Tử vi

Ngũ hành Dần thủ (Ngũ Hổ Độn)

Như chúng ta đã biết, nguyệt kiến (địa chi) của mỗi tháng là cố định, không thay đổi, lúc nào tháng giêng cũng là kiến Dần, còn thiên can thì khác nhau tùy theo năm, tháng. Nhưng chúng ta chỉ cần tìm ra thiên can của tháng giêng, những tháng kế tiếp có thể căn cứ vào thiên can của tháng giêng mà bày ra lần lượt theo thứ tự. Trong Tử Vi Đẩu Số, người ta lấy thiên can của năm sinh để tìm ra thiên can của tháng giêng năm đó (nên gọi là “Dần thủ”, bởi vì tháng giêng là kiến Dần), phương pháp tìm ra “Dần thủ” gọi là “Ngũ hổ độn”.

Khấu quyết Ngũ hổ độn:

Giáp Kỉ chi niên Bính độn Dần,
Ất Canh chi tuế Mậu tiên hành,
Bính Tân tuân tòng Canh thượng độn,
Đinh Nhâm nguyên tự khởi ư Nhâm;
Mậu Quý chỉ niên Dần bách Giáp,
Độn can hóa khí tất phùng sinh.

Bạn đang xem: Ngũ hành Dần thủ (Ngũ Hổ Độn)

Dịch nghĩa:

Năm Giáp Kỉ Bính độn Dần,
Năm Ất Canh Mậu đi trước;
Bính Tân vòng theo Canh mà độn,
Đinh Nhâm vốn tự khởi ở Nhâm;
Năm Mậu Quý Dần độn Giáp,
Độn can hóa khí ắt gặp sinh.

Giải thích:

Giáp Kỉ hóa thổ, chi Dần độn Bính, Bính thuộc hỏa, hỏa sinh thổ; Ất Canh hóa kim, chi Dần độn Mậu, Mậu thuộc thổ, thổ sinh kim; Bính Tân hóa thủy, chi Dần độn Canh, Canh thuộc kim, kim sinh thủy; Đinh Nhâm hóa mộc, chi Dần độn Nhâm, Nhâm thuộc thủy, thủy sinh mộc; Mậu Quý hóa hỏa, chi Dần độn Giáp, Giáp thuộc mộc, mộc sinh hỏa; xem trên có thế biết nghĩa của câu “độn can hóa khí ắt gặp sinh”.

Tức là:

Năm Giáp hay năm Kỉ, tháng giêng là Bính Dần; nảm Ất hay năm Canh, tháng giêng là Mậu Dần; năm Bính hay năm Tân, tháng giêng là Canh Dần; năm Đinh hay năm Nhâm, tháng giêng là Nhâm Dần; năm Mậu hay năm Quý, tháng giêng là Giáp Dần.

Ví dụ năm Giáp khởi Bính ở cung Dần, là Bính Dần; bài bố thuận là Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỉ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tí, Đinh Sửu.

(Tử vi đẩu số tam hợp phái tập 1 – Nguyễn Anh Vũ dịch)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Ngũ hành Dần thủ (Ngũ Hổ Độn)

Như chúng ta đã biết, nguyệt kiến (địa chi) của mỗi tháng là cố định, không thay đổi, lúc nào tháng giêng cũng là kiến Dần, còn thiên can thì khác nhau tùy theo năm, tháng. Nhưng chúng ta chỉ cần tìm ra thiên can của tháng giêng, những tháng kế tiếp có thể căn cứ vào thiên can của tháng giêng mà bày ra lần lượt theo thứ tự. Trong Tử Vi Đẩu Số, người ta lấy thiên can của năm sinh để tìm ra thiên can của tháng giêng năm đó (nên gọi là “Dần thủ”, bởi vì tháng giêng là kiến Dần), phương pháp tìm ra “Dần thủ” gọi là “Ngũ hổ độn”.

Khấu quyết Ngũ hổ độn:

Giáp Kỉ chi niên Bính độn Dần,
Ất Canh chi tuế Mậu tiên hành,
Bính Tân tuân tòng Canh thượng độn,
Đinh Nhâm nguyên tự khởi ư Nhâm;
Mậu Quý chỉ niên Dần bách Giáp,
Độn can hóa khí tất phùng sinh.

Dịch nghĩa:

Năm Giáp Kỉ Bính độn Dần,
Năm Ất Canh Mậu đi trước;
Bính Tân vòng theo Canh mà độn,
Đinh Nhâm vốn tự khởi ở Nhâm;
Năm Mậu Quý Dần độn Giáp,
Độn can hóa khí ắt gặp sinh.

Giải thích:

Giáp Kỉ hóa thổ, chi Dần độn Bính, Bính thuộc hỏa, hỏa sinh thổ; Ất Canh hóa kim, chi Dần độn Mậu, Mậu thuộc thổ, thổ sinh kim; Bính Tân hóa thủy, chi Dần độn Canh, Canh thuộc kim, kim sinh thủy; Đinh Nhâm hóa mộc, chi Dần độn Nhâm, Nhâm thuộc thủy, thủy sinh mộc; Mậu Quý hóa hỏa, chi Dần độn Giáp, Giáp thuộc mộc, mộc sinh hỏa; xem trên có thế biết nghĩa của câu “độn can hóa khí ắt gặp sinh”.

Tức là:

Năm Giáp hay năm Kỉ, tháng giêng là Bính Dần; nảm Ất hay năm Canh, tháng giêng là Mậu Dần; năm Bính hay năm Tân, tháng giêng là Canh Dần; năm Đinh hay năm Nhâm, tháng giêng là Nhâm Dần; năm Mậu hay năm Quý, tháng giêng là Giáp Dần.

Ví dụ năm Giáp khởi Bính ở cung Dần, là Bính Dần; bài bố thuận là Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỉ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tí, Đinh Sửu.

(Tử vi đẩu số tam hợp phái tập 1 – Nguyễn Anh Vũ dịch)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button