết họ ĐÚNG hay SAI ngay không thể nào lầm lẫn được, bởi vì tất cả những môn đó đều dựng lập nên từ Dịch Lý! 

—————————–

Từ các tiền đề này tôi đã phát hiện ra cách để phá giải cung bị Tuần Triệt trong Tử vi, đó là sử dụng cung xung chiếu.

Như ông Thienkyquy đã viết, khi hạn đến cung đối xung cung bị Tuần Triệt thì Không vong được tháo gỡ, điều này có nghiệm lý đúng trong thực tế. Tuy nhiên, trong đời rất hiếm khi hạn đến cung đó, 12 năm chỉ được một lần Thái tuế, tiểu hạn đi đến mà thôi. Vì vậy để tháo gỡ thường xuyên cung bị Tuần Triệt ta sẽ tìm cách làm động cung xung chiếu. Tức là ta sử dụng, hành động để cho cung đó động lên thường xuyên, nhờ xung lực từ cung đó để phá bỏ Không vong cho cung đối bị Tuần Triệt.

Cung Mệnh bị Tuần Triệt thì dùng cung Di, xa quê hương, xa họ hàng, quan hệ nhiều với xã hội, hoạt động liên tục ngoài xã hội để cung Di luôn động, nhờ thế phá bỏ Không vong ở Mệnh.

Cung Phúc bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, nhưng nếu cảm thấy bạc phúc thì dùng cung Tài, động Tài để có Phúc, rất dễ, đó chính là làm từ thiện. Nếu hàng ngày luôn tiếp xúc với tiền như làm trong ngân hàng, dịch vụ tài chính thì cũng là động tài. Có những người cảm thấy rất dễ chịu khi để vài đồng tiền lẻ của nước nào đó trong ví, trên bàn làm việc, vì đó cũng là làm động tiền. Người Phúc xấu dù bị Tuần Triệt hay không nếu chỉ biết tham lam vơ tiền vào mình giữ cho chặt, tất sẽ đến lúc thấy tiền thật là vô vị…

Cung Quan bị Tuần Triệt thì chậm chức vụ, trì trệ chậm chạm, vậy hãy dụng cung Phối, tức là nhờ vợ chồng tư vấn, hỗ trợ thì tự nhiên công việc sẽ hanh thông. Câu tục ngữ cổ “ vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” đã nêu ra chính nguyên tắc dụng đối cung để giúp bản cung giảm điều xấu. Thực tế, có người lấy vợ xong thì vợ chỉ đường cho làm ăn, vài năm đã phất lên như diều.

Cung Tài bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, chậm có tiền có khi lại hay, nhờ thế mới biết giá trị đồng tiền. Để giải thì dùng cung Phúc, như thực tế người ta vẫn hay nhờ hỗ trợ tài chính từ họ hàng thân quen. Phúc còn là tinh thần, tục ngữ có câu “có đức mặc sức mà ăn” cho thấy tiền bạc có liên quan đến tinh thần con người.Nên ở đâu đó vốn đã nghèo mà còn quay quắt tráo trở, thì cứ mãi nghèo. Phúc đối cung Tài, xứ ấy có kẻ lý giải là để có nhiều tiền thì cần trí trá đê tiện, vứt bỏlương tâm đi. 

Trong khi ở xứ văn minh người ta rất coi trọng đạo đức kinh doanh, ngoài việc bảo vệ môi trường thì người ta để tâm từng ly từng tí vào sản phẩm, cốt mang đến lợi ích tối đa cho người tiêu dùng. Ông Steve Jobs cho thay toàn bộ tai nghe nhạc chỉ để khi cắm vào máy nó có tiếng click hay hơn. Ông Geshe Michael Roach đi tu rồi xuống núi làm giàu bằng cách áp dụng giáo lý của Phật. Google, Facebook thành công nhờ cho không thiên hạ những gì tốt nhất có thể…

Cung Tử tức bị Tuần Triệt thì dụng cung Điền, phong thủy ứng dụng cho người hiếm muộn rất hữu hiệu. Thực tế khi cặp vợ chồng nào đó hiếm muộn đi tìm thầy giải thì ông thầy thường sẽ xem xét kiểm tra phong thủy, sau đó tìm cách di chuyển, sửa chữa, chọn năm tháng để kích hoạt việc sinh con, đấy chính là dụng cung Điền để hóa giải Không vong ở cung Tử tức. Nếu là con cái có vấn đề thì cũng thường do phong thủy, cần sửa nhà, chuyển nhà, động cung Điền lên để thay đổi. Nhà là môi trường sống tối quan trọng, cần chú ý đặc biệt.

Cung Phối bị Tuần Triệt thì dụng cung Quan, nếu lấy vợ chồng cùng cơ quan, cùng ngành nghề thì tự nhiên đỡ hẳn, điều này rất ứng nghiệm. Người nào mà có cung Quan quá nổi, công danh sớm tốt (ví dụ làm trong ngành điện lực, ngân hàng) thì cũng có thể phá luôn Tuần Triệt ở Phối, vẫn lập gia đình sớm. Ngoài ra, có những người lá số cung Phối bị Tuần Triệt nên phải xa vợ chồng, khi họ xin chuyển công tác, đổi việc để được gần gia đình thì chính là đã vô tình động cung Quan để phá giải Không vong rồi đó

(Dẫn theo trang vuihoctuvi.blogspot.com)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Lý thuyết xuất không điền thật (thienkyquy)

Xuất Không-Điền Thật, là lúc Đại Vận, Tiểu Vận, hay Lưu Niên Thái Tuế, nguyệt Hạn hay Nguyệt Lệnh, Nhật Hạn hay Nhật Kiến (Nhật Thần), Thời Hạn hay Thời Hoàng Đạo xung cung có Tuần Triệt hoặc vào cung có Tuần Triệt, thì tất cả những gì ở trong cung ấy xấu hoặc tốt sẽ thành sự thật, hiển hiện. 

Lại như ở Dần Mão có Tuần Triệt, khi Vận, Hạn, Lưu Thái Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời vào cung Dần, thì cung Mão cũng được mở ra, ngược lại vào cung Mão thì Dần cũng mở ra, tùy theo đương số Vận Hạn chuyển thuận hay nghịch. 

Riêng hợp mất Không thì như cung Hợi có Tuần Triệt, Vận Hạn không đến hợi (vì nếu đến là Xuất Không rồi), mà đến Dần thì Dần hợp mất cái Không ở Hợi, cho nên những gì xấu tốt ở Hợi sẽ phơi bày ra, và hơn nữa là cung nhị hợp cho nên những sao đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cung Dần, ít ra là 70%. 

Phân độ nặng nhẹ của các sao liên quan đến CHÍNH CUNG từ các cung: 

– Tại cung (CHÍNH CUNG) các sao ảnh hưởng 100% 

– Cung nhị hợp và giáp, như Tí-Sửu, Ngọ Mùi ảnh hưởng 99% giống như đóng tại cung. 

– Cung xung ảnh hưởng 95% 

– Nhị hợp ảnh hưởng 70-80%, nếu nhị hợp thành Cách thì xem như tại cung, ảnh hưởng khoảng 90-95% 

– Tam hợp ảnh hưởng sao cặp như Xương Khúc, Quang Quý, Thai Tọa… 70%, nếu sao đơn chỉ có ảnh hưởng 50%. 

Con số % chỉ là tiêu biểu không phải tuyệt đối để chúng ta dễ bề cân phân nặng nhẹ mà thôi. 

———————–

TUẦN, TRIỆT (An theo Lục Giáp) 

Tuần Trung Không Vong: 

Tuần Trung Không Vong; Tuần Giáp Tí ở Tuất Hợi, Tuần Giáp Tuất ở Ngọ Mùi; Tuần Giáp Ngọ ở Thìn Tỵ; Tuần Giáp Thìn ở Dần Mão; Tuần Giáp Dần ở Tí Sửu. 

“Khảo Nguyên Phụ Luận” nói rằng: “Mười Can là một Tuần, lấy 10 Can phối với 12 Chi từ Giáp đến Quý là hết, Thiên Can không bằng nên dư ra hai thời là Không Vong. Như Giáp Tí đến Quý Dậu không tới Tuất Hợi; vậy nên Giáp Tí lấy Tuất Hợi là Tuần Trung Không Vong. Ngoài ra phỏng theo như thế”. 

Lại theo thơ về Tuần Trung Không Vong, thì nội trong một Tuần, mới nói là 10 Can không tới 2 Chi vậy, Không Vong vốn dĩ là bất lợi rồi. 

Triệt Lộ Không Vong: 

“Lịch Lệ” nói rằng: “Triệt Lộ Không Vong, Can Giáp, Kỷ ở Thân Dậu; Can Ất Canh ở Ngọ Mùi, Can Bính Tân ở Thìn Tỵ; Can Đinh, Nhâm ở Dần Mão; Can Mậu, Quý ở Tí Sửu, Tuất Hợi”. 

Sách “Khảo Nguyên” nói rằng: “Triệt Lộ Không Vong gặp Nhâm Quý vậy. Đi đường mà gặp nước thời không đi được. Như Can Giáp dùng Ngũ Thử Độn khởi Giáp Tí, thuận đi đến Nhâm Thân, Quý Dậu, vậy nên ngày Giáp lấy Thân Dậu là Triệt Lộ Không Vong. Ngoài ra phỏng theo như thế”. Từ Giáp đến Kỷ là 5 Tuần (tức 60 năm hoặc 60 ngày hay 60 giờ) thì hết 1 Hoa Giáp và trở lại từ đầu, khởi Giáp Tí. Do đó, Giáp Kỷ có Triệt ở Thân Dậu). Theo cách an Triệt Mậu và Quý khởi Ngũ Thử Độn thì Tí Sửu là Nhâm Quý, do đó Mậu Quý Triệt an ở Tí Sửu vậy. 

“Hiệp Kỷ Nguỵ Biện” nói rằng: Theo nghĩa của Triệt Lộ Không Vong, cho rằng 10 Can đến đó là cực rồi, từ đó về sau hai Chi là Tuần Không, khiến cho không có đất để lâm tiếp sau, vậy nên gọi là Triệt Lộ Không Vong. 

Thuyết này chép ở “Thần Sát Khởi Lệ”. Lấy Ngũ Thử Độn dùng nhật Can độn Chi, được Giáp Ất thời vô cát vô hung; được Bính Đinh thời là Hỷ Thần; được Mậu Kỷ thời là Ngũ Quỹ, được Canh Tân thời là Kim Thần, được Nhâm Quý thời là Triệt Lộ Không Vong. 

“Thông Thư” duy chỉ dùng một loại. Triệt Lộ Không Vong, nay theo nghĩa đó, đại thể Kỳ Môn rất coi trọng Bính Đinh nên kỵ Nhâm Quý khắc vậy. 

Nếu lấy đi đường gặp nước là Triệt, thời có phương (thuyền bè) là có thể được, đâu phải là vô dụng. 

Nói chung thuyết Tuần Triệt có trước Tử Vi rất lâu xa. Trên đây là Nguyên Lý của Tuần Triệt từ sách xưa ghi chép lại để ôn cố tri tân. 

Nay nói theo thời đại bây giờ cho dễ hiểu! Bởi Thánh Nhân xưa không biết toán học – chỉ biết trừ và cộng, lại cũng chẳng biết gì về Khoa Học, nên suy lý của họ đều dựa theo Trời Đất Tự Nhiên – theo Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan của Đông Phương mà thôi. Còn Khoa Học thì họ mù tịt, nên chi những ai ít hiểu biết về Khoa Học, dốt nát quê mùa mà chịu khó Dụng Chân Tâm tư duy thì thường dễ có cái nhìn giống với Thánh Nhân hơn, nhờ đầu óc đơn giản, không dùng Tâm Ý Thức (Những Cái Bị Học hay Được Học) suy nghĩ lăng xăng mà chỉ dùng Chân Tâm suy nghĩ mới dễ tiếp cận được Tâm Ý của Thánh Nhân. Xưa đến kẻ “chăn trâu” cũng hiểu rõ Dịch Lý không sai một tơ hào, thời nay Tiến Sĩ đầy thế giới mà số người nắm rõ Dịch Lý lại có thể đếm được trên đầu ngón tay thì đủ chứng minh điều nói trên. 

Tôi xin giải thích rõ ràng vì sao tôi lại có thế phát minh ra nghĩa lý của Tuần Triệt theo lời dạy của Thánh Nhân xưa, tất cả họ đã nói rồi chỉ là người thời nay thích theo ngọn quên gốc mà ra đó thôi. Dĩ nhiên, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của Tuần Triệt thì mới mong thấu triệt mà đem áp dụng vào thực tế được. 

Tuần là nơi hai cung cuối của 10 ngày hay 10 năm, chỗ không có Can vì từ Giáp Đến Quý là hết 10 Can, Tuất Hợi là Chi thứ 11 và 12 nên không có Can để phụ vào nên “cho đó là hai cung Thời Gian chưa đến”, phải đợi hết Giáp đó qua Giáp khác của Tuần sau thì mới đến, mới thành thật. Hầu dư là có cũng như không, tốt thì chưa tốt, xấu thì chưa xấu… 

Còn Triệt thì theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Bính Đinh là hai Kỳ rất xem trọng, Nhâm Quý là Thuỷ khắc Bính Đinh hai Kỳ, nên đó là chỗ kỵ. Lại ví như đi đường bỗng dưng bị đứt đoạn vì bị nước ngăn không đi được, gọi là Triệt Lộ. Thế thì hai cung Triệt là hai cung của Nhâm Quý Thuỷ cản đường khó thông. Ý nghĩa của thời gian ngăn cách, phải có cầu, hay tau bè mới qua sông được (thời nay thì dễ, còn thời xưa đây là một vấn nạn). Tỷ dụ như người tuổi Bính Thìn thì khởi từ Tí là Mậu Tí, Đinh Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, như vậy hai cung Thìn Tỵ bị Triệt. 

“Danh có chánh thì ngôn mới thuận”. Khi hiểu rõ ý nghĩa của Tuần Triệt và từ Nguyên Lý nào mà Cổ Nhân dựng lập thành hai sao này thì ta có thể tìm ra được lúc nào là thời gian tốt xấu của chúng ngay thôi. Điều này thì trong Bói Dịch người ta có thể kiểm chứng mỗi 10 ngày cho Tuần. Tỷ như trong Bói Dịch cầu tài thì lấy hào Tài làm Dụng Thần, khi Tài lâm Tuần Không thì dù là hào đó vượng đến đâu (tức là tốt đến đâu) cũng chưa thể có tiền, cho đến khi gặp lúc Xuất Không, Xung Không, Điền Thật, hay Hợp Không thì mới có tiền. Dĩ nhiên nếu hào nào đó gặp Kỵ Thần thì cũng thế, tạm thời thì chưa hại, nhưng gặp lúc Xuất Không, Xung Không, Điền Thật, Hợp Không thì họa liền ập đến ngay. Cái này trong Bói Dịch người ta đã xài mấy ngàn năm nay rồi. 

Trong Tử Bình cũng thế, nếu Phúc Thần bị Tuần Triệt thì cũng vậy, còn Sát Thần gặp Tuần Triệt thì dĩ nhiên gặp lúc Xung Không, Điền Thật, Hợp Không tai họa sẽ ập đến ngay. Cái này trong Tử Bình người ta cũng xài mấy ngàn năm nay rồi. 

Thế thì trong Tử Vi đâu thể nào ngoại lệ. Những điều thế này chắc chắn trong Tử Vi thời của Trần Đoàn tất cả mọi người đều biết và nắm rõ ràng như thế. Tiếc là giống như Dịch Lý, ngày xưa kẻ chăn trâu cũng lãnh hội rõ ràng, nên chẳng ai thèm giải thích, bất chợt thời gian qua đi những nguời biết đó dần dần chết hết khiến cho những điều như thế này từ từ trở nên huyền bí, không ai hiểu rõ vậy thôi. 

Nhân đây tôi xin ví dụ đơn giản để mọi người đều có thể hiểu Tuần Triệt một cách rõ ràng hơn. Tuần: như có “một đám cướp” (Sát Tinh) bị Tuần bào bọc, như cướp nhốt trong hàng rào song sắt nhà tù… không cho ra ngoài, nên không thể cướp bóc, giết hại ai đươc. Nhưng khi có xe ủi sập các hàng rào song sắt ấy hay được thả tù thì họ sẽ tràn ra gây hại ngay (ví như Thái Tuế hay Tiểu Vận xung cung có Tuần); hoặc nếu có ai đó xui rũi, lại chui vào ngay ổ của khu đó thì tàn đời (ví như Điền Thật); hoặc như khi có ai đỏ mở cửa rào bên trong thì họ cũng có thể tràn ra mà sát hại người vào đó, hoặc anh hết chuyện lại đứng xớ rớ gần quá họ có thể đứng bên trong thò tay ra túm anh mà làm hại anh (ví như Dần có Tuần, Tiểu Vận hay Thái Tuế đến cung Mão); hoặc như một kẻ Sát Nhân có tay trong hay đồng bọn giúp cho thoát ngục để ra ngoài sát hại người vô tội (ví như cung nhị hợp). 

Còn Triệt thì theo ví dụ trên thay vì nhốt đám cướp vào hàng rao song sắt nhà tù lại đem bỏ họ lên một xà lang nhà tù để giữa sông, hay nhốt họ vào bên kia sông. Dĩ nhiên, hễ khi gặp các Vận trình như đã nói giống như Tuần thì tai họa cũng sẽ phát sinh ngay. 

Hiểu được như thế cho tai họa, thì việc tốt hay vàng bạc châu báu đem để vào hai cung Tuần Triệt thì cũng chẳng gì khác biệt! 

Cho nên học Tử Vi, Tử Bình, Mai Hoa, Bói Dịch… thì Dịch Lý giống như bản chữ cái a b c, hay các phép tính cộng trừ nhân chia… là cương lĩnh, dù chúng ta học môn nào mà nếu không lãnh hội hay hiểu rõ Dịch Lý thì chắc chắn chúng ta cũng không thế nghiên cứu rốt ráo được, và nếu chúng ta có cố cường điệu đi nữa thì cũng chỉ là dùng dao to búa lớn cho vui vậy thôi, chứ làm gì biết điều chúng ta nói là THẬT ĐÚNG hay THẬT SAI. Một khi chúng ta đã lãnh hội được Dịch Lý thì cho dù ai đó có nói gì đi nữa chỉ cần nhìn qua là tự biết họ ĐÚNG hay SAI ngay không thể nào lầm lẫn được, bởi vì tất cả những môn đó đều dựng lập nên từ Dịch Lý! 

—————————–

Từ các tiền đề này tôi đã phát hiện ra cách để phá giải cung bị Tuần Triệt trong Tử vi, đó là sử dụng cung xung chiếu.

Như ông Thienkyquy đã viết, khi hạn đến cung đối xung cung bị Tuần Triệt thì Không vong được tháo gỡ, điều này có nghiệm lý đúng trong thực tế. Tuy nhiên, trong đời rất hiếm khi hạn đến cung đó, 12 năm chỉ được một lần Thái tuế, tiểu hạn đi đến mà thôi. Vì vậy để tháo gỡ thường xuyên cung bị Tuần Triệt ta sẽ tìm cách làm động cung xung chiếu. Tức là ta sử dụng, hành động để cho cung đó động lên thường xuyên, nhờ xung lực từ cung đó để phá bỏ Không vong cho cung đối bị Tuần Triệt.

Cung Mệnh bị Tuần Triệt thì dùng cung Di, xa quê hương, xa họ hàng, quan hệ nhiều với xã hội, hoạt động liên tục ngoài xã hội để cung Di luôn động, nhờ thế phá bỏ Không vong ở Mệnh.

Cung Phúc bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, nhưng nếu cảm thấy bạc phúc thì dùng cung Tài, động Tài để có Phúc, rất dễ, đó chính là làm từ thiện. Nếu hàng ngày luôn tiếp xúc với tiền như làm trong ngân hàng, dịch vụ tài chính thì cũng là động tài. Có những người cảm thấy rất dễ chịu khi để vài đồng tiền lẻ của nước nào đó trong ví, trên bàn làm việc, vì đó cũng là làm động tiền. Người Phúc xấu dù bị Tuần Triệt hay không nếu chỉ biết tham lam vơ tiền vào mình giữ cho chặt, tất sẽ đến lúc thấy tiền thật là vô vị…

Cung Quan bị Tuần Triệt thì chậm chức vụ, trì trệ chậm chạm, vậy hãy dụng cung Phối, tức là nhờ vợ chồng tư vấn, hỗ trợ thì tự nhiên công việc sẽ hanh thông. Câu tục ngữ cổ “ vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” đã nêu ra chính nguyên tắc dụng đối cung để giúp bản cung giảm điều xấu. Thực tế, có người lấy vợ xong thì vợ chỉ đường cho làm ăn, vài năm đã phất lên như diều.

Cung Tài bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, chậm có tiền có khi lại hay, nhờ thế mới biết giá trị đồng tiền. Để giải thì dùng cung Phúc, như thực tế người ta vẫn hay nhờ hỗ trợ tài chính từ họ hàng thân quen. Phúc còn là tinh thần, tục ngữ có câu “có đức mặc sức mà ăn” cho thấy tiền bạc có liên quan đến tinh thần con người.Nên ở đâu đó vốn đã nghèo mà còn quay quắt tráo trở, thì cứ mãi nghèo. Phúc đối cung Tài, xứ ấy có kẻ lý giải là để có nhiều tiền thì cần trí trá đê tiện, vứt bỏlương tâm đi. 

Trong khi ở xứ văn minh người ta rất coi trọng đạo đức kinh doanh, ngoài việc bảo vệ môi trường thì người ta để tâm từng ly từng tí vào sản phẩm, cốt mang đến lợi ích tối đa cho người tiêu dùng. Ông Steve Jobs cho thay toàn bộ tai nghe nhạc chỉ để khi cắm vào máy nó có tiếng click hay hơn. Ông Geshe Michael Roach đi tu rồi xuống núi làm giàu bằng cách áp dụng giáo lý của Phật. Google, Facebook thành công nhờ cho không thiên hạ những gì tốt nhất có thể…

Cung Tử tức bị Tuần Triệt thì dụng cung Điền, phong thủy ứng dụng cho người hiếm muộn rất hữu hiệu. Thực tế khi cặp vợ chồng nào đó hiếm muộn đi tìm thầy giải thì ông thầy thường sẽ xem xét kiểm tra phong thủy, sau đó tìm cách di chuyển, sửa chữa, chọn năm tháng để kích hoạt việc sinh con, đấy chính là dụng cung Điền để hóa giải Không vong ở cung Tử tức. Nếu là con cái có vấn đề thì cũng thường do phong thủy, cần sửa nhà, chuyển nhà, động cung Điền lên để thay đổi. Nhà là môi trường sống tối quan trọng, cần chú ý đặc biệt.

Cung Phối bị Tuần Triệt thì dụng cung Quan, nếu lấy vợ chồng cùng cơ quan, cùng ngành nghề thì tự nhiên đỡ hẳn, điều này rất ứng nghiệm. Người nào mà có cung Quan quá nổi, công danh sớm tốt (ví dụ làm trong ngành điện lực, ngân hàng) thì cũng có thể phá luôn Tuần Triệt ở Phối, vẫn lập gia đình sớm. Ngoài ra, có những người lá số cung Phối bị Tuần Triệt nên phải xa vợ chồng, khi họ xin chuyển công tác, đổi việc để được gần gia đình thì chính là đã vô tình động cung Quan để phá giải Không vong rồi đó

(Dẫn theo trang vuihoctuvi.blogspot.com)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button