Tử vi

Thập bát phi tinh sách thiên – tử vi đẩu số toàn tập

Đây là cuốn sách gần như cốt lõi của Tử vi Nam phái chính tông.

Trích một bài “Tử vi tổng quát ca” để mọi người tham khảo. Ai nghiên cứu Tử vi Nam phái thì tìm đọc nhé. Muốn hiểu rõ thì hãy đọc kỹ từng chữ, suy ngẫm và tìm ra phương thức cho hết thảy. Tuy chỉ vài chữ nhưng ý nghĩa sâu xa lắm.

TỬ VI TỔNG QUÁT CA

Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh

Tác vi đẩu số thôi nhân mệnh

Bất y ngũ tinh yếu quá tiết

Chỉ luận niên nguyệt nhật thời sinh

(Hi Di ngẩng xem sao trên trời, làm ra Đẩu số để đoán nhân mệnh, Không giống Ngũ tinh thuật phải đòi hỏi tiết khí, chỉ cần dựa vào Năm-tháng-ngày-giờ sinh)

Tiên an Thân Mệnh thứ định cục

Tử vi – Thiên phủ bố chư tinh

Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi-Việt

Thiên Mã, Thiên Lộc đới sát thần

(Trước là an Thân – Mệnh, rồi định Cục số, an Tử vi – Thiên phủ rồi bày bố các sao, Kiếp-Không-Thương-Sứ-Thiên khôi-Thiên Việt, Thiên mã-Thiên lộc (Lộc tồn) kèm theo các thần sát khác)

Tiền Dương, hậu Đà tịnh Tứ Hóa

Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hỏa, Linh, Hình

Nhị chủ đại hạn tịnh tiểu hạn

Lưu niên hậu phương an Đẩu quân

(an phía trước Lộc là Kình Dương, sau Lộc là Đà La, cùng với Tứ Hóa, Hồng Loan-Thiên hỷ, Hỏa tinh – Linh tinh – Thiên hình. An Thân chủ – Mệnh chủ cùng Đại hạn và tiểu hạn. Sau phương vị Lưu niên thì an Đẩu quân)

Thập nhị cung phân tường Miếu – Hãm

Lưu niên họa phúc thử trung phân

Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ vi Tứ hóa

Duy hữu Kỵ tinh tối khả tăng

(Phân rõ Miếu hãm trên 12 cung. Họa phúc hàng năm cũng ở trong này mà phân chia ra. Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ là Tứ Hóa. Trong đó chỉ có Kỵ tinh (hóa kỵ) sợ nhất)

Đại-Tiểu hạn nhược phùng Kỵ

Vị miễn kỳ nhân hữu tai truân

Khoa danh, khoa giáp khán Khôi, Việt

Văn Xương, Văn Khúc chủ công danh

(Đại hạn, tiểu hạn nếu gặp Kỵ, Người ta khó tránh khỏi tai ách, truân chuyên. Việc về Khoa danh, Khoa giáp (thi cử) thì xem ở Khôi, Việt, Văn Xương, Văn Khúc là các sao chủ về công danh)

Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt chư tinh tụ

Phú quý giai tòng thiên thượng sinh

Dương, Đà, Hỏa, Linh vi Tứ sát

Xung Mệnh, xung Hạn bất vi vinh

(Nếu các sao Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt mà hội tụ (mệnh, thân, hạn), thì phú quý đều theo trời sinh sẵn rồi. Dương, Đà, Hỏa, Linh là Tứ sát, nếu xung mệnh, xung hạn thì không thể vinh hiển)

Sát, Phá, Liêm, Tham, câu tác ác

Miếu nhi bất hãm, chưởng tam quân

Khôi, Việt, Xương gia vô phất ứng

Nhược hoàn mệnh, hạn hãm vưu sân

(Sát, Phá, Liêm, Tham đều làm ác. Miếu mà không hãm thì có thể nắm giữ ba quân (binh quyền). Gia thêm Khôi, Việt, Văn Xương thì chẳng những không ứng (không có quyền hành). Mà nếu Mệnh, Hạn gặp phải lại bị hãm thì rất giận (vì không toại ý))

Thượng hữu lưu Dương Đà đẳng tú

Thử hựu Thái tuế tòng lưu hành

Cánh gia Tang, Điếu, Bạch hổ, Tấu

Thương, Sứ khả dĩ đoán tử sinh

(Trên đó còn có Lưu Dương, Đà cùng các sao lưu nữa. Các sao này lại theo Thái tuế lưu hành (an các sao lưu theo thái tuế). Thêm Tang, Điếu, Bạch hổ, Tấu thư, Thương, Sứ có thể đoán được việc tử – sinh)

Nhược hữu đồng niên, đồng nguyệt khán

Họa phúc hà hữu bất chuẩn bình

Bất chuẩn đãn y tam thời đoán

Thời hữu soa trì bất khả bằng

(Nếu như khi xem cho người cùng năm, cùng tháng. Mà họa phúc cớ sao lại chẳng giống nhau? Không đúng thì có thể dựa theo ba giờ (giờ trước và sau giờ sinh) mà đoán , vì giờ có chênh lệch sai – muộn không thể chỉ dựa vào đó được (ý nói cần phải chuẩn xác lại giờ sinh bằng cách kiểm thêm 2 giờ trước sau nữa))

Thử thị Hi Di Chân khẩu quyết

Học giả tu đương tử tế tinh

Hậu cụ tinh đồ tịnh luận đoán

Kỳ trung phẫu quyết tối phân minh

Nhược năng y thử thôi nhân mệnh

Hà dụng cầm đường giảng ngũ tinh.

(Đây là chân khẩu quyết của Hi Di. Học giả cần phải hết sức kỹ lưỡng. Để sau mà an tinh bàn và luận đoán. Trong đó đã mổ xẻ rất rõ ràng. Nếu như đã dùng thuật này mà đoán nhân mệnh, thì sao còn phải lên cầm đường (nhà dạy học) để nghe giảng ngũ tinh làm gì nữa)

(Tác giả: Nguyễn Trọng Tuệ)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Bạn đang xem: Thập bát phi tinh sách thiên – tử vi đẩu số toàn tập

Xem thêm Thập bát phi tinh sách thiên - tử vi đẩu số toàn tập

Đây là cuốn sách gần như cốt lõi của Tử vi Nam phái chính tông.

Trích một bài “Tử vi tổng quát ca” để mọi người tham khảo. Ai nghiên cứu Tử vi Nam phái thì tìm đọc nhé. Muốn hiểu rõ thì hãy đọc kỹ từng chữ, suy ngẫm và tìm ra phương thức cho hết thảy. Tuy chỉ vài chữ nhưng ý nghĩa sâu xa lắm.

TỬ VI TỔNG QUÁT CA

Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh

Tác vi đẩu số thôi nhân mệnh

Bất y ngũ tinh yếu quá tiết

Chỉ luận niên nguyệt nhật thời sinh

(Hi Di ngẩng xem sao trên trời, làm ra Đẩu số để đoán nhân mệnh, Không giống Ngũ tinh thuật phải đòi hỏi tiết khí, chỉ cần dựa vào Năm-tháng-ngày-giờ sinh)

Tiên an Thân Mệnh thứ định cục

Tử vi – Thiên phủ bố chư tinh

Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi-Việt

Thiên Mã, Thiên Lộc đới sát thần

(Trước là an Thân – Mệnh, rồi định Cục số, an Tử vi – Thiên phủ rồi bày bố các sao, Kiếp-Không-Thương-Sứ-Thiên khôi-Thiên Việt, Thiên mã-Thiên lộc (Lộc tồn) kèm theo các thần sát khác)

Tiền Dương, hậu Đà tịnh Tứ Hóa

Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hỏa, Linh, Hình

Nhị chủ đại hạn tịnh tiểu hạn

Lưu niên hậu phương an Đẩu quân

(an phía trước Lộc là Kình Dương, sau Lộc là Đà La, cùng với Tứ Hóa, Hồng Loan-Thiên hỷ, Hỏa tinh – Linh tinh – Thiên hình. An Thân chủ – Mệnh chủ cùng Đại hạn và tiểu hạn. Sau phương vị Lưu niên thì an Đẩu quân)

Thập nhị cung phân tường Miếu – Hãm

Lưu niên họa phúc thử trung phân

Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ vi Tứ hóa

Duy hữu Kỵ tinh tối khả tăng

(Phân rõ Miếu hãm trên 12 cung. Họa phúc hàng năm cũng ở trong này mà phân chia ra. Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ là Tứ Hóa. Trong đó chỉ có Kỵ tinh (hóa kỵ) sợ nhất)

Đại-Tiểu hạn nhược phùng Kỵ

Vị miễn kỳ nhân hữu tai truân

Khoa danh, khoa giáp khán Khôi, Việt

Văn Xương, Văn Khúc chủ công danh

(Đại hạn, tiểu hạn nếu gặp Kỵ, Người ta khó tránh khỏi tai ách, truân chuyên. Việc về Khoa danh, Khoa giáp (thi cử) thì xem ở Khôi, Việt, Văn Xương, Văn Khúc là các sao chủ về công danh)

Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt chư tinh tụ

Phú quý giai tòng thiên thượng sinh

Dương, Đà, Hỏa, Linh vi Tứ sát

Xung Mệnh, xung Hạn bất vi vinh

(Nếu các sao Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt mà hội tụ (mệnh, thân, hạn), thì phú quý đều theo trời sinh sẵn rồi. Dương, Đà, Hỏa, Linh là Tứ sát, nếu xung mệnh, xung hạn thì không thể vinh hiển)

Sát, Phá, Liêm, Tham, câu tác ác

Miếu nhi bất hãm, chưởng tam quân

Khôi, Việt, Xương gia vô phất ứng

Nhược hoàn mệnh, hạn hãm vưu sân

(Sát, Phá, Liêm, Tham đều làm ác. Miếu mà không hãm thì có thể nắm giữ ba quân (binh quyền). Gia thêm Khôi, Việt, Văn Xương thì chẳng những không ứng (không có quyền hành). Mà nếu Mệnh, Hạn gặp phải lại bị hãm thì rất giận (vì không toại ý))

Thượng hữu lưu Dương Đà đẳng tú

Thử hựu Thái tuế tòng lưu hành

Cánh gia Tang, Điếu, Bạch hổ, Tấu

Thương, Sứ khả dĩ đoán tử sinh

(Trên đó còn có Lưu Dương, Đà cùng các sao lưu nữa. Các sao này lại theo Thái tuế lưu hành (an các sao lưu theo thái tuế). Thêm Tang, Điếu, Bạch hổ, Tấu thư, Thương, Sứ có thể đoán được việc tử – sinh)

Nhược hữu đồng niên, đồng nguyệt khán

Họa phúc hà hữu bất chuẩn bình

Bất chuẩn đãn y tam thời đoán

Thời hữu soa trì bất khả bằng

(Nếu như khi xem cho người cùng năm, cùng tháng. Mà họa phúc cớ sao lại chẳng giống nhau? Không đúng thì có thể dựa theo ba giờ (giờ trước và sau giờ sinh) mà đoán , vì giờ có chênh lệch sai – muộn không thể chỉ dựa vào đó được (ý nói cần phải chuẩn xác lại giờ sinh bằng cách kiểm thêm 2 giờ trước sau nữa))

Thử thị Hi Di Chân khẩu quyết

Học giả tu đương tử tế tinh

Hậu cụ tinh đồ tịnh luận đoán

Kỳ trung phẫu quyết tối phân minh

Nhược năng y thử thôi nhân mệnh

Hà dụng cầm đường giảng ngũ tinh.

(Đây là chân khẩu quyết của Hi Di. Học giả cần phải hết sức kỹ lưỡng. Để sau mà an tinh bàn và luận đoán. Trong đó đã mổ xẻ rất rõ ràng. Nếu như đã dùng thuật này mà đoán nhân mệnh, thì sao còn phải lên cầm đường (nhà dạy học) để nghe giảng ngũ tinh làm gì nữa)

(Tác giả: Nguyễn Trọng Tuệ)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button