Tử vi

Quan hệ giữa mệnh cục, đại nạn, tiểu hạn, lưu niên

Mệnh cùng vận là một chỉnh thể, nhưng mỗi cái lại chủ cho một thứ và có những đặc điểm khác biệt. “Mệnh” là tiên thiên và nhân tố nội bộ, là linh hồn, thân thể của con người, là bộ khung, thành phần chủ yếu của chủ thể vận mệnh. Cách cục “Mệnh” cao thấp chú định năng lực tiếp nhận Tài Quý Phúc Thọ cả một đời người ở tầng thứ cao nhất.”Vận” là nhân tố bên ngoài, ảnh hưởng của hoàn cảnh hậu thiên, là năng lực biến hóa của con người để thích ứng với thời không từ trường, trong từng điểm thời không hoạt động và vận dụng lịch trình, và kết quả cố gắng hậu thiên, sự phát triển biến hóa của “Vận” cũng có thể ảnh hưởng đến “Mệnh” kết cục. Nguyên nhân nội tại tạo nên tác dụng chủ yếu, nguyên nhân nội tại thông qua nhân tố bên ngoài mà tạo nên tác dụng.”Mệnh” là nhân tố chủ yếu, “Mệnh” thông qua “Vận” tạo nên tác dụng, cho nên “Mệnh” và “Vận” đều rất trọng yếu, tạo thành đường cong vận mệnh nhân sinh. Ví dụ như, nguyên mệnh cục nhiều hung tinh hoặc chủ tinh thất hãm, xuất thân nghèo khó, gặp hạn vận hóa cát hoặc cát tinh củng hợp sẽ có nhiều đột phát thành tựu, vận tốt qua đi vẫn là bôn ba thất ý; trái lại, nguyên mệnh cục tốt nhiều sao vượng, xuất thân phú quý, gặp hạn vận ác sát Hóa Kị đến xung, là đột nhiên thất ý nghèo túng, khi vận rủi qua đi thì có thể khôi phục nguyên khí. Lại như, nguyên cục có mệnh làm quan, đại vận trợ giúp thì có chức vị, nhưng nếu cả đời không được vận thì cũng là không thể làm Quan, nhiều nhất không đến nỗi quá nghèo hèn mà thôi; nguyên cục không có cách cục làm Quan, đại vận trợ giúp cũng khó có được chức vị, đa phần chỉ là thuận lợi cho sự nghiệp mà thôi.

Tượng do trời buông xuống, thành hình do đất, thành sự do người. Thiên bàn như trời, đại hạn bàn như địa, lưu niên bàn như người. Mệnh là thiên định, nguyên mệnh cách cục cao thấp, chú định cả đời phú quý nghèo hèn thọ thiên đại thế, tức là định số, là bộ phận ở trạng thái tĩnh. Tuế hạn thì là từng giai đoạn nhân sinh trên cơ sở định số biến hóa lưu động, tức là ứng số, thuộc về bộ phận động thái. Các sao của nguyên Mệnh Bàn phản ánh bản chất người, sự việc, vận hạn chỉ phản ánh nhân sinh gặp gỡ, các sao của hạn vận không tạo được tác dụng bản chất, bản tính (tính tình), trong ngắn hạn không có khả năng đạt được nhưng có thể hiển hiện tượng ý tác dụng, tinh diệu hóa khí và tượng ý đặc sắc vẫn có tác dụng; Ví dụ như, Tử Vi bản chất là Hoàng Đế Tinh, cần bách quan củng chiếu, hạn vận thì không có bản chất của Hoàng Đế, có thể không cần bách quan củng chiếu, nhưng vẫn có phong cách cao, đứng đầu, dẫn đầu và tài năng đặc sắc, gặp bách quan củng chiếu càng thêm có lợi; lại như Thiên Cơ chủ thông minh, cần có khoa văn tinh củng chiếu, trong hạn vận không chủ thông minh, cũng không nhất định cần có khoa văn tinh củng chiếu, trong ngắn hạn khó mà thông minh, nhưng cơ biến, biến động, mưu đồ và phụ thuộc quyền thế vẫn hiện hữu, gặp khoa văn cát tinh cũng có lợi đối với vận trình. Tính chất của các sao trong Hạn vận là từ bản chất cơ sở của các sao trong Tiên Thiên bàn phát triển biến hóa và phản ứng, xem đối với bản chất ảnh hưởng như thế nào? Bản chất là hỉ hay là kỵ, nếu bản chất là hỉ thì tăng cường tác dụng của bản chất, hướng địa phương tốt mà phát triển; nếu bản chất kỵ thì giảm thiểu tác dụng của bản chất, hướng địa phương xấu mà phát triển. Các sao trong Mệnh Bàn có bản chất khác biệt, chạy vận hỉ kị cũng khác biệt, tiểu hạn cũng sẽ khác biệt. Bởi vậy, tuế hạn không thể thoát ly mệnh cục, vẫn lấy mệnh cục làm chủ tuyến, là định số. Ví dụ như, nguyên mệnh cục không có quan vận, tiểu hạn tốt nhất cũng chỉ tương đối trôi chảy mà thôi, không có khả năng thăng quan, dù cho thăng quan cũng không cao, như tôm cá nhập biển cả mặc kệ vẫy vùng thế nào cũng không có khả năng biến thành rồng thành phượng. Lúc nào thăng quan phát tài? Lúc nào tai ương? Nhất định phải dùng đại hạn, lưu niên tiểu hạn để xác định. Đại hạn là một bước ngoặt cực kỳ trọng yếu, nó mang đến tác dụng nhận thượng truyền hạ, phú quý cát hung cơ bản định hình, xem ứng với đại hạn mười năm như thế nào. Ví dụ như luận hung tai, đầu tiên xem cung xấu trong nguyên mệnh cục, có tai ách tai hoạ ngầm, mầm tai hoạ gì; lại xem tình huống phát triển của đại hạn, nếu xấu nữa thì tai ách phát sinh sẽ tăng lên, tai ách đã hoài thai thành hình, tức cơ bản kết cục đã định, vậy xem năm nào sẽ phát sinh; xem tiếp trong mười năm đại hạn này thì lưu niên tiểu hạn nào và lưu niên cung xấu, chính là năm phát sinh tai ách; tiếp theo lại phân tích lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu Thời.

Nguyên mệnh cục quản đại cục một đời, đại hạn quản mười năm tao ngộ, tiểu hạn, lưu niên quản họa phúc một năm. So sánh với tứ trụ mệnh lý, đại hạn của đẩu số tương đương với tứ trụ đại vận, nhưng năm khởi vận có nhiều khác biệt; tiểu hạn, lưu niên thì tương đương với tứ trụ tiểu vận, lưu niên.

Chúng ta đem đời người chia làm ba thời kì, thiếu niên, trung niên, lão niên tam đại thời kì, gọi là thời kì vận. Sinh hoạt, sự nghiệp, tai ách của một người sẽ biến hóa theo ba thời kỳ thiếu niên, trung niên, lão niên. Các thời kỳ không giống nhau sẽ có quy luật phát triển hoàn toàn khác biệt. Thời kỳ thiếu niên chính là thời kỳ phát triển thể xác và học tập, sức khỏe, năng lực ứng biến có độ sai lệch, sinh hoạt còn phải ỷ lại vào gia đình bố mẹ. Thời kỳ trung niên, thân thể phát dục thành thục, năng lực ứng biến mạnh, tự lập thành gia, thời cơ phát triển sự nghiệp tốt đẹp. Thời kỳ lão niên là lúc về hưu hưởng phúc dần dần già yếu, bệnh tật càng ngày càng nhiều. Phân chia tuổi tác Thiếu, Trung, Lão tam kỳ theo hiện đại là thiếu niên vận từ khi sinh đến 20 tuổi, trung niên vận từ 21 tuổi đến 55 tuổi, lão niên vận từ 55 tuổi đến chết. Ba thời kỳ đều có chỗ chủ cung độ, thiếu niên kỳ cát hung lấy mệnh cung làm chủ, sinh hoạt lấy cung Phụ mẫu làm chủ, lưu niên chú trọng cung Phụ mẫu; trung niên kỳ lấy mệnh cung làm chủ, xem thêm Tài Quan di cung, lưu niên chú trọng Tài Quan di cung; lão niên kỳ lấy cung Phúc đức làm chủ, kiêm xem cung Mệnh, Thân, Tật ách, lúc tuổi già chú trọng cung Tật ách. Xem tinh tình ở chủ cung tốt xấu để định vận mệnh cát hung từng thời kỳ, chỗ chủ cung tốt thì cát, chủ cung xấu thì hung. Chú ý: Cát hung họa phúc của ba thời kỳ này vẫn chỉ là báo hiệu mơ hồ, chỉ là phụ trợ tham khảo, phát sinh hay không chủ yếu vẫn từ đại hạn, lưu niên để quyết định.

Một người có cát vận là vui mừng, đối với thể xác tinh thần tuy có ảnh hưởng, nhưng nếu so với tai hoạ, nhất là tàn tật, tử vong thì hoàn toàn khác biệt, tổn thương chết chóc bi thống là khắc cốt minh tâm. Cho nên, khi luận hạn vận cát hung, lấy tai ách làm trọng, để có dự phòng đối với tai hoạ, xu cát tị hung. Luận hạn vận cát hung, bắt đầu từ mệnh cục, đến đại hạn, rồi đến lưu niên tiểu hạn, lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu Thời, từng cấp mà tiến hành phân tích phán đoán suy luận; đại hạn có tác dụng đối với mệnh cục, tiểu hạn, lưu niên có tác dụng đối với đại nạn, mà không phải mệnh cục có tác dụng đối với đại nạn, đại nạn có tác dụng đối với tiểu hạn lưu niên, lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu thời cũng như vậy.

Phân tích Niên hạn và nguyên cục, cũng giảng cách cục và dẫn phát Tứ hóa, luận tinh tình cũng lấy chủ tinh làm chủ là thân cây, phụ tinh sao nhỏ làm phụ, là cành lá. Nhưng khi xem lưu niên động trong mâm, nhất là lưu niên, không thể đánh giá thấp tác dụng của sao nhỏ, những sao này thậm chí có thể ảnh hưởng đến chủ tinh. Khi luận hung tai họa ách, cần xem trọng sao nhỏ và Tứ hóa, lưu tinh cát hung phán đoán suy luận, nếu gặp Lục Sát tinh và Âm sát, Kiếp sát, Đại hao, Phi liêm, Thiên thương, Thiên sứ, Thiên khốc, Thiên hư, Tang môn, Bạch Hổ, Hóa Kị hung tinh, tất biểu hiện hung tính, dễ phát sinh kiện cáo, bệnh tật, tử tang. Ví dụ như, đại nạn lưu niên gặp Hóa Khoa, Văn Xương, Hóa Lộc (hoặc Lộc Tồn) tụ tập, thi cử sẽ trên cao trung, nhưng cũng gặp Hàm trì, Đại Hao cùng thủ, là niên hội vì có tác dụng của đào hoa tinh nên sẽ mê nhập biển tình hoặc yêu đương mà ảnh hưởng học tập, kết quả là thi rớt.

Luận vận hạn cát hung, Bắc Đẩu tinh tác dụng sớm, Nam Đẩu tinh tác dụng chậm. Trong Đại nạn, Bắc Đẩu tinh ứng với 5 năm trước, Nam Đẩu tinh ứng với 5 năm sau. Trong Tiểu hạn lưu niên, Bắc Đẩu tinh ứng với nửa năm đầu, Nam Đẩu tinh ứng với sáu tháng cuối năm. Lưu Nguyệt Nhật cũng vậy.

Hạn vận gặp Sát Phá Lang, có nhiều chuyển cơ đặc thù, sự tình hoặc nhanh thành nhanh bại, hoặc có biến hóa lớn. Hạn vận gặp Hóa Lộc thêm Tứ Sát, sự tình sẽ thành công nhanh chóng, chồng lộc càng nhanh. Hạn vận gặp Hóa Kị thêm Lục Sát, sự tình sẽ vô cùng xấu, chồng kị càng xấu.

Quan hệ cát hung của Mệnh cục, đại nạn, tiểu hạn lưu niên dưới tình huống bình thường như quan hệ dưới đây:

Mệnh cục cát, đại nạn cát, lưu niên cát, là năm đại cát; mệnh cục cát, đại nạn cát, lưu niên hung, là năm bình thường;

Mệnh cục cát, đại nạn hung, lưu niên cát, là năm tiểu cát; mệnh cục cát, đại nạn hung, lưu niên hung, là năm xấu;

Mệnh cục hung, đại nạn cát, lưu niên cát, là năm cát; mệnh cục hung, đại nạn cát, lưu niên hung, là năm có tiểu hung;

Mệnh cục hung, đại nạn hung, lưu niên cát, là năm bình thường; mệnh cục hung, đại nạn hung, lưu niên hung, là năm đại hung.

Tình huống đặc biệt đại nạn cát lưu niên hung mà ứng hung thậm chí đại hung, đại nạn hung lưu niên cát mà ứng cát thậm chí đại cát là do ảnh hưởng của phúc ấm, tích ác, dương thiện, phong thuỷ hoặc hoàn cảnh thời cuộc cải biến bố trí, người nghiên cứu về mệnh không thể không biết.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Bạn đang xem: Quan hệ giữa mệnh cục, đại nạn, tiểu hạn, lưu niên

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Quan hệ giữa mệnh cục, đại nạn, tiểu hạn, lưu niên

Mệnh cùng vận là một chỉnh thể, nhưng mỗi cái lại chủ cho một thứ và có những đặc điểm khác biệt. “Mệnh” là tiên thiên và nhân tố nội bộ, là linh hồn, thân thể của con người, là bộ khung, thành phần chủ yếu của chủ thể vận mệnh. Cách cục “Mệnh” cao thấp chú định năng lực tiếp nhận Tài Quý Phúc Thọ cả một đời người ở tầng thứ cao nhất.”Vận” là nhân tố bên ngoài, ảnh hưởng của hoàn cảnh hậu thiên, là năng lực biến hóa của con người để thích ứng với thời không từ trường, trong từng điểm thời không hoạt động và vận dụng lịch trình, và kết quả cố gắng hậu thiên, sự phát triển biến hóa của “Vận” cũng có thể ảnh hưởng đến “Mệnh” kết cục. Nguyên nhân nội tại tạo nên tác dụng chủ yếu, nguyên nhân nội tại thông qua nhân tố bên ngoài mà tạo nên tác dụng.”Mệnh” là nhân tố chủ yếu, “Mệnh” thông qua “Vận” tạo nên tác dụng, cho nên “Mệnh” và “Vận” đều rất trọng yếu, tạo thành đường cong vận mệnh nhân sinh. Ví dụ như, nguyên mệnh cục nhiều hung tinh hoặc chủ tinh thất hãm, xuất thân nghèo khó, gặp hạn vận hóa cát hoặc cát tinh củng hợp sẽ có nhiều đột phát thành tựu, vận tốt qua đi vẫn là bôn ba thất ý; trái lại, nguyên mệnh cục tốt nhiều sao vượng, xuất thân phú quý, gặp hạn vận ác sát Hóa Kị đến xung, là đột nhiên thất ý nghèo túng, khi vận rủi qua đi thì có thể khôi phục nguyên khí. Lại như, nguyên cục có mệnh làm quan, đại vận trợ giúp thì có chức vị, nhưng nếu cả đời không được vận thì cũng là không thể làm Quan, nhiều nhất không đến nỗi quá nghèo hèn mà thôi; nguyên cục không có cách cục làm Quan, đại vận trợ giúp cũng khó có được chức vị, đa phần chỉ là thuận lợi cho sự nghiệp mà thôi.

Tượng do trời buông xuống, thành hình do đất, thành sự do người. Thiên bàn như trời, đại hạn bàn như địa, lưu niên bàn như người. Mệnh là thiên định, nguyên mệnh cách cục cao thấp, chú định cả đời phú quý nghèo hèn thọ thiên đại thế, tức là định số, là bộ phận ở trạng thái tĩnh. Tuế hạn thì là từng giai đoạn nhân sinh trên cơ sở định số biến hóa lưu động, tức là ứng số, thuộc về bộ phận động thái. Các sao của nguyên Mệnh Bàn phản ánh bản chất người, sự việc, vận hạn chỉ phản ánh nhân sinh gặp gỡ, các sao của hạn vận không tạo được tác dụng bản chất, bản tính (tính tình), trong ngắn hạn không có khả năng đạt được nhưng có thể hiển hiện tượng ý tác dụng, tinh diệu hóa khí và tượng ý đặc sắc vẫn có tác dụng; Ví dụ như, Tử Vi bản chất là Hoàng Đế Tinh, cần bách quan củng chiếu, hạn vận thì không có bản chất của Hoàng Đế, có thể không cần bách quan củng chiếu, nhưng vẫn có phong cách cao, đứng đầu, dẫn đầu và tài năng đặc sắc, gặp bách quan củng chiếu càng thêm có lợi; lại như Thiên Cơ chủ thông minh, cần có khoa văn tinh củng chiếu, trong hạn vận không chủ thông minh, cũng không nhất định cần có khoa văn tinh củng chiếu, trong ngắn hạn khó mà thông minh, nhưng cơ biến, biến động, mưu đồ và phụ thuộc quyền thế vẫn hiện hữu, gặp khoa văn cát tinh cũng có lợi đối với vận trình. Tính chất của các sao trong Hạn vận là từ bản chất cơ sở của các sao trong Tiên Thiên bàn phát triển biến hóa và phản ứng, xem đối với bản chất ảnh hưởng như thế nào? Bản chất là hỉ hay là kỵ, nếu bản chất là hỉ thì tăng cường tác dụng của bản chất, hướng địa phương tốt mà phát triển; nếu bản chất kỵ thì giảm thiểu tác dụng của bản chất, hướng địa phương xấu mà phát triển. Các sao trong Mệnh Bàn có bản chất khác biệt, chạy vận hỉ kị cũng khác biệt, tiểu hạn cũng sẽ khác biệt. Bởi vậy, tuế hạn không thể thoát ly mệnh cục, vẫn lấy mệnh cục làm chủ tuyến, là định số. Ví dụ như, nguyên mệnh cục không có quan vận, tiểu hạn tốt nhất cũng chỉ tương đối trôi chảy mà thôi, không có khả năng thăng quan, dù cho thăng quan cũng không cao, như tôm cá nhập biển cả mặc kệ vẫy vùng thế nào cũng không có khả năng biến thành rồng thành phượng. Lúc nào thăng quan phát tài? Lúc nào tai ương? Nhất định phải dùng đại hạn, lưu niên tiểu hạn để xác định. Đại hạn là một bước ngoặt cực kỳ trọng yếu, nó mang đến tác dụng nhận thượng truyền hạ, phú quý cát hung cơ bản định hình, xem ứng với đại hạn mười năm như thế nào. Ví dụ như luận hung tai, đầu tiên xem cung xấu trong nguyên mệnh cục, có tai ách tai hoạ ngầm, mầm tai hoạ gì; lại xem tình huống phát triển của đại hạn, nếu xấu nữa thì tai ách phát sinh sẽ tăng lên, tai ách đã hoài thai thành hình, tức cơ bản kết cục đã định, vậy xem năm nào sẽ phát sinh; xem tiếp trong mười năm đại hạn này thì lưu niên tiểu hạn nào và lưu niên cung xấu, chính là năm phát sinh tai ách; tiếp theo lại phân tích lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu Thời.

Nguyên mệnh cục quản đại cục một đời, đại hạn quản mười năm tao ngộ, tiểu hạn, lưu niên quản họa phúc một năm. So sánh với tứ trụ mệnh lý, đại hạn của đẩu số tương đương với tứ trụ đại vận, nhưng năm khởi vận có nhiều khác biệt; tiểu hạn, lưu niên thì tương đương với tứ trụ tiểu vận, lưu niên.

Chúng ta đem đời người chia làm ba thời kì, thiếu niên, trung niên, lão niên tam đại thời kì, gọi là thời kì vận. Sinh hoạt, sự nghiệp, tai ách của một người sẽ biến hóa theo ba thời kỳ thiếu niên, trung niên, lão niên. Các thời kỳ không giống nhau sẽ có quy luật phát triển hoàn toàn khác biệt. Thời kỳ thiếu niên chính là thời kỳ phát triển thể xác và học tập, sức khỏe, năng lực ứng biến có độ sai lệch, sinh hoạt còn phải ỷ lại vào gia đình bố mẹ. Thời kỳ trung niên, thân thể phát dục thành thục, năng lực ứng biến mạnh, tự lập thành gia, thời cơ phát triển sự nghiệp tốt đẹp. Thời kỳ lão niên là lúc về hưu hưởng phúc dần dần già yếu, bệnh tật càng ngày càng nhiều. Phân chia tuổi tác Thiếu, Trung, Lão tam kỳ theo hiện đại là thiếu niên vận từ khi sinh đến 20 tuổi, trung niên vận từ 21 tuổi đến 55 tuổi, lão niên vận từ 55 tuổi đến chết. Ba thời kỳ đều có chỗ chủ cung độ, thiếu niên kỳ cát hung lấy mệnh cung làm chủ, sinh hoạt lấy cung Phụ mẫu làm chủ, lưu niên chú trọng cung Phụ mẫu; trung niên kỳ lấy mệnh cung làm chủ, xem thêm Tài Quan di cung, lưu niên chú trọng Tài Quan di cung; lão niên kỳ lấy cung Phúc đức làm chủ, kiêm xem cung Mệnh, Thân, Tật ách, lúc tuổi già chú trọng cung Tật ách. Xem tinh tình ở chủ cung tốt xấu để định vận mệnh cát hung từng thời kỳ, chỗ chủ cung tốt thì cát, chủ cung xấu thì hung. Chú ý: Cát hung họa phúc của ba thời kỳ này vẫn chỉ là báo hiệu mơ hồ, chỉ là phụ trợ tham khảo, phát sinh hay không chủ yếu vẫn từ đại hạn, lưu niên để quyết định.

Một người có cát vận là vui mừng, đối với thể xác tinh thần tuy có ảnh hưởng, nhưng nếu so với tai hoạ, nhất là tàn tật, tử vong thì hoàn toàn khác biệt, tổn thương chết chóc bi thống là khắc cốt minh tâm. Cho nên, khi luận hạn vận cát hung, lấy tai ách làm trọng, để có dự phòng đối với tai hoạ, xu cát tị hung. Luận hạn vận cát hung, bắt đầu từ mệnh cục, đến đại hạn, rồi đến lưu niên tiểu hạn, lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu Thời, từng cấp mà tiến hành phân tích phán đoán suy luận; đại hạn có tác dụng đối với mệnh cục, tiểu hạn, lưu niên có tác dụng đối với đại nạn, mà không phải mệnh cục có tác dụng đối với đại nạn, đại nạn có tác dụng đối với tiểu hạn lưu niên, lưu Nguyệt, lưu Nhật, lưu thời cũng như vậy.

Phân tích Niên hạn và nguyên cục, cũng giảng cách cục và dẫn phát Tứ hóa, luận tinh tình cũng lấy chủ tinh làm chủ là thân cây, phụ tinh sao nhỏ làm phụ, là cành lá. Nhưng khi xem lưu niên động trong mâm, nhất là lưu niên, không thể đánh giá thấp tác dụng của sao nhỏ, những sao này thậm chí có thể ảnh hưởng đến chủ tinh. Khi luận hung tai họa ách, cần xem trọng sao nhỏ và Tứ hóa, lưu tinh cát hung phán đoán suy luận, nếu gặp Lục Sát tinh và Âm sát, Kiếp sát, Đại hao, Phi liêm, Thiên thương, Thiên sứ, Thiên khốc, Thiên hư, Tang môn, Bạch Hổ, Hóa Kị hung tinh, tất biểu hiện hung tính, dễ phát sinh kiện cáo, bệnh tật, tử tang. Ví dụ như, đại nạn lưu niên gặp Hóa Khoa, Văn Xương, Hóa Lộc (hoặc Lộc Tồn) tụ tập, thi cử sẽ trên cao trung, nhưng cũng gặp Hàm trì, Đại Hao cùng thủ, là niên hội vì có tác dụng của đào hoa tinh nên sẽ mê nhập biển tình hoặc yêu đương mà ảnh hưởng học tập, kết quả là thi rớt.

Luận vận hạn cát hung, Bắc Đẩu tinh tác dụng sớm, Nam Đẩu tinh tác dụng chậm. Trong Đại nạn, Bắc Đẩu tinh ứng với 5 năm trước, Nam Đẩu tinh ứng với 5 năm sau. Trong Tiểu hạn lưu niên, Bắc Đẩu tinh ứng với nửa năm đầu, Nam Đẩu tinh ứng với sáu tháng cuối năm. Lưu Nguyệt Nhật cũng vậy.

Hạn vận gặp Sát Phá Lang, có nhiều chuyển cơ đặc thù, sự tình hoặc nhanh thành nhanh bại, hoặc có biến hóa lớn. Hạn vận gặp Hóa Lộc thêm Tứ Sát, sự tình sẽ thành công nhanh chóng, chồng lộc càng nhanh. Hạn vận gặp Hóa Kị thêm Lục Sát, sự tình sẽ vô cùng xấu, chồng kị càng xấu.

Quan hệ cát hung của Mệnh cục, đại nạn, tiểu hạn lưu niên dưới tình huống bình thường như quan hệ dưới đây:

Mệnh cục cát, đại nạn cát, lưu niên cát, là năm đại cát; mệnh cục cát, đại nạn cát, lưu niên hung, là năm bình thường;

Mệnh cục cát, đại nạn hung, lưu niên cát, là năm tiểu cát; mệnh cục cát, đại nạn hung, lưu niên hung, là năm xấu;

Mệnh cục hung, đại nạn cát, lưu niên cát, là năm cát; mệnh cục hung, đại nạn cát, lưu niên hung, là năm có tiểu hung;

Mệnh cục hung, đại nạn hung, lưu niên cát, là năm bình thường; mệnh cục hung, đại nạn hung, lưu niên hung, là năm đại hung.

Tình huống đặc biệt đại nạn cát lưu niên hung mà ứng hung thậm chí đại hung, đại nạn hung lưu niên cát mà ứng cát thậm chí đại cát là do ảnh hưởng của phúc ấm, tích ác, dương thiện, phong thuỷ hoặc hoàn cảnh thời cuộc cải biến bố trí, người nghiên cứu về mệnh không thể không biết.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button