Tử vi

Tiết 2: Đại cương về luận đoán phân tích đẩu số.

Sau khi hoàn thành công việc sắp đặt lá số, bước tiếp theo chính là việc tiến hành phân tích suy diễn mệnh vận một cách toàn diện về cuộc đời và lục thân của đương số. Trước khi phân tích suy diễn, bạn còn phải

nắm rõ và thành thạo nội dung từ chương 3 đến chương 5. Tử Vi đẩu số được hình thành bởi cung và sao, cung vị ví như nơi ở, hoàn cảnh xã hội, vị trí địa lý; Sao ví như người, nhập vào cung kết hợp với các tổ hợp sao khác nhau, biểu hiện lên xu thế số phận đời người và tình trạng lục thân.

Phương pháp cơ bản của phân tích suy luận Tử Vi đẩu số là: Lấy cung vị định sự việc, dùng tinh diệu để đoán cát hung. Cung vị là mười hai cung, tức: mệnh, bào, phu, tử, tài, tật, di, nô, quan, điền, phúc, phụ, xin xem rõ ở chương năm.

Bạn đang xem: Tiết 2: Đại cương về luận đoán phân tích đẩu số.

Về cơ bản, các bước phân tích cơ bản như sau:

1. Sau khi hoàn thành an mệnh bàn, đầu tiên phải xác định được yêu cầu luận đoán là gì, sau đó mới định được cung vị trọng điểm của sự việc; Ví dụ như yêu cầu luận đoán về số phận bản thân, thì ta lấy cung mệnh là chính cung; Nếu yêu cầu luận đoán về tình trạng anh em thì lại lấy cung huynh đệ làm chính cung; Nếu yêu cầu luận đoán phối ngẫu và tình trạng luyến ái hôn nhân, lại lấy cung phu thê là chính cung;…

Nếu cần đoán toàn bộ mệnh bàn, thì phải phân tích cả mười hai cung.

2. Sau khi lựa chọn được cung vị trọng điểm, tiến hành phân tích tình trạng cát hung tiên thiên, dựa vào tính của cung và sao kết hợp với các tổ hợp liên quan.

3. Sau cùng là phân tích hậu thiên vận số, kết hợp với mệnh số tiên thiên mà đưa ra thời gian ứng nghiệm sự kiện.

Trong Tử Vi đẩu số, mỗi một cung vị đều có tam phương tứ chính, các tinh diệu ở đó hình thành nên các tổ hợp khác nhau, nhưng quan hệ rất mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau, do đó, luận mệnh cực kì chú trọng vào các cung ở tam phương tứ chính, khi phân tích phải liên kết chặt chẽ.

Luận đoán về số phận đương số, lấy cung mệnh thiên bàn làm trụ cột, khán tình trạng miếu vượng hãm của chính tinh, khán thế đứng ở cung vị đó là sinh hay khắc, vượng hay suy; Tiếp đó xem các phụ tinh đồng cung gây ra ảnh hưởng bên trong là gì, xem chúng là cát tinh hay hung tinh, là trợ lực hay kìm nén chính tinh, từ đó đưa ra kết luận tổng quan là tốt hay xấu; Tiếp đó xem tam phương tứ chính, tả hữu lân cung, đây là các lực lượng ảnh hưởng bên ngoài, đem nội ngoại lực tác động đó suy đoán là cung chủ sự (ở đây đang nói về mệnh cung)mạnh hay yếu. Từ đó suy đoán ra sự cát hung của định số tiên tiên về bản bản thân hoặc nhân sự của cung chủ quản.

Tiếp đó khán vận hạn cát hung tìm thời gian ứng số, nếu gặp vận tốt thì định số khởi động và làm tăng cường tác dụng, định số cát thì ứng với cát, hung thì giảm hung; Nếu vận hạn xấu thì đối với định số lại gây ra ức chế hoặc làm giảm bớt tác dụng, định số cát thì giảm cát, nếu hung thì ứng hung. Luận các cung khác cũng tương tự, phải chọn được cung trọng điểm.

Trong luận mệnh, chủ yếu chia làm hai bộ phận lớn là tiên thiên mệnh số và hậu thiên vận thế. Trước hết là tiến hành phân tích thể tiên thiên, lấy cung mệnh làm trọng điểm, xem thêm tam phương tứ chính (di, tài, quan, tử), sau đó tiến hành tổng hợp lại các phán đoán và đưa ra kết luận. Mệnh, di, tài quan, là bốn cung quyết định cuộc sống được hay mất, vinh quang hay khổ nhục; Mệnh, thân, tật, phúc là bốn cung quyết định cuộc sống cát hay hung, họa hay phúc.

Sau khi hoàn thành phân tích thiên thiên mệnh số, lại tiến hành xem về hậu thiên vận thế. Vận thiên hậu thế phân ra làm đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời, đây là đại biểu cho các thời kì tao ngộ, kết hợp với tiên thiên số đưa ra ứng nghiệm về thời gian. Đại hạn quản mười năm họa phúc, tiểu hạn lưu niên quản một năm vinh quang sướng khổ, lưu nguyệt chủ một tháng vượng suy, lưu nhật chủ một ngày được mất, lưu thời chỉ một phút cát hung!

Đẩu số thì tinh diệu rất nhiều, sao bay đầy trời, chính là tượng cho nhân gian này muôn màu muôn vẻ, khiến cho người học không biết lấy đâu làm trọng tâm luận đoán, kì thực để nắm vững yếu lĩnh luận mệnh thật không quá phức tạp. Muốn học tốt đẩu số, nhất định phải nẵm vững tính chất của tinh diệu, đây là điều tối quan trọng. Đầu tiên phải rõ là các sao có phân cấp phân loại, mười bốn chính tinh ví như chủ tướng, phụ tá tinh như các tướng lĩnh, phó tinh là các quan quân, tạp diệu như binh sĩ. Trong phân tích, lấy tổ hợp cách cục của mười bốn chính tinh làm cơ sở, khởi bản chất tác dụng, các sao phụ tá chỉ phụ trợ và gây nên ảnh hưởng cho chính tinh, khán rằng là làm tăng lên hay giảm bớt tác dụng của chính tinh, hoặc là chuyển hóa tác dụng (chủ yếu chỉ tứ hóa có tác dụng, có thể là ác chuyển thành thiện, hoặc thiện chuyển thành ác). Khán phó tinh tạp diệu cũng như vậy, nhưng lực tác dụng, ảnh hưởng yếu hơn. Tổng quan rằng, chính tinh khán chuyện chủ thể, khung xương của sự việc; Phó, phụ tinh khán chi tiết của sự việc; Sau khi đã định được cát hung của cung vị thì mới luận chi tiết đến các sao phụ. Nói chung, khi phân tích thì chủ yếu phân rõ chủ tinh – phụ tinh, Sau đó, trong khi phân tích mệnh cục gốc, điểm quan trọng là xem 32 sao cấp 1, phó phụ tinh thì dựa vào trình độ của người luận, trình độ cao có thể đem toàn bộ xem xét, trình độ thấp thậm chí không cần quan tâm đến nó; Tuy nhiên ở phân tích hành vận thì lại nhất định phải xét đến các phó phụ tinh.

Tinh diệu phân nam bắc đẩu, gọi là đẩu phân. Xét cương nhu mà nói, sao Nam đẩu tính ôn nhu mà nhạy bén, sao Bắc đẩu thì kiên cường nhưng lại thiếu suy nghĩ; Xét tác dụng mà nói, sao Bắc đẩu tác dụng sớm hơn, ứng với tính nhanh, trước dễ sau khó, sao Nam đẩu tác dụng muộn hơn, ứng với sự chậm, trước khó sau dễ. Trong đại hạn, sao Bắc đẩu ứng với năm năm trước, Nam đẩu ứng năm năm sau. Tiểu hạn, lưu niên, Bắc đẩu ứng nửa năm trước, Nam đẩu sáu tháng cuối năm. Lưu nguyệt, nhật, thời cũng tương tự. Sao Nam đẩu chủ sinh (sinh sôi, phát triển), sao Bắc đẩu chủ tử (tử khí, đấu tranh).

Tinh diệu có phân âm dương. Dương tính đại diện tích cực, thiên, nam, phu, thượng, tiến, quang minh, chính diện, ngoại tại, cương, nhiệt, lớn, hữu, sinh, số dương, cúi xuống, ban ngày. Âm tính đại biểu tiêu cực, địa, nữ, thê, hạ, lùi, hắc ám, phản diện, nội tại, nhu, tĩnh, lạnh, nhỏ, vô, tử, số âm, ngửa lên, ban đêm

Tinh diệu có thuộc tính ngũ hành. Nắm vững tính chất ngũ hành của sao, mới có thể thông suốt tính chất của sao và nắm được tình hình sinh khắc chế hóa của cung đối với sao.

Tác dụng của tinh diệu, ở mệnh cục và hành hạn là có sự khác biệt, ở mệnh cục ban đầu có tác dụng quyết định bản chất, mà ở vận hạn thì chỉ khởi tế ngộ, có tác dụng biến hóa bản chất. Ví dụ, Tử Vi là đế vương, ở bản mệnh cần phải đủ quân thần vây quanh, bản chất cao quý mà chuyên quyền độc đoán; Tuy nhiên ở vận hạn thì không nhất định phải đủ bộ quân thần, cũng không phải là có tính chuyên quyền độc đoán, ở đây chỉ biểu hiện người đó vào thời kì có tài cán, nếu thêm đủ các cát tinh phò tá thì biểu hiện đây là thời kì có năng lực xử sự mạnh mẽ, bên cạnh đó cũng có tính chất cao quý, thượng hạng, ví như làm những việc cấp cao, gặp những người cao quý. Lại nói nếu Thiên Cơ bản chất là tham mưu, thông minh cơ biến, ở mệnh phải thông minh tài trí, nhưng nếu gặp hạn Thiên Cơ thì không thể nói tới vận đó người đó thông minh ra, mà là gặp thời cơ, gặp biến hóa, dựa vào khả năng ứng biến, nếu gặp các sao quý nhân mà có được sự trợ giúp khiến cho thay đổi tốt lên.

Nếu muốn luận đoán Tử Vi chính xác, ta cần phân rõ tinh diệu bay vào cung là cát tinh hay hung tinh, trong sách nói về tính chất của sao cát hung thiện ác tức là chỉ nói đến bản chất của chúng khi đứng một mình mà thôi. Mà vì rằng, cát hung họa phúc chỉ mang tính tương đối, nên phải dựa vào tình huống cụ thể thực tế mới định được. Mấu chốt ở đây là khán tính miếu vượng hãm của sao, tình trạng sinh khắc so với cung nó rơi vào, đây là điểm trọng yếu hơn là khán sao này sao kia ở trong cung phối hợp hay ức chế nhau. Tính cát hung có sự liên hệ mật thiết với sự việc, cũng liên hệ mật thiết với tinh diệu tác dụng. Ví dụ Vũ Khúc là tài tinh, luận về tài vận thì cát, nhưng luận về bài vở, bài tập thì chưa chắc đã tốt; Ví dụ Bạch Hổ là hung tinh, nhưng nếu mệnh bác sĩ và quân nhân có dược nó thì lại cát (nhưng nếu quá nhiều hung tinh thì vẫn không được tốt). Giống như là các chính tinh nếu đã miếu vượng còn được gia hội lục cát hoặc được cát hóa, ví như dệt hoa trên gấm, hổ mọc thêm cánh… còn nếu các chính tinh hãm địa gia hội lục cát hoặc được hóa cát thì có ý như trong cơn khó khăn được cứu giúp.

Cát tinh, đồng cung là tốt nhất, lân cung tương giáp là tốt thứ nhì, tốt thứ ba là tam hợp, cuối cùng là đối cung. Hung tinh, đồng cung và giáp cung là hung nhất, đối cung thứ nhì, tam phương thứ ba.

Mỗi một sao về cơ bản đều có tính chất và biểu ý đặc thù, về tính chất thì nó rơi vào cung nào cũng đều giống nhau, nhưng về biểu ý thì tùy cung vị khác nhau mà nó biểu hiện các ý khác nhau. Ví dụ như sao Thiên Cơ, cơ bản tính chất của nó là linh hoạt, đa mưu nếu rơi vào mệnh biểu hiện là thông minh, cơ linh, nhưng nếu rơi vào cung phu thê thì nói lên rằng tình cảm hay thay đổi, nếu rơi vào quan lộc chủ sự nghiệp nhiều biến động. Trong cùng một cung vị, biểu ý của sao cũng tùy điều kiện khách quan mà cải biến thay đổi, chủ yếu: Một là khi rơi vào cung khác nhau sẽ có vượng suy biến hóa xảy ra, hai là tổ hợp tinh diệu bay tới (tổ hợp cách cục) ảnh hưởng, ba là ảnh hưởng của tứ hóa, khi luận đoán phải phối hợp ba yếu tố này, phải khán đủ các cung thủ-chiếu-giáp-đối và tứ hóa.

Điểm chủ yếu trong luận mệnh đẩu số, trước là xem sự tốt xấu của mệnh cung và tổ hợp tình trạng của sao ở tam phương để xác định có hay không đến phẩm cách của sao, sau mới xem đến sự vượng suy sinh khắc của mệnh cung để xác định có hay không đến phẩm cách của số (phẩm cách của sao trọng ở phẩm cách của số), sau đó định ra sự cao thấp của cách cục mệnh số tiên thiên. Tiếp tục xem đến sự tốt xấu của thân cung và chính tinh cung mệnh, chính tinh cung thân, để xác định mức độ phú quý. Sau đó xem sao Tử Vi nhập cường cung hay nhàn cung, nhập cường cung thì tăng quý khí, nhập nhàn cung thì quý khí giảm đi, cuộc

sống thêm phần vất vả cực nhọc.

Khán sinh khắc vượng suy, trước là khán ngũ hành cung vị cùng ngũ hành của sao là gì, lại khán cung và sao, sao và sao, xem xét hết các tình trạng sinh khắc chế hóa của chúng. Chính tinh, cát tinh thì nên được cung sinh (cung sinh sao là phúc, sao sinh cung thì nhụt chí không tính là tốt, cũng không tính là dở), Hung tinh cần được cung khắc chế, nhưng những sao âm thủy nhập cung Ngọ, những sao dương thủy nhập cung Tị là là tượng thủy hỏa cứu giúp nhau mà trở thành cát; Chính tinh nên được phụ tinh sinh cho (nếu được sinh dù hãm cũng không luận là hãm), sát tinh nên bị khắc. Tiếp đến là khán cung vượng suy, mệnh, thân tốt nhất nên ở Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, kị ở Tử, Suy, Bệnh, Mộ, Mộc Dục, vô chính diệu.

Trong luận mệnh đẩu số, tính miếu vượng hãm rất trọng yếu. Nói vậy tức là, phàm các sao miếu vượng đều có thể phát huy đầy đủ tác dụng về một mặt tốt nào đó, cát tinh lại càng cát, hung tinh thì không hung, phàm là các sao lạc hãm thì hiển thị đầy đủ các tác dụng xấu, cát tinh không cát, hung tinh càng hung. Thiện tinh phản phúc đổi thành ác, ác tinh miếu vượng cũng có thể thiện.

Sự phối hợp giữa các tinh diệu rất trọng yếu. Nếu phối hợp tốt, hung tinh có thể cát hóa, nếu phối hợp không tốt cát tinh cũng không có tác dụng. Cái gọi là phối hợp tốt, là khi tính chất của sao điều hòa, kìm nén được, âm dương cân đối thì tốt. Ví dụ Thất sát biểu hiện hung tàn, nếu cùng Tử Vi thủ chiếu, thì có thể biến đổi thành vua có tướng giỏi. Lại như, Kình Dương là hung ác, nếu gặp Thiên Đồng ở Ngọ thủ mệnh, thì thành cách “mã đầu đới tiễn”, là mệnh đại tướng. Xét sự phối hợp giữa sao và sao, thấy rằng; Nếu cát tinh hội cát tinh mà lại còn tương hỗ, tương sinh thì cố nhiên là toàn bộ tốt đẹp; Nếu tương khắc thì không đầy đủ tốt đẹp nhưng cũng không phải là xấu; Nếu cát tinh ngộ hung tinh tương hỗ, cát hung hỗn tạp, chủ nhiều loạn mà không cát (Nếu có thể chế khắc được hung tinh thì lại luận khác) hoặc cũng cát cũng hung. Tổng quan thấy mệnh bàn mười hai cung, cứ thấy tứ sát tinh, không bàn vượng suy, trước là lấy hình xung khắc hại mà luận; Phàm thấy cát tinh đồng cung tứ sát, bất kể cung nào, cung vị cũng bị xung (Sự xung này chỉ là ý xung xấu hoặc xung động); sát tinh không được tụ họp, hung thần nếu tụ chung một chỗ, thì ngưu tầm ngữu, mã tầm mã, càng thêm hung hiểm. Sau khi định được cách cục cát hung, thì việc luận quan hệ tổng quát giữa các sao là rất trọng yếu.

Các sát tinh mang tính phá hoại, nhưng bên cạnh đó cũng mang lại năng lực kích phát. Sát tinh biểu hiện ra sự tích cực, hăng hái, nhiệt tình, cách tân, phấn đấu, gian khó, vất vả, cực nhọc. Khi miếu vượng mà lại có cát tinh đồng cung hoặc có chế hóa thì dễ đạt được hoạnh phát về công danh, hiển quý dương danh, nhưng phải luận là có được thành tựu do vất vả cực nhọc mà nên. Nếu cung mệnh toàn các sao âm nhu thì thái độ làm người của đương số quá nhu nhược khó làm nên chuyện, nếu có sát tinh thì có thể hiểu họ có khí chất cương cường, nếu lại gặp cát tinh sinh vượng, một chút sát tinh đó ngược lại đưa đến lực kích phát vừa có chí tiến thủ vừa tạo ra tác dụng bảo tiêu, phát huy năng lực sắc bén, dễ có được sự nghiệp thành công, người ta thường bảo,”Có bệnh mới là quý”\ chính là ý này. Ngoài ra, cung mệnh cư Thìn Tuất là đất Thiên La Địa Võng, ngoại trừ Thất Sát, Phá Quân, hoặc Nhật Nguyệt miếu vượng có năng lực mạnh – chính mình đột phá, thì các chính tinh còn lại đều cần một sát tinh đồng cung, là lực trợ giúp để phá thế La Võng, tạo lực kích phát để ta phấn đấu. Nếu sát tinh được chế phục cũng sẽ mang lại tác dụng tốt, phần nhiều là danh vọng võ quan. Kình Dương đồng cung thủ mệnh cũng không nhất định đáng sợ, như phía trên đã nói đến cách cục “mã đầu đới tiễn”, trái lại là có quyền thế, nhưng nếu rơi (Kình Dương rơi) vào cung di, lại không có khắc chế thì chẳng khác nào một đao trước mặt, ít nhiều cũng mang lực uy hiếp. Không nên vừa thấy hung sát tinh đã luận là bất lợi, nếu như nhiều cát tinh, sát tinh ít mà lại miếu vượng, tam phương tứ chính lại hội chiếu nhiều cát lợi, vẫn là cát tượng. Nếu như chính tinh hãm địa, ít cát tinh, ngộ thêm sát tinh, là bất ổn, nếu nhiều sát tinh thì đã hãm lại thêm hung. Chính vì thế: Nhiều cát tinh, phùng hung cũng cát; nhiều ác tinh, phùng cát cũng hung. Các sao có năng lực chế ngự sát tinh: Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Hóa Khoa, Hóa Quyền, nhưng đa phần phải miếu vượng thì mới có lực.

Mệnh – Thân mạnh, vận hạn xấu cũng có năng lực vượt qua, cho dù gặp ít sát tinh, chủ về trong hung hiểm được cứu giúp, đối với mệnh thân không hại. Tốt số, mệnh thân tốt, vận hạn tốt thì suốt đời vinh quang hiển đạt (ví dụ như mệnh – thân tọa đất Trường Sinh Đế Vượng, bản cung thì nhiều cát tinh miếu vượng, là mệnh – thân mạnh, lại có được cát lợi từ tam phương tứ chính, đó là tốt số). Mệnh suy, thân suy, hạn suy, suốt đời là kẻ ăn mày (Giả như mệnh thân rơi vào đất Tử Tuyệt không vong, bản cung lại hăm hung sát tinh hãm, tam phương tứ chính tả hữu lân cung lại gặp Không Kiếp Kị sát, mà gặp hạn lớn nhỏ lại lành ít dữ nhiều, đó là xấu số). Sinh nơi bại địa, phát cũng chỉ là hư ảo (cung mệnh ở đất Tử, cho dù có phát cũng không bền, chỉ là hư danh hư lợi mà thôi). Tuyệt xứ phùng sinh, có họa mà không bại (cung mệnh dù rơi đất Tử, nhưng rơi vào cung ngũ hành tương sinh, hoặc có cát tinh sinh phù, là có thể cứu chữa, không đến mức bị phá bại xuống dốc, hoặc có thể trước bại sau thành, ở trong khốn cùng gặp duyên chuyển biến).

Tốt, tốt đến mức nào? Cái này sẽ xem xét và cân đong đo đếm các sao thủ – chiếu cũng như cách cục của chúng, sau đó định cao thấp. Các sao có năng lực mạnh tổ hợp thành cách cục cao, là tốt ở mức cao, còn ngược lại thì thấp. Vậy sao nào thì mạnh? Tử Vi, Thiên Phủ là lớn nhất, tiếp đến là Thái Dương, Thái Âm, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, chín sao trên đa số mang ý phú quý phúc lộc của cát tinh, nếu lại hội Khoa Quyền Lộc Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt, thì năng lực càng cường đại. Liêm Trinh, Tham Lang, Cự Môn, Thất Sát, Phá Quân là một nhóm sao, một mặt mang ý nghĩa bất lương, miếu vượng thì khá, còn hãm thì bất lương, hội thêm sát thì càng hung. Nhưng nếu năm sao này phối hợp tốt, cấu thành cách cục phú quý thì năng lực cũng rất lớn. Trong đó Tử Sát, Tử Liêm, Vũ Sát, Vũ Tham, Liêm Phủ, Liêm Sát, Liêm Lương, Hỏa Tham, Linh Tham, Cự Cơ cùng thủ mệnh thân, đồng thời đóng nơi miếu vượng, lại hội chiếu với nhóm cát tinh Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu Khoa Quyền Lộc, là được phúc lớn.

Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ phúc thọ, Nhật Nguyệt Tả Hữu chủ phú quý, Vũ Phá thì tài hoa xuất chúng, Tham Liêm hãm thì nhiều cái xấu, Xương Khúc nhập mệnh chủ khoa danh, Lộc Tồn ở đâu cũng tốt, Cự Môn hóa cát cũng phú quý, Khôi Việt phù là chủ phát đạt, suốt đời cận quý có công danh, tối kỵ gặp Không Kiếp nhập.

Phàm các sao cương liệt đều mang tính cô khắc, nhập mệnh và lục thân bất lợi, nhất là trường hợp nữ mệnh phi Hóa Kỵ nhập cung phu thê là rất xấu.

Cung vô chính diệu: mượn tất cả các sao ở đối cung để luận (tính miếu vượng hãm thì giữ nguyên khi nó ở cung đối), do bản thân mềm yếu, phải mượn lực từ người khác, cho nên cát hung đều bị suy giảm, ví dụ như tài bạch vô chính diệu, thì nên làm công ăn lương. Tối kỵ gặp bản cung có sát, cho dù đối cung có cát cũng không hoàn mỹ, cung xung chiếu có Sát Kị tinh thì tính hung tăng gấp đôi. Chú ý, tam phương của bản cung không có chính tinh, giống nhau là phải mượn sao đối diện để luận các tổ hợp cát hung.

Phân tích tứ hóa là rất quan trọng. Khán tứ hóa, phàm tam cát nhập cung mệnh hoặc tam phương tứ chính là tăng cát lợi; phàm cứ thấy Hóa Kỵ nhập cung, là có nhiều cản trở, cát giảm, hung tăng. Sao miếu vượng Hóa Kỵ, tuy có cản trở, nhưng trải qua nỗ lực cuối cùng thành công; Chủ tinh hãm gặp Hóa Kỵ, thì tất là hung tượng. Hóa Kỵ đối trùng cung càng khó, sao trong cung cát thì còn đỡ, nếu sao hãm lại có sát, thì tất là hung tai. Cái này chỉ là tương đối, cụ thể muốn khán rõ phải kết hợp tổ hợp sao cùng tam phương tứ chính, nếu có tổ hợp tốt thì ngược lại có tác dụng thúc đẩy đương số.

Phàm chủ tinh hãm lại hội sát hội Kỵ xung cung là thất bại nhất, là đặc biệt; nếu tam phương tứ chính vừa phùng hãm, sát; thường là có tính chất hủy diệt tai nạn, gặp hạn năm trùng điệp đến cung đó tất xảy ra tai ương.

Các tiền bối tổng kết có vài câu khẩu quyết: Bản cung hung, rối loạn từ gốc; Đối cung hung, ví như một gậy đập vào đầu; Tam phương hung, hai bên đều có địch; Lân cung hung, lưỡng lân tướng lấn; Bản cung cùng tam phương tứ chính đều hung, bốn bề thọ địch.

Ý nghĩa của việc phận tích suy diễn: Trước là phân tích tính tình, tiếp theo là phân tích cung Phụ Mẫu kiêm luôn phân tích cung Điền Trạch xem bản thân xấu tốt thế nào, cần xác định giờ sinh một cách chính xác của người đó, và biết được vận thế sau này của người đó là thuộc loại phúc âm hay là loại bạch thủ thành gia, nếu loại bạch thủ xuất hiện liên tiếp mấy vận không tốt, dù Mệnh cung có tốt thì cũng khó cất đầu dậy được, sau đó phân tích Mệnh cung để định cách cục, tiếp theo phân tích cung Phúc Đức để xác định sự may của đương số, nếu Mệnh cung tốt, Phúc Đức cũng tốt, đương nhiên không có gì là không lợi cả, sự nghiệp suông sẻ, gia đình hạnh phúc; nếu cung Mệnh tốt, Phúc đước không tốt thì cần chú ý các mặt có hay không sự thiếu khuyết như gia đình, tinh thần hưởng thụ, sức khỏe, ở đây cần tiến thêm một bước trong việc xem xét cung Phu Thê và Tật Ách; nếu phân tích ra cung Phu Thê không được tốt, đó chính là vấn đề hôn nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống tinh thần, lại tiếp tục truy xét đến Đại hạn và Lưu niên, xem khi nào hôn nhân xuất hiện vấn đề.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Nhóm Thiên Hỏa Đồng Nhân biên dịch)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tiết 2: Đại cương về luận đoán phân tích đẩu số.

Sau khi hoàn thành công việc sắp đặt lá số, bước tiếp theo chính là việc tiến hành phân tích suy diễn mệnh vận một cách toàn diện về cuộc đời và lục thân của đương số. Trước khi phân tích suy diễn, bạn còn phải

nắm rõ và thành thạo nội dung từ chương 3 đến chương 5. Tử Vi đẩu số được hình thành bởi cung và sao, cung vị ví như nơi ở, hoàn cảnh xã hội, vị trí địa lý; Sao ví như người, nhập vào cung kết hợp với các tổ hợp sao khác nhau, biểu hiện lên xu thế số phận đời người và tình trạng lục thân.

Phương pháp cơ bản của phân tích suy luận Tử Vi đẩu số là: Lấy cung vị định sự việc, dùng tinh diệu để đoán cát hung. Cung vị là mười hai cung, tức: mệnh, bào, phu, tử, tài, tật, di, nô, quan, điền, phúc, phụ, xin xem rõ ở chương năm.

Về cơ bản, các bước phân tích cơ bản như sau:

1. Sau khi hoàn thành an mệnh bàn, đầu tiên phải xác định được yêu cầu luận đoán là gì, sau đó mới định được cung vị trọng điểm của sự việc; Ví dụ như yêu cầu luận đoán về số phận bản thân, thì ta lấy cung mệnh là chính cung; Nếu yêu cầu luận đoán về tình trạng anh em thì lại lấy cung huynh đệ làm chính cung; Nếu yêu cầu luận đoán phối ngẫu và tình trạng luyến ái hôn nhân, lại lấy cung phu thê là chính cung;…

Nếu cần đoán toàn bộ mệnh bàn, thì phải phân tích cả mười hai cung.

2. Sau khi lựa chọn được cung vị trọng điểm, tiến hành phân tích tình trạng cát hung tiên thiên, dựa vào tính của cung và sao kết hợp với các tổ hợp liên quan.

3. Sau cùng là phân tích hậu thiên vận số, kết hợp với mệnh số tiên thiên mà đưa ra thời gian ứng nghiệm sự kiện.

Trong Tử Vi đẩu số, mỗi một cung vị đều có tam phương tứ chính, các tinh diệu ở đó hình thành nên các tổ hợp khác nhau, nhưng quan hệ rất mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau, do đó, luận mệnh cực kì chú trọng vào các cung ở tam phương tứ chính, khi phân tích phải liên kết chặt chẽ.

Luận đoán về số phận đương số, lấy cung mệnh thiên bàn làm trụ cột, khán tình trạng miếu vượng hãm của chính tinh, khán thế đứng ở cung vị đó là sinh hay khắc, vượng hay suy; Tiếp đó xem các phụ tinh đồng cung gây ra ảnh hưởng bên trong là gì, xem chúng là cát tinh hay hung tinh, là trợ lực hay kìm nén chính tinh, từ đó đưa ra kết luận tổng quan là tốt hay xấu; Tiếp đó xem tam phương tứ chính, tả hữu lân cung, đây là các lực lượng ảnh hưởng bên ngoài, đem nội ngoại lực tác động đó suy đoán là cung chủ sự (ở đây đang nói về mệnh cung)mạnh hay yếu. Từ đó suy đoán ra sự cát hung của định số tiên tiên về bản bản thân hoặc nhân sự của cung chủ quản.

Tiếp đó khán vận hạn cát hung tìm thời gian ứng số, nếu gặp vận tốt thì định số khởi động và làm tăng cường tác dụng, định số cát thì ứng với cát, hung thì giảm hung; Nếu vận hạn xấu thì đối với định số lại gây ra ức chế hoặc làm giảm bớt tác dụng, định số cát thì giảm cát, nếu hung thì ứng hung. Luận các cung khác cũng tương tự, phải chọn được cung trọng điểm.

Trong luận mệnh, chủ yếu chia làm hai bộ phận lớn là tiên thiên mệnh số và hậu thiên vận thế. Trước hết là tiến hành phân tích thể tiên thiên, lấy cung mệnh làm trọng điểm, xem thêm tam phương tứ chính (di, tài, quan, tử), sau đó tiến hành tổng hợp lại các phán đoán và đưa ra kết luận. Mệnh, di, tài quan, là bốn cung quyết định cuộc sống được hay mất, vinh quang hay khổ nhục; Mệnh, thân, tật, phúc là bốn cung quyết định cuộc sống cát hay hung, họa hay phúc.

Sau khi hoàn thành phân tích thiên thiên mệnh số, lại tiến hành xem về hậu thiên vận thế. Vận thiên hậu thế phân ra làm đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời, đây là đại biểu cho các thời kì tao ngộ, kết hợp với tiên thiên số đưa ra ứng nghiệm về thời gian. Đại hạn quản mười năm họa phúc, tiểu hạn lưu niên quản một năm vinh quang sướng khổ, lưu nguyệt chủ một tháng vượng suy, lưu nhật chủ một ngày được mất, lưu thời chỉ một phút cát hung!

Đẩu số thì tinh diệu rất nhiều, sao bay đầy trời, chính là tượng cho nhân gian này muôn màu muôn vẻ, khiến cho người học không biết lấy đâu làm trọng tâm luận đoán, kì thực để nắm vững yếu lĩnh luận mệnh thật không quá phức tạp. Muốn học tốt đẩu số, nhất định phải nẵm vững tính chất của tinh diệu, đây là điều tối quan trọng. Đầu tiên phải rõ là các sao có phân cấp phân loại, mười bốn chính tinh ví như chủ tướng, phụ tá tinh như các tướng lĩnh, phó tinh là các quan quân, tạp diệu như binh sĩ. Trong phân tích, lấy tổ hợp cách cục của mười bốn chính tinh làm cơ sở, khởi bản chất tác dụng, các sao phụ tá chỉ phụ trợ và gây nên ảnh hưởng cho chính tinh, khán rằng là làm tăng lên hay giảm bớt tác dụng của chính tinh, hoặc là chuyển hóa tác dụng (chủ yếu chỉ tứ hóa có tác dụng, có thể là ác chuyển thành thiện, hoặc thiện chuyển thành ác). Khán phó tinh tạp diệu cũng như vậy, nhưng lực tác dụng, ảnh hưởng yếu hơn. Tổng quan rằng, chính tinh khán chuyện chủ thể, khung xương của sự việc; Phó, phụ tinh khán chi tiết của sự việc; Sau khi đã định được cát hung của cung vị thì mới luận chi tiết đến các sao phụ. Nói chung, khi phân tích thì chủ yếu phân rõ chủ tinh – phụ tinh, Sau đó, trong khi phân tích mệnh cục gốc, điểm quan trọng là xem 32 sao cấp 1, phó phụ tinh thì dựa vào trình độ của người luận, trình độ cao có thể đem toàn bộ xem xét, trình độ thấp thậm chí không cần quan tâm đến nó; Tuy nhiên ở phân tích hành vận thì lại nhất định phải xét đến các phó phụ tinh.

Tinh diệu phân nam bắc đẩu, gọi là đẩu phân. Xét cương nhu mà nói, sao Nam đẩu tính ôn nhu mà nhạy bén, sao Bắc đẩu thì kiên cường nhưng lại thiếu suy nghĩ; Xét tác dụng mà nói, sao Bắc đẩu tác dụng sớm hơn, ứng với tính nhanh, trước dễ sau khó, sao Nam đẩu tác dụng muộn hơn, ứng với sự chậm, trước khó sau dễ. Trong đại hạn, sao Bắc đẩu ứng với năm năm trước, Nam đẩu ứng năm năm sau. Tiểu hạn, lưu niên, Bắc đẩu ứng nửa năm trước, Nam đẩu sáu tháng cuối năm. Lưu nguyệt, nhật, thời cũng tương tự. Sao Nam đẩu chủ sinh (sinh sôi, phát triển), sao Bắc đẩu chủ tử (tử khí, đấu tranh).

Tinh diệu có phân âm dương. Dương tính đại diện tích cực, thiên, nam, phu, thượng, tiến, quang minh, chính diện, ngoại tại, cương, nhiệt, lớn, hữu, sinh, số dương, cúi xuống, ban ngày. Âm tính đại biểu tiêu cực, địa, nữ, thê, hạ, lùi, hắc ám, phản diện, nội tại, nhu, tĩnh, lạnh, nhỏ, vô, tử, số âm, ngửa lên, ban đêm

Tinh diệu có thuộc tính ngũ hành. Nắm vững tính chất ngũ hành của sao, mới có thể thông suốt tính chất của sao và nắm được tình hình sinh khắc chế hóa của cung đối với sao.

Tác dụng của tinh diệu, ở mệnh cục và hành hạn là có sự khác biệt, ở mệnh cục ban đầu có tác dụng quyết định bản chất, mà ở vận hạn thì chỉ khởi tế ngộ, có tác dụng biến hóa bản chất. Ví dụ, Tử Vi là đế vương, ở bản mệnh cần phải đủ quân thần vây quanh, bản chất cao quý mà chuyên quyền độc đoán; Tuy nhiên ở vận hạn thì không nhất định phải đủ bộ quân thần, cũng không phải là có tính chuyên quyền độc đoán, ở đây chỉ biểu hiện người đó vào thời kì có tài cán, nếu thêm đủ các cát tinh phò tá thì biểu hiện đây là thời kì có năng lực xử sự mạnh mẽ, bên cạnh đó cũng có tính chất cao quý, thượng hạng, ví như làm những việc cấp cao, gặp những người cao quý. Lại nói nếu Thiên Cơ bản chất là tham mưu, thông minh cơ biến, ở mệnh phải thông minh tài trí, nhưng nếu gặp hạn Thiên Cơ thì không thể nói tới vận đó người đó thông minh ra, mà là gặp thời cơ, gặp biến hóa, dựa vào khả năng ứng biến, nếu gặp các sao quý nhân mà có được sự trợ giúp khiến cho thay đổi tốt lên.

Nếu muốn luận đoán Tử Vi chính xác, ta cần phân rõ tinh diệu bay vào cung là cát tinh hay hung tinh, trong sách nói về tính chất của sao cát hung thiện ác tức là chỉ nói đến bản chất của chúng khi đứng một mình mà thôi. Mà vì rằng, cát hung họa phúc chỉ mang tính tương đối, nên phải dựa vào tình huống cụ thể thực tế mới định được. Mấu chốt ở đây là khán tính miếu vượng hãm của sao, tình trạng sinh khắc so với cung nó rơi vào, đây là điểm trọng yếu hơn là khán sao này sao kia ở trong cung phối hợp hay ức chế nhau. Tính cát hung có sự liên hệ mật thiết với sự việc, cũng liên hệ mật thiết với tinh diệu tác dụng. Ví dụ Vũ Khúc là tài tinh, luận về tài vận thì cát, nhưng luận về bài vở, bài tập thì chưa chắc đã tốt; Ví dụ Bạch Hổ là hung tinh, nhưng nếu mệnh bác sĩ và quân nhân có dược nó thì lại cát (nhưng nếu quá nhiều hung tinh thì vẫn không được tốt). Giống như là các chính tinh nếu đã miếu vượng còn được gia hội lục cát hoặc được cát hóa, ví như dệt hoa trên gấm, hổ mọc thêm cánh… còn nếu các chính tinh hãm địa gia hội lục cát hoặc được hóa cát thì có ý như trong cơn khó khăn được cứu giúp.

Cát tinh, đồng cung là tốt nhất, lân cung tương giáp là tốt thứ nhì, tốt thứ ba là tam hợp, cuối cùng là đối cung. Hung tinh, đồng cung và giáp cung là hung nhất, đối cung thứ nhì, tam phương thứ ba.

Mỗi một sao về cơ bản đều có tính chất và biểu ý đặc thù, về tính chất thì nó rơi vào cung nào cũng đều giống nhau, nhưng về biểu ý thì tùy cung vị khác nhau mà nó biểu hiện các ý khác nhau. Ví dụ như sao Thiên Cơ, cơ bản tính chất của nó là linh hoạt, đa mưu nếu rơi vào mệnh biểu hiện là thông minh, cơ linh, nhưng nếu rơi vào cung phu thê thì nói lên rằng tình cảm hay thay đổi, nếu rơi vào quan lộc chủ sự nghiệp nhiều biến động. Trong cùng một cung vị, biểu ý của sao cũng tùy điều kiện khách quan mà cải biến thay đổi, chủ yếu: Một là khi rơi vào cung khác nhau sẽ có vượng suy biến hóa xảy ra, hai là tổ hợp tinh diệu bay tới (tổ hợp cách cục) ảnh hưởng, ba là ảnh hưởng của tứ hóa, khi luận đoán phải phối hợp ba yếu tố này, phải khán đủ các cung thủ-chiếu-giáp-đối và tứ hóa.

Điểm chủ yếu trong luận mệnh đẩu số, trước là xem sự tốt xấu của mệnh cung và tổ hợp tình trạng của sao ở tam phương để xác định có hay không đến phẩm cách của sao, sau mới xem đến sự vượng suy sinh khắc của mệnh cung để xác định có hay không đến phẩm cách của số (phẩm cách của sao trọng ở phẩm cách của số), sau đó định ra sự cao thấp của cách cục mệnh số tiên thiên. Tiếp tục xem đến sự tốt xấu của thân cung và chính tinh cung mệnh, chính tinh cung thân, để xác định mức độ phú quý. Sau đó xem sao Tử Vi nhập cường cung hay nhàn cung, nhập cường cung thì tăng quý khí, nhập nhàn cung thì quý khí giảm đi, cuộc

sống thêm phần vất vả cực nhọc.

Khán sinh khắc vượng suy, trước là khán ngũ hành cung vị cùng ngũ hành của sao là gì, lại khán cung và sao, sao và sao, xem xét hết các tình trạng sinh khắc chế hóa của chúng. Chính tinh, cát tinh thì nên được cung sinh (cung sinh sao là phúc, sao sinh cung thì nhụt chí không tính là tốt, cũng không tính là dở), Hung tinh cần được cung khắc chế, nhưng những sao âm thủy nhập cung Ngọ, những sao dương thủy nhập cung Tị là là tượng thủy hỏa cứu giúp nhau mà trở thành cát; Chính tinh nên được phụ tinh sinh cho (nếu được sinh dù hãm cũng không luận là hãm), sát tinh nên bị khắc. Tiếp đến là khán cung vượng suy, mệnh, thân tốt nhất nên ở Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, kị ở Tử, Suy, Bệnh, Mộ, Mộc Dục, vô chính diệu.

Trong luận mệnh đẩu số, tính miếu vượng hãm rất trọng yếu. Nói vậy tức là, phàm các sao miếu vượng đều có thể phát huy đầy đủ tác dụng về một mặt tốt nào đó, cát tinh lại càng cát, hung tinh thì không hung, phàm là các sao lạc hãm thì hiển thị đầy đủ các tác dụng xấu, cát tinh không cát, hung tinh càng hung. Thiện tinh phản phúc đổi thành ác, ác tinh miếu vượng cũng có thể thiện.

Sự phối hợp giữa các tinh diệu rất trọng yếu. Nếu phối hợp tốt, hung tinh có thể cát hóa, nếu phối hợp không tốt cát tinh cũng không có tác dụng. Cái gọi là phối hợp tốt, là khi tính chất của sao điều hòa, kìm nén được, âm dương cân đối thì tốt. Ví dụ Thất sát biểu hiện hung tàn, nếu cùng Tử Vi thủ chiếu, thì có thể biến đổi thành vua có tướng giỏi. Lại như, Kình Dương là hung ác, nếu gặp Thiên Đồng ở Ngọ thủ mệnh, thì thành cách “mã đầu đới tiễn”, là mệnh đại tướng. Xét sự phối hợp giữa sao và sao, thấy rằng; Nếu cát tinh hội cát tinh mà lại còn tương hỗ, tương sinh thì cố nhiên là toàn bộ tốt đẹp; Nếu tương khắc thì không đầy đủ tốt đẹp nhưng cũng không phải là xấu; Nếu cát tinh ngộ hung tinh tương hỗ, cát hung hỗn tạp, chủ nhiều loạn mà không cát (Nếu có thể chế khắc được hung tinh thì lại luận khác) hoặc cũng cát cũng hung. Tổng quan thấy mệnh bàn mười hai cung, cứ thấy tứ sát tinh, không bàn vượng suy, trước là lấy hình xung khắc hại mà luận; Phàm thấy cát tinh đồng cung tứ sát, bất kể cung nào, cung vị cũng bị xung (Sự xung này chỉ là ý xung xấu hoặc xung động); sát tinh không được tụ họp, hung thần nếu tụ chung một chỗ, thì ngưu tầm ngữu, mã tầm mã, càng thêm hung hiểm. Sau khi định được cách cục cát hung, thì việc luận quan hệ tổng quát giữa các sao là rất trọng yếu.

Các sát tinh mang tính phá hoại, nhưng bên cạnh đó cũng mang lại năng lực kích phát. Sát tinh biểu hiện ra sự tích cực, hăng hái, nhiệt tình, cách tân, phấn đấu, gian khó, vất vả, cực nhọc. Khi miếu vượng mà lại có cát tinh đồng cung hoặc có chế hóa thì dễ đạt được hoạnh phát về công danh, hiển quý dương danh, nhưng phải luận là có được thành tựu do vất vả cực nhọc mà nên. Nếu cung mệnh toàn các sao âm nhu thì thái độ làm người của đương số quá nhu nhược khó làm nên chuyện, nếu có sát tinh thì có thể hiểu họ có khí chất cương cường, nếu lại gặp cát tinh sinh vượng, một chút sát tinh đó ngược lại đưa đến lực kích phát vừa có chí tiến thủ vừa tạo ra tác dụng bảo tiêu, phát huy năng lực sắc bén, dễ có được sự nghiệp thành công, người ta thường bảo,”Có bệnh mới là quý”\ chính là ý này. Ngoài ra, cung mệnh cư Thìn Tuất là đất Thiên La Địa Võng, ngoại trừ Thất Sát, Phá Quân, hoặc Nhật Nguyệt miếu vượng có năng lực mạnh – chính mình đột phá, thì các chính tinh còn lại đều cần một sát tinh đồng cung, là lực trợ giúp để phá thế La Võng, tạo lực kích phát để ta phấn đấu. Nếu sát tinh được chế phục cũng sẽ mang lại tác dụng tốt, phần nhiều là danh vọng võ quan. Kình Dương đồng cung thủ mệnh cũng không nhất định đáng sợ, như phía trên đã nói đến cách cục “mã đầu đới tiễn”, trái lại là có quyền thế, nhưng nếu rơi (Kình Dương rơi) vào cung di, lại không có khắc chế thì chẳng khác nào một đao trước mặt, ít nhiều cũng mang lực uy hiếp. Không nên vừa thấy hung sát tinh đã luận là bất lợi, nếu như nhiều cát tinh, sát tinh ít mà lại miếu vượng, tam phương tứ chính lại hội chiếu nhiều cát lợi, vẫn là cát tượng. Nếu như chính tinh hãm địa, ít cát tinh, ngộ thêm sát tinh, là bất ổn, nếu nhiều sát tinh thì đã hãm lại thêm hung. Chính vì thế: Nhiều cát tinh, phùng hung cũng cát; nhiều ác tinh, phùng cát cũng hung. Các sao có năng lực chế ngự sát tinh: Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Hóa Khoa, Hóa Quyền, nhưng đa phần phải miếu vượng thì mới có lực.

Mệnh – Thân mạnh, vận hạn xấu cũng có năng lực vượt qua, cho dù gặp ít sát tinh, chủ về trong hung hiểm được cứu giúp, đối với mệnh thân không hại. Tốt số, mệnh thân tốt, vận hạn tốt thì suốt đời vinh quang hiển đạt (ví dụ như mệnh – thân tọa đất Trường Sinh Đế Vượng, bản cung thì nhiều cát tinh miếu vượng, là mệnh – thân mạnh, lại có được cát lợi từ tam phương tứ chính, đó là tốt số). Mệnh suy, thân suy, hạn suy, suốt đời là kẻ ăn mày (Giả như mệnh thân rơi vào đất Tử Tuyệt không vong, bản cung lại hăm hung sát tinh hãm, tam phương tứ chính tả hữu lân cung lại gặp Không Kiếp Kị sát, mà gặp hạn lớn nhỏ lại lành ít dữ nhiều, đó là xấu số). Sinh nơi bại địa, phát cũng chỉ là hư ảo (cung mệnh ở đất Tử, cho dù có phát cũng không bền, chỉ là hư danh hư lợi mà thôi). Tuyệt xứ phùng sinh, có họa mà không bại (cung mệnh dù rơi đất Tử, nhưng rơi vào cung ngũ hành tương sinh, hoặc có cát tinh sinh phù, là có thể cứu chữa, không đến mức bị phá bại xuống dốc, hoặc có thể trước bại sau thành, ở trong khốn cùng gặp duyên chuyển biến).

Tốt, tốt đến mức nào? Cái này sẽ xem xét và cân đong đo đếm các sao thủ – chiếu cũng như cách cục của chúng, sau đó định cao thấp. Các sao có năng lực mạnh tổ hợp thành cách cục cao, là tốt ở mức cao, còn ngược lại thì thấp. Vậy sao nào thì mạnh? Tử Vi, Thiên Phủ là lớn nhất, tiếp đến là Thái Dương, Thái Âm, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, chín sao trên đa số mang ý phú quý phúc lộc của cát tinh, nếu lại hội Khoa Quyền Lộc Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt, thì năng lực càng cường đại. Liêm Trinh, Tham Lang, Cự Môn, Thất Sát, Phá Quân là một nhóm sao, một mặt mang ý nghĩa bất lương, miếu vượng thì khá, còn hãm thì bất lương, hội thêm sát thì càng hung. Nhưng nếu năm sao này phối hợp tốt, cấu thành cách cục phú quý thì năng lực cũng rất lớn. Trong đó Tử Sát, Tử Liêm, Vũ Sát, Vũ Tham, Liêm Phủ, Liêm Sát, Liêm Lương, Hỏa Tham, Linh Tham, Cự Cơ cùng thủ mệnh thân, đồng thời đóng nơi miếu vượng, lại hội chiếu với nhóm cát tinh Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu Khoa Quyền Lộc, là được phúc lớn.

Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ phúc thọ, Nhật Nguyệt Tả Hữu chủ phú quý, Vũ Phá thì tài hoa xuất chúng, Tham Liêm hãm thì nhiều cái xấu, Xương Khúc nhập mệnh chủ khoa danh, Lộc Tồn ở đâu cũng tốt, Cự Môn hóa cát cũng phú quý, Khôi Việt phù là chủ phát đạt, suốt đời cận quý có công danh, tối kỵ gặp Không Kiếp nhập.

Phàm các sao cương liệt đều mang tính cô khắc, nhập mệnh và lục thân bất lợi, nhất là trường hợp nữ mệnh phi Hóa Kỵ nhập cung phu thê là rất xấu.

Cung vô chính diệu: mượn tất cả các sao ở đối cung để luận (tính miếu vượng hãm thì giữ nguyên khi nó ở cung đối), do bản thân mềm yếu, phải mượn lực từ người khác, cho nên cát hung đều bị suy giảm, ví dụ như tài bạch vô chính diệu, thì nên làm công ăn lương. Tối kỵ gặp bản cung có sát, cho dù đối cung có cát cũng không hoàn mỹ, cung xung chiếu có Sát Kị tinh thì tính hung tăng gấp đôi. Chú ý, tam phương của bản cung không có chính tinh, giống nhau là phải mượn sao đối diện để luận các tổ hợp cát hung.

Phân tích tứ hóa là rất quan trọng. Khán tứ hóa, phàm tam cát nhập cung mệnh hoặc tam phương tứ chính là tăng cát lợi; phàm cứ thấy Hóa Kỵ nhập cung, là có nhiều cản trở, cát giảm, hung tăng. Sao miếu vượng Hóa Kỵ, tuy có cản trở, nhưng trải qua nỗ lực cuối cùng thành công; Chủ tinh hãm gặp Hóa Kỵ, thì tất là hung tượng. Hóa Kỵ đối trùng cung càng khó, sao trong cung cát thì còn đỡ, nếu sao hãm lại có sát, thì tất là hung tai. Cái này chỉ là tương đối, cụ thể muốn khán rõ phải kết hợp tổ hợp sao cùng tam phương tứ chính, nếu có tổ hợp tốt thì ngược lại có tác dụng thúc đẩy đương số.

Phàm chủ tinh hãm lại hội sát hội Kỵ xung cung là thất bại nhất, là đặc biệt; nếu tam phương tứ chính vừa phùng hãm, sát; thường là có tính chất hủy diệt tai nạn, gặp hạn năm trùng điệp đến cung đó tất xảy ra tai ương.

Các tiền bối tổng kết có vài câu khẩu quyết: Bản cung hung, rối loạn từ gốc; Đối cung hung, ví như một gậy đập vào đầu; Tam phương hung, hai bên đều có địch; Lân cung hung, lưỡng lân tướng lấn; Bản cung cùng tam phương tứ chính đều hung, bốn bề thọ địch.

Ý nghĩa của việc phận tích suy diễn: Trước là phân tích tính tình, tiếp theo là phân tích cung Phụ Mẫu kiêm luôn phân tích cung Điền Trạch xem bản thân xấu tốt thế nào, cần xác định giờ sinh một cách chính xác của người đó, và biết được vận thế sau này của người đó là thuộc loại phúc âm hay là loại bạch thủ thành gia, nếu loại bạch thủ xuất hiện liên tiếp mấy vận không tốt, dù Mệnh cung có tốt thì cũng khó cất đầu dậy được, sau đó phân tích Mệnh cung để định cách cục, tiếp theo phân tích cung Phúc Đức để xác định sự may của đương số, nếu Mệnh cung tốt, Phúc Đức cũng tốt, đương nhiên không có gì là không lợi cả, sự nghiệp suông sẻ, gia đình hạnh phúc; nếu cung Mệnh tốt, Phúc đước không tốt thì cần chú ý các mặt có hay không sự thiếu khuyết như gia đình, tinh thần hưởng thụ, sức khỏe, ở đây cần tiến thêm một bước trong việc xem xét cung Phu Thê và Tật Ách; nếu phân tích ra cung Phu Thê không được tốt, đó chính là vấn đề hôn nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống tinh thần, lại tiếp tục truy xét đến Đại hạn và Lưu niên, xem khi nào hôn nhân xuất hiện vấn đề.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Nhóm Thiên Hỏa Đồng Nhân biên dịch)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button