Tử vi

Tăng bổ thái vi phú

Các sao ở 2 cung trước và sau cung Mệnh mà không tốt có thể chưa phát sinh tai họa lớn, còn nếu hung tinh đồng cung với hung tinh thì tai họa là khó tránh. Hỏa tinh kỵ đồng cung với Thiên mã, như vậy ắt sẽ gặp tai họa, nếu có Dương nhẫn chiếu đến thì Lộc tồn mất đi trợ lực. Cung Mệnh mà có Địa không, Địa kiếp thì lục thân không được nhờ cậy. Trong cung Mệnh mà có hóa quyền, hóa lộc thì rất tốt, hoặc có Thiên khôi hay Thiên việt thì ắt sẽ là bậc chính nhân quân tử. Cung Mệnh có Dương nhẫn hoặc là Hỏa tinh, Linh tinh là mệnh tiểu nhân. Hung tinh lại gặp hung tinh thì rất xấu, cát tinh gặp cát tinh chủ cát lợi. Chủ tinh mà mạnh, phụ tinh yếu thì một đòi bình an; chủ tinh yếu còn phụ tinh mạnh thì tai hung ập đến khó lường. Chủ tinh và phụ tinh bổ sung chế hóa lẫn nhau, khi hành hạn cung Mệnh, cung Thân đều có sao củng chiếu mới tốt. Cung Thân, cung Mệnh kỵ nhất là có sao Dương nhẫn, Đà la, Thất sát, gặp như vậy thì sẽ xảy ra tai họa thương tật. Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là có Tham lang, Phá quân, Cự môn, Liêm trinh, gặp như vậy thì ắt xảy ra họa hại. Cung Mệnh có Thiên khôi, hoặc Thiên việt, hoặc Văn xương, Văn khúc thì ắt được làm quan. Đại hạn, tiểu hạn gặp Tử vi, Thiên phủ sẽ phát tài. Yếu quyết của việc xem mệnh nữ tốt hay xấu trước tiên phải xem cung Phúc đức và cung Tài bạch, sau đó còn phải nghiên cứu xem cung Thiên di và các sao trong đại hạn, tiểu hạn như thế nào, như vậy sẽ biết được cát hung. Đại hạn, tiểu hạn mà có cát tinh thì không phải lo lắng chuyện tiền bạc, hơn nữa ra ngoài làm việc đều được cát lợi. Mệnh mà ở chỗ hãm nhược thì một đời làm việc gặp khó khăn, có Liêm trinh, Lộc tồn tại cung Thân thì mệnh nữ sẽ là người trinh tiết hiền thục. Có Thiên đồng, Thiên lương tại cung Mệnh, mệnh nam sẽ là bậc chính nhân quân tử. Trong cung Mệnh mà có hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc thì cần phải xem các sao này ở miếu vượng hay là lạc hãm. Nếu luận về mệnh trẻ nhỏ thì cần phải suy xét thật kỹ đại hạn và tiểu hạn khi nhỏ của họ. Trẻ nhỏ cung Mệnh mà tọa ở chỗ hung thì khó sống qua 5 tuổi. Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi đồng cung, cho dù không phải là người học hành thì lớn lên cũng rất giỏi giang đáng yêu. Dương nhẫn mà gặp Địa không, Địa kiếp hoặc sát tinh thì người đó học nhiều mà ít thành. Sao Thái tuế gặp Quan phù thì người đó vui mừng vì thoát khỏi họa lao tù. Nghiên cứu về mệnh lý cần phải nắm vững sự biến hóa của các sao. Lý luận của Tử vi đẩu số rất thâm áo cho nền cần phải suy xét nghiên cứu thật kỹ sự hưng suy của cách cục. Sao Tử vi nếu đồng cung với sát tinh thì người đó nên hiến thân cho tôn giáo. Dương nhẫn, Đà la mà đồng cung với ác tinh thì khó mà được thành tựu. Cung Mệnh có Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh thì tất sẽ được phú quý, hơn nữa lại là người giỏi về mưu tính; nhưng nếu có Dương nhẫn, Địa không, Địa kiếp đồng cung thì ngược lại lại trở thành người không có chí khí cao xa, mà hơn nữa còn cô độc bần hàn. Các sao trong đại hạn, tiểu hạn mà miếu vượng thì vận tuy yếu nhưng lại không yếu. Mệnh ở chỗ cát địa, tuy hung nhưng cùng không đến nỗi quá xấu. Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là gặp Địa kiếp, Địa không và Tiệt lộ. Ở Mão địa, Dậu địa mà có Địa kiếp, Địa không sẽ là người thông minh phát phúc. Cung Thân, cung Mệnh có Tử vi, Thiên phủ chủ về cuộc sống đầy đủ. Thân chủ, Mệnh chủ mà gặp Không, Kiếp thì cuộc sống thiếu thốn. Cung Mệnh hoặc nhị hạn mà có Dương nhẫn thì mưu sự không thành. Cung Thân hoặc nhị hạn mà có Thiên tướng, Tả phù thì làm việc có thành tựu. Người mà có hóa quyền, hóa khoa, hóa lộc củng chiếu cung Thân, cung Mệnh thì tất sẽ được vinh hoa phú quý. Người mà có Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Linh tinh ở cung Mệnh thì làm nghề tự do. Người có Văn xương, Văn khúc tại cung Thân hoặc cung Mệnh thì lòng dạ rộng rãi, tính tình hào phóng. Người có Dương nhẫn, Đà la hãm địa tọa Mệnh sẽ là người gian trá hư phù. Thiên cơ thiên lương thêm Dương nhẫn đồng cung sẽ sớm hình khắc với cha mẹ vợ con, để đến nỗi cuối đời cô quạnh một mình. Tham lang, Vũ khúc hoặc Tham lang, Liêm trinh đồng cung thì tuổi trẻ gian kho nhưng cuối đòi được hưởng phúc. Những điều này đều là sự vi diệu của Tử vi đẩu số, người nghiên cứu cần phải ghi nhớ cho thật kỹ.

(Lập và giải tử vi đẩu số – Phương pháp đoán mệnh – Phan Tử Ngư)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Bạn đang xem: Tăng bổ thái vi phú

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tăng bổ thái vi phú

Các sao ở 2 cung trước và sau cung Mệnh mà không tốt có thể chưa phát sinh tai họa lớn, còn nếu hung tinh đồng cung với hung tinh thì tai họa là khó tránh. Hỏa tinh kỵ đồng cung với Thiên mã, như vậy ắt sẽ gặp tai họa, nếu có Dương nhẫn chiếu đến thì Lộc tồn mất đi trợ lực. Cung Mệnh mà có Địa không, Địa kiếp thì lục thân không được nhờ cậy. Trong cung Mệnh mà có hóa quyền, hóa lộc thì rất tốt, hoặc có Thiên khôi hay Thiên việt thì ắt sẽ là bậc chính nhân quân tử. Cung Mệnh có Dương nhẫn hoặc là Hỏa tinh, Linh tinh là mệnh tiểu nhân. Hung tinh lại gặp hung tinh thì rất xấu, cát tinh gặp cát tinh chủ cát lợi. Chủ tinh mà mạnh, phụ tinh yếu thì một đòi bình an; chủ tinh yếu còn phụ tinh mạnh thì tai hung ập đến khó lường. Chủ tinh và phụ tinh bổ sung chế hóa lẫn nhau, khi hành hạn cung Mệnh, cung Thân đều có sao củng chiếu mới tốt. Cung Thân, cung Mệnh kỵ nhất là có sao Dương nhẫn, Đà la, Thất sát, gặp như vậy thì sẽ xảy ra tai họa thương tật. Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là có Tham lang, Phá quân, Cự môn, Liêm trinh, gặp như vậy thì ắt xảy ra họa hại. Cung Mệnh có Thiên khôi, hoặc Thiên việt, hoặc Văn xương, Văn khúc thì ắt được làm quan. Đại hạn, tiểu hạn gặp Tử vi, Thiên phủ sẽ phát tài. Yếu quyết của việc xem mệnh nữ tốt hay xấu trước tiên phải xem cung Phúc đức và cung Tài bạch, sau đó còn phải nghiên cứu xem cung Thiên di và các sao trong đại hạn, tiểu hạn như thế nào, như vậy sẽ biết được cát hung. Đại hạn, tiểu hạn mà có cát tinh thì không phải lo lắng chuyện tiền bạc, hơn nữa ra ngoài làm việc đều được cát lợi. Mệnh mà ở chỗ hãm nhược thì một đời làm việc gặp khó khăn, có Liêm trinh, Lộc tồn tại cung Thân thì mệnh nữ sẽ là người trinh tiết hiền thục. Có Thiên đồng, Thiên lương tại cung Mệnh, mệnh nam sẽ là bậc chính nhân quân tử. Trong cung Mệnh mà có hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc thì cần phải xem các sao này ở miếu vượng hay là lạc hãm. Nếu luận về mệnh trẻ nhỏ thì cần phải suy xét thật kỹ đại hạn và tiểu hạn khi nhỏ của họ. Trẻ nhỏ cung Mệnh mà tọa ở chỗ hung thì khó sống qua 5 tuổi. Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi đồng cung, cho dù không phải là người học hành thì lớn lên cũng rất giỏi giang đáng yêu. Dương nhẫn mà gặp Địa không, Địa kiếp hoặc sát tinh thì người đó học nhiều mà ít thành. Sao Thái tuế gặp Quan phù thì người đó vui mừng vì thoát khỏi họa lao tù. Nghiên cứu về mệnh lý cần phải nắm vững sự biến hóa của các sao. Lý luận của Tử vi đẩu số rất thâm áo cho nền cần phải suy xét nghiên cứu thật kỹ sự hưng suy của cách cục. Sao Tử vi nếu đồng cung với sát tinh thì người đó nên hiến thân cho tôn giáo. Dương nhẫn, Đà la mà đồng cung với ác tinh thì khó mà được thành tựu. Cung Mệnh có Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh thì tất sẽ được phú quý, hơn nữa lại là người giỏi về mưu tính; nhưng nếu có Dương nhẫn, Địa không, Địa kiếp đồng cung thì ngược lại lại trở thành người không có chí khí cao xa, mà hơn nữa còn cô độc bần hàn. Các sao trong đại hạn, tiểu hạn mà miếu vượng thì vận tuy yếu nhưng lại không yếu. Mệnh ở chỗ cát địa, tuy hung nhưng cùng không đến nỗi quá xấu. Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là gặp Địa kiếp, Địa không và Tiệt lộ. Ở Mão địa, Dậu địa mà có Địa kiếp, Địa không sẽ là người thông minh phát phúc. Cung Thân, cung Mệnh có Tử vi, Thiên phủ chủ về cuộc sống đầy đủ. Thân chủ, Mệnh chủ mà gặp Không, Kiếp thì cuộc sống thiếu thốn. Cung Mệnh hoặc nhị hạn mà có Dương nhẫn thì mưu sự không thành. Cung Thân hoặc nhị hạn mà có Thiên tướng, Tả phù thì làm việc có thành tựu. Người mà có hóa quyền, hóa khoa, hóa lộc củng chiếu cung Thân, cung Mệnh thì tất sẽ được vinh hoa phú quý. Người mà có Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Linh tinh ở cung Mệnh thì làm nghề tự do. Người có Văn xương, Văn khúc tại cung Thân hoặc cung Mệnh thì lòng dạ rộng rãi, tính tình hào phóng. Người có Dương nhẫn, Đà la hãm địa tọa Mệnh sẽ là người gian trá hư phù. Thiên cơ thiên lương thêm Dương nhẫn đồng cung sẽ sớm hình khắc với cha mẹ vợ con, để đến nỗi cuối đời cô quạnh một mình. Tham lang, Vũ khúc hoặc Tham lang, Liêm trinh đồng cung thì tuổi trẻ gian kho nhưng cuối đòi được hưởng phúc. Những điều này đều là sự vi diệu của Tử vi đẩu số, người nghiên cứu cần phải ghi nhớ cho thật kỹ.

(Lập và giải tử vi đẩu số – Phương pháp đoán mệnh – Phan Tử Ngư)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button