Tử vi

Tiết 4: Khái luận về cách cục.

Cái gọi là cách cục, chính là kết cấu quần thể tổ hợp giữa các tinh diệu và tinh diệu, mỗi một tổ hợp cung đều có thể trở thành một cách cục. Cách cục mà chúng ta nói là một số cách cục cát hung thường dùng được tiền nhân tổng kết ra, nó là tiêu chí cát hung, là một loại tượng của đại cục, một xu thế lớn. Cát cách, tức phú quý cách là sự tổ hợp tốt giữa sao với sao, hung cách, tức cách cục bền tiện chính là tôt hợp không tốt giữa các sao với nhau, Cách cục cát hung là kinh nghiệm tổng kết của tiền nhân để lại, nó rất trọng yếu, khi luận mệnh điều cần chú ý đầu tiên là xem ra cách cục nào, thành cách cục cát hung thì cũng lấy cách cục để luận cát hung họa phúc. Nhưng, cách cục và ca quyết đều có giới hạn và điều kiện sử dụng của nó, đặc biệt là kinh tế chính trị, hoàn cảnh địa lý, thói quen sinh hoạt giữa thời hiện đại và cổ đại không giống nhau, khi kết luận có thể có sai biệt, hoặc giả chỉ có ý nghĩa cơ bản, mà nội dung cụ thể lại có khác biệt, đây là điều cần chú ý, mà không thể rập khuôn máy móc. Tiết này xem như là kiến thức sơ bộ, lại bày ra những định nghĩa về cách cục, nội dung luận đoán phân tích cục thể về cách cục đã đề cập ở các chương tiết thứ 8, 9, 10

Cách cục cũng có phân ra mức độ cường nhược, phương pháp phán đoán là xem mức độ thất hãm miếu vượng của sao ở cung nó đóng, và những tình huống liên quan đến sự phù ức cát hung của sao. Cách cục phú quý gặp chính tinh miếu vượng, cát tinh nhiều vô sát chính là cách cục cường mà có lực; Trái lại chính tinh thất hãm thì chính là cách cục suy nhược mà vô lực; gặp sát kị là phá cách (đặc biệt như Hỏa Tham cách làm ví dụ), hào nhoáng bên ngoài, nhưng phúc trạch có tổn hại, cho dù phú quý thì cũng có nhiều khuyết hãm (phá cách cũng nên xem chế hóa, chế sát có lực mạnh cũng có thể thành cách cục tốt tuy rằng có mang chút khiếm khuyết). Cách cục bần tiện gặp chính tinh miếu vượng, cát tinh nhiều thì bớt hung, gặp chính tinh thất hãm, sát nhiều thì tăng thêm độ hung hiểm.

Đối với cách cục, cần biết vận dụng khéo léo, nếu không biết vận dụng thì cũng không thể dùng được, chỉ cần căn cứ vào lý luận của mệnh cung và tam phương tứ chính, giáp cung, tứ hóa tiến hành phân tich luận đoán là có thể được

Bạn đang xem: Tiết 4: Khái luận về cách cục.

★一、富贵格局. Cách cục phú quý

Dưới đây xin liệt ra một số cách cục phú quý chủ yếu, còn các cách cục phú quý khác đã được tường thuật rõ ràng ở chương 8 và chương 9, ở đây đa số là tổ hợp mệnh cung, vừa phú vừa quý, quý khí tốt hơn phú khí. Cách cục dưới đây, nói chung cần tổ hợp mệnh cục hoàn toàn phù hợp, chính tinh ở chủ cung miếu vượng, không gặp Sát Kị Không vong, 3 cái này nếu khuyết một đều không thể trở thành cách cục phú quý được; đặc biệt là cách cục đặc thù làm ví dụ. (Chính tinh chủ cung gặp sát thì phá cục, tam phương gặp sát không nhất định là phá cục, nhưng cũng chủ có áp lực gây trở ngại, các cục đặc thù làm ví dụ chẳng hạn). Chú ý nhất là cần phải lấy chính tinh cung mệnh (chủ cung) làm chủ.

Tam Kỳ giai hội cách: Các cung Mệnh Tài Quan Thiên Di hội đủ 3 cát tinh Hóa Khoa Hóa Quyền Hóa Lộc, không có Sát xung phá chính là nó. Phùng các ác tinh như Tứ Sát Không Kiếp thủ chiếu hội hợp thì phá cục. Tổ hợp tốt nhất là Khoa tọa mệnh, Lộc tọa Tài, Quyền tọa Quan, Chính tinh cung mệnh miếu vượng vô sát, mà lại được vận phù trợ; Lộc tọa mệnh, cung Tài phân chia tọa Khoa Quyền, hoặc Quyền tọa mệnh, Tài Quan phân chia tọa Lộc Khoa, thì chỉ tính vào cấp độ thứ 2; Tam kỳ không thích trùng điệp, nếu trùng điệp thì không được xem là chân cách, nhưng nếu mệnh cung miếu vượng vô sát thì vẫn có phú quý. Người nhập cách này, có chí hướng lớn, thường có được nhiều cơ hội tốt, có những vận tốt bất ngờ, công danh thành tự. Nếu chính tinh cung mệnh là cát tinh phú quý miếu vượng, như các sao Tử Phủ Vũ Tướng Nhật Nguyêt Lương Đồng Cơ, tam hợp chính tinh lại miếu vượng, gia hội cát tinh, thì chính là cách dương danh thế giới, cục giàu đại quý; Chính tinh cung mệnh miếu vượng vô sát, tam phương cát hung hỗn tạp, vẫn có thể phú quý nổi danh, duy chỉ kém hơn chút mà thôi, chính tinh mệnh cung không vượng vô sát cũng có thể có phú quý; mệnh cung thất hãm lại hội thêm nhiều các sao Sát Kị, thì tuy có tài hoa cũng là có tài năng mà không gặp thời. Phần đa có chỗ khác thường so với người bình thường. Tổ hợp mệnh cung đại phú đại quý khoảng chừng có: Thiên Lương Tý Ngọ, Thiên Đồng Thìn Tuất, Thiên Đồng Mão Dậu, Thái Âm Thìn Tuất, Thiên Cơ Tý Ngọ, Vũ Tương Dần Thân, Liêm Sát Sửu Mùi, Liêm Tướng Tý Ngọ, Đồng Âm cung Tý, còn lại nhiều tổ hợp khó có cách đại phú đại quý, nhiều nhất cũng chỉ là phú quý trung bình mà thôi, ngoài ra, cung vị một số hóa tinh này đóng lại không có thể có tự hóa, ví dụ Mệnh cung tọa Lộc gặp Tự Hóa Lộc, tức phá Lộc bất cát, nếu Tự Hóa Kị cũng là bất cát. Lại có mức độ cao thấp của cách cục còn có liên quan đến Hóa tinh, Quyền tinh hỉ Hóa Quyền, Tài Tinh hỉ Hóa Lộc, Khoa tinh hỉ hóa Khoa, cách cục gặp được thì tương đối cao.

Tam Kỳ triều đẩu cách: Tử Vi tọa mệnh, tam phương được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, vô Sát xung phá, chính là cách này. Giải thích rõ nó giống Tam Kỳ giai hội cách.

Tử Phủ đồng cung cách: Tử Phụ cùng tọa ở cung Dần Thân, lại có Tả Hữu Khôi Việt thủ chiếu, vô Sát xung phá, mới hợp cách này, chủ cả đời phúc dày. Tử Vi và Tả Hữu đồng cung càng cát. Không có hai cát tinh Tả Hữu, thì không phải cách này.

Tử Phủ triều viên cách: Tử Vi, Thiên Phủ ở tam phương hội chiếu hoặc ở trên dưới kẹp mệnh cung, Chính tinh cung mệnh phải miếu vượng gia hội thêm cát tinh, mới hợp cách này, không quý thì phú. Gặp cát tinh nhiều mà không có sát tinh thì chức vị đến công khanh, có thêm Sát Kị tinh là người bình thường. Như Đẳng Tiểu Bình, sinh giờ Tý ngày 12 tháng 7 năm 1904.

Tử Phủ giáp (kẹp) mệnh cách: Tử Phủ ở hai cung bên cạnh cung mệnh, Mệnh cung cư Dần Thân, vô sát gia hội thêm cát tinh mới hợp cách này mà có phú quý, không có cát tinh chỉ là thường nhân.

Nhật Chiếu Lôi Môn cách: Thái Dương cư cung Mão thủ mệnh, người sinh ban ngày hợp cách này. Hội lục cát tinh, người sinh Giáp Ất mà sinh ban đêm cũng hợp cách này. Có thêm tứ Sát tuy phá cách nhưng cũng chủ no ấm.

Tướng Tinh đắc địa cách: Vũ Khúc miếu vượng tọa mệnh, vô Sát có cát chính là cách này.

Tứ chính đồng lâm cách: Tử Phủ tọa mệnh, Nhật Nguyệt ở vượng cung hôi tề ở cung mệnh, chính là cách này

Phụ Bật củng chủ cách: Tử Vi tọa mệnh, Phụ Bật ở tam phương hội chiếu hoặc kẹp nhau ở hai cung trên dưới bên cạnh.

Cực hướng ly minh cách: Tử Vi tọa mệnh tại Ngọ cung, vô Sát mà có cát tinh Tả Hữu Khôi Việt Khoa Quyền Lộc tọa thủ hội chiếu. Người sinh Giáp Đinh Kỷ, đại phú đại quý, vị chí công khanh..

Quân thần khánh hội cách: Bao sao Tử Vi và Tả Hữu đồng cung thủ mệnh, hoặc Tử Vi tọa mệnh, Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt Phủ Tướng ở tam phương hội chiếu, không có Sát Kị thủ chiếu mới hợp cách này, đại phú đại quý; những sao trên cần thành sao đôi gia hội, nếu chỉ được đơn tinh gia hội mà nhiều dù có thành cách, nhưng tương đối hư phù vô lực, chỉ giống như mang chút mùi vị mà thôi, gặp Sát Kị thủ chiếu là phá cách, cho dù phú quý cũng chủ về gian trá.

Nhật Nguyệt Giáp Mệnh cách: Mệnh cung cư Sửu Mùi, Nhật Nguyệt miếu vượng, giáp nhau ở hai cung bên canh trên dưới Mệnh cung. Cần chính tinh mệnh cung vượng cát mới hợp cách này.

Nhật Nguyệt Tịnh Minh cách: Cung Sửu an mệnh, Thái Dương ở Tị, Thái Âm ở Dậu cung nhau chính là cách này. cần chính tinh cung mệnh vượng cát mới hợp cách.

Nhật Nguyệt chiếu mệnh cách: Sửu cung an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Mùi; cung Mùi an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Sửu, xung chiếu nhau đúng là cách này.

Nhật Lệ Trung Thiên cách: Thái Dương ở cung Ngọ thủ mệnh, vô sát tinh lại có thêm cát tính là đúng cách này. Người sinh Canh Tân, lại sinh ban ngày mới hợp cách này.

Nhật xuất Phù Tang cách: Thái Dương ở cung Mão thủ mệnh, người sinh ban ngày thì hợp cách. (tên gọi khác là Nhật Chiếu Lôi Môn cách).

Phủ Tướng Triều Viên Cách: Phủ Tướng ở tam phương củng hợp mệnh cung, chính tinh cung mệnh miếu vượng mà có cát vô sát, mới hợp cách này, phú quý mà chủ lục thân nhân duyên hậu. Tối hỉ Tướng cu Tý phủ cư Thân, Tướng cư Ngọ Phủ cư Dần, Tướng cư Thân Phủ cư Thìn.

Tọa quý hướng quý cách: Thiên Khôi tọa mệnh, Thiên Việt ở cung xung chiếu; hoặc Thiên Việt tọa mệnh,Thiên Khôi ở cung xung chiếu;Hoặc mệnh thân đều chiếm một sao. Vẫn cần chính tinh cung mệnh miếu vượng, lại gia hội thêm cát tinh mới hợp cách này. là người thông minh bac học, cuộc đời được nhiều quý nhân giúp đỡ, gặp hung hóa cát, gặp nạn hóa cát tường. Là giả cách, nếu mệnh cung không có cát tinh, chính tinh thì không tốt, chủ chủ về được nhân duyên mà thôi, không thể phú quý.

Thạch trung ẩn ngọc cách: Cự Môn tọa mệnh ở cung Tý hoặc cung Ngọ, có Khoa Quyền Lộc một trong 3 chiếu hội, vô sát xung phá

Thất Sát triều đẩu cách: Thất Sát tọa mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, Tử Vi ở cung xung chiếu, cũng cần lục cát tinh thủ hội mới đúng cách, thêm sát tinh là không đúng cách này.

Song Lộc triều viên cách: Lộc Tồn, Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu Mệnh cung, chính là cách này, cũng gọi là song Lộc giao hội, gặp ở nguyên cục, đại hạn, lưu niên có Hóa Lộc giao hôi cũng thành cách, dễ phát tài. (ở hai cung Tài Quan gọi là hợp lộc, ở cung Thiên Di gọi là Củng Lộc), cần chính tinh cung Mệnh vượng cát mới hợp cách này.

Song Lộc phụ mệnh cách: Lộc Tồn, Hóa Lộc đồng cung hoặc giáp Mệnh cung, chính là cách này; khi lại gặp niên hạn mệnh cung lại phùng Hóa Lộc, dễ là song Lộc phụ Lộc cách, cát lực rất lớn, cho dù nguyên cục thành hung cách cũng sẽ biến hóa về phương hướng tốt. Cần mệnh cung chính tinh miếu cát mới hợp cách.

Lộc hợp uyên ương cách: Lộc Tồn Hóa Lộc một trong 2 so thủ mệnh, ngoài ra sao còn lại đến hợp, hoặc chi nhau ra thủ ở hai cung mệnh thân. Cần chính tinh cung Mệnh miếu cát mới hợp cách.

Minh châu xuất Hải: Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi, Mệnh cung tọa Mùi. Tối kị Sát tinh xung phá, rất kỵ Dương Đà.

Dương Lương Xương Lộc cách: Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn ở tam phương tứ chính tập hợp chiếu mệnh.

Nguyệt Lãng Thiên Môn cách: Thái Âm ở Hợi cung tọa mệnh, quý ở người sinh buổi tối. Tam phương có cát củng, chủ đại quý. Người sinh Bính Đinh chủ quý, người sinh Nhâm Quý chủ phú. Vô cát chỉ là công nhân viên chức tạp vụ.

Nguyệt sinh thương Hải: Thái âm ở cung Tý thủ cung Điền Trạch, đó chính là cách này. Người sinh ban đêm hợp cách.

Tài Ấn giáp Lộc cách: Sao Lộc Tồn thủ mệnh, hai sao Vũ Khúc Thiên Tướng kẹp Lộc Tồn, không có sát Kị xung phá chính là cách này.

Văn tinh củng mệnh cách: Tam phương của Mệnh cung có văn tinh chiểu củng là các sao Xương Khúc Khôi Việt Hóa Khoa, là đúng cách này. Ngụy cách, cần mệnh cung vượng cát mới có thể phú quý.

Cự Nhật đồng cung cách: Thái Dương Cự Môn cùng đóng tại Dần Thân thủ mệnh, có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt đồng thủ hoặc củng chiếu mới đúng cách, thêm sát tinh là không phải. Được Vũ Tướng giúp kẹp ở hai bên Mệnh cung kẹp lại càng cát.

Lộc Mã bội Ấn cách: Lộc Tồn (Hóa Lộc cũng có thể được), Thiên Mã và Thiên Tướng đồng cung thủ mệnh, chính là cách này, chủ có tài có thế có địa vị.

Cơ Nguyệt Đồng Lương cách: Tam phương của Mệnh cung có 4 chính tinh tụ hội là Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, có cát mà vô sát Kị, chính là cách này, gia hội thêm Xương Khúc là chuẩn nhất. Đa số là công tác quản lý hoặc công tác kỹ thuật ở các xí nghiệp lớn hoặc cơ quan công vụ.

Một số cách cục phú quý khác (Những cách cục này đa số là ngụy cách, cần phân tích một cách tỉ mỉ, chú sự vượng suy cát hung của chính tinh.

⑴ “Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài phúc” : Quyền Lộc thủ ở hai cung Tài Bạch và Phúc Đức, chính tinh mệnh cung miếu vượng có cát tinh nhiều, nhất định chủ có vinh hoa.

⑵ “Khoa Quyền Lộc củng, Danh Dự chiêu chương”: Khoa Quyền Lộc phân thủ ở 3 cung Mệnh, Tài, Quan, chính tinh cung Mệnh miếu vượng có cát diệu vô sát tinh chính là cách này, vị đến tam công (Tam công: ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm: thái sư, thái phó, thái bảo). Thực cách này là Tam Kỳ giai hội cách.

⑶ “Khoa minh Lộc ám, vị chí tam công” : Ví dụ người sinh Giáp, an Mệnh cung Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, mà Lộc Tồn cư Dần, thì Dần và Hợi hợp, cho nên gọi là Khoa Minh Lộc ám. Thường là cung Mệnh có Hóa Khoa, Lộc tồn lục hợp mới đúng cách này, vẫn cần chính tinh mệnh cung miếu vượng cát tinh nhiều.

⑷ “Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, nhất đình là bậc công hầu”: Tử Vi cư Ngọ, Phủ cư Tuất, Nhật cư

Mão, Nguyệt cư Dậu, lại gặp Khoa Quyền Lộc tọa thủ Mệnh Thân là đúng cách này. Nếu thêm Sát Kị Không Vong thì không phải cách này. (Nếu hai cung Tài Quan có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc cũng đúng).

⑸ “Mộ gặp Tả Hữu, tôn cư Bát Tọa chi quý “, “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử”: Cung Tứ Mộ an mệnh, hai sao Tả Hữu đồng thủ mới đúng. Hoặc gặp nó ở 3 cung Tài Quan Di, cũng cát. Thông thường thì không tính là cách cục phú quý, chỉ chủ về được trợ lực lớn, cần chính tinh miếu cát vô sát, mới chủ phú quý.

Mệnh cư cung Thân, Thiên Đồng ở cung Tý, Thiên Lương ở cung Dần, lại được Khoa Quyền Lộc Tả Hữu củng xung, mới là mệnh tài năng xuất chúng.

⑺ Nhật Nguyệt vượng địa thủ thân Mệnh, tam phương Xương Khúc Khôi Việt đến củng; Hoặc mệnh tọa

Xương Khúc, Nhật Nguyệt ở tam phương đên củng, lại gặp Khôi Việt, chủ phú quý.

⑻ “Phụ Bật ngộ Tài Quan, được hoàng đế ban áo gấm, y thực”: Cung Tài Bạch, cung Sự Nghiệp có Phụ Bật đến củng mệnh, không luận vượng suy của mệnh cung, chủ cuộc đời y thực phong túc. Chính tinh mệnh cung miếu vượng thêm cát tinh mới có thể phú quý.

⑼ “Cự Lương tương hội Liêm Tham tịnh, Uyên ương hợp Lộc nhất thế vinh” : Câu trước là chỉ 4 sao Cự

Lương Liêm Tham ở tam phương của thân mệnh hội tụ, miếu địa và hội cát tinh; Câu sau là chỉ 4 sao kể trên ở tam phương của cung Phu Thê, mà mệnh hoặc Phu Thê cung phùng Lộc Tồn Hóa Lộc thủ hợp, đều phú quý.

⑽ “Minh Lộc ám Lộc, cẩm thượng thêm hoa” : Người sinh Giáp, lập mệnh tạo cung Hợi, được Hóa Lộc tọa thủ, lại được Lộc tồn cung Dần đến hợp, là đúng cách này. Phàm Mệnh cung có một lộc, phương lục hợp lại có một Lộc, đều phải. (Minh Lộc chỉ cung Mệnh, ám Lộc chỉ lục hợp, tam hợp hoặc đối cung).

⑾” Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú nhanh nhẹn, Âm Dương Tả Hữu tối hiền từ”: Xương Khúc Lộc Cơ thủ mệnh, không có thêm tứ sát, chủ nhân lỗi lạc anh hoa, thông minh tú lệ, cũng chủ phú quý; Âm Dương Tả Hữu tọa mệnh, không thêm sát Kị, chủ nhân thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, phú quý.

⑿ “Thái Dương Văn Xương đồng thủ ở Quan Lộc, hoàng điện thủ ban chi quý”: Thái Dương và Văn Xương đồng thủ ở cung Quan lộc, gia hội cát tinh, chủ phú quý, quý có thể làm đến chức thủ tướng.

⒀ “Thái Âm Văn Khúc đồng thủ Phu thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh” : Thái Âm và Văn Khúc đồng thủ ở cung Phu Thê, lại gặp cát củng, vận hạn lại đến gặp vận này, nam nữ thi đạt cao trung, dành được quan quý, nữ lấy được chồng quý được phong tặng.

⒁ “Lộc văn củng mệnh, quý mà còn hiền”: Lộc Tồn ở cung Tài bạch, Xương Khúc ở cung Quan Lộc củng chiếu Mệnh cung, là người phú quý mà hiền minh.

⒂ “Khoa Quyền Lộc giáp vi quý cách”: Ba hóa diệu là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa trong đó có hai sao ở hai bên mệnh cung, tức là hai cung bên cạnh tương kẹp cung mệnh, vẫn cần chính tinh cung mệnh miếu vượng mà không có sát tinh lại hội thêm cát tính, mới chủ đại phú.

①, Vũ Tham thủ Tài trạch, hoạnh phát; Tử Phủ Vũ Khúc thủ cung Tài bạch, lại thêm Quyền Lộc, nhất định là phú ông, phát khi gặp hạn thứ 2.

②, Tài Ấn giáp ấm cách: Thiên Lương thủ mệnh, Vũ Tương kẹp Mệnh cung; Hoặc Thiên Lương thủ cung Điền trạch, Vũ Tương đến kẹp, tức là phú cục.

③, Nhật Nguyệt giáp Tài cách: Vũ Khúc thủ mệnh, Nhật Nguyệt đến kẹp; hoặc Vũ Khúc thủ Tài Bạch, Nhật Nguyệt đến kẹp, chính là cách này. Thiên Phủ thủ mệnh, Nhật Nguyệt đến kẹp cũng giống nhau. Cần thêm cát tinh, không phú thì quý.

④, Tài Lộc giáp Mã cách: Thiên Mã thủ mệnh, Vũ Lộc lai đến, chính là cách này. Gặp sinh vượng càng đẹp.

⑤, Ấm Ấn củng Thân cách: Thân lâm cung Tài bạch, Lương Tướng ở tam phương củng chiếu, chính là cách này, kị tọa Không Vong.

⑥, Nhật Nguyệt chiếu bích cách: Nhật Nguyệt lâm cung Điền trạch, lại còn ở cung tứ mộ.

⑦, Kim xán quang huy cách: Thái Dương thủ mệnh tại Ngọ cung, đúng là cách này. Người sinh năm Đinh Tân hoặc Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn chủ phú.

⑧, Lộc Tồn thủ Điền Tài, tài sản vô số: sao Lộc Tồn thủ ở cung Điền Trạch hoặc cung cung Tài bạc, bất luận có một sao Không vong nào thì phá cách, chủ đại phú.

⑨, Tài ấm tọa ở Thiên Di, nhất định là nhà thương nhân lớn: Tài tức Vũ Khúc, ấm tức Thiên Lương, hai sao này hoặc có một Hóa Quyền Hóa Lộc, cùng với cát tinh tọa ở cung Thiên Di, chính là cách này. Nếu thêm sát kị thì bình thường.

Những cách cục phú quý trên đa số ở hai cung Tài và Điền trạch, cho nên chủ về phú nhiều hơn quý. Nếu phùng chính tinh miếu vượng, có cát tinh thủ chiếu tất giàu.

Vận hạn có ảnh hưởng rất lớn đến phú quý, vậy nên kết hợp để xem. Nếu các cung Mệnh Tài Phúc Điền đều tốt, tiền vận tốt thì giàu trước; hậu vận tốt thì giàu sau; tiền hậu vận đều tốt thì cả đều đều giàu có; Tiền vận tốt mà hậu vận không tốt thì tiên phú hậu bần.

★四、定贫贱局 – Định cách cục bần hàn

⑴, “Bần tiện từ nhỏ, là Kiếp Không lâm hai cung Tài phúc” : Mệnh không có phú quý cách, chính tinh lại không miếu vượng, Kiếp Không phân đoạt ở hai cung Tài Bạch Phúc Đức, mà còn còn chính tinh đồng cung bất vượng, chủ về cuộc đời bần hàn; nếu gặp thân mệnh cát, chủ về người này tiêu pha phung phí xem nhẹ tiền bạc, tài đến tài lại đi. Thân mệnh gặp nó là đúng, tức cung Mệnh thân có Không Kiếp phân đoạt, bần tiện, lại thêm Cô Thần Quả Tú, thì cô quả bần tiện. Không Kiếp đến kẹp mệnh càng hung.

⑵, Sinh bất gặp thời: Mệnh tọa hãm cung lại Không Vong (Chính Không trọng, Phụ Không Nhẹ), Không Kiếp.

⑶, Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa Mệnh Thân, ngộ Không, Kiếp, Kị, Không Vong đến xung phá, gọi là “Lộc gặp xung phá, cát xứ tàng hung” (thường thường trước thành sau bại, tiền phú hậu bần). Hành hạn gặp như vậy đều phải. (Hai sao Không Kiếp cùng đến càng hung).

⑷, Mã lạc Không Vong, cả đời bôn tẩu: Thiên Mã gặp Không Vong, tất chủ bôn ba vất vả mà vô công. Như sinh năm Giáp, có chính Triệt Không tại Thân Dâu, nếu an mệnh ở Thân, là mã gặp Không Vong. Nếu gặp chính Không thì nặng, gặp phụ Không thì nhẹ. (gặp Tuần Không ở lưu niên cũng phải).

⑸, Nhật Nguyệt thất hãm, lại gặp Cự Môn: Nhật Nguyệt hãm địa thủ mệnh, gặp Cự Môn đồng cung hoặc chiếu.

⑹, Vũ Khúc Liêm Trinh phân thủ cung Mệnh Thân, (hai sao lạc hãm thêm Sát Kỵ mới đúng; (Liêm Trinh rơi vào hãm cung mới là tù tinh).

⑺, Phá Quân thủ mệnh, cư hãm địa, cô bần. (Phá Quân và Văn Khúc đồng thủ cung Mão, là kẻ sĩ cả đời bần khổ).

⑻, Tứ Sát thủ Mệnh Thân cung, gặp Tham Lang, Kình Dương giao hội, mà nhiều cát thất hãm.

⑼, “Đặng thông chết đói, vận gặp đất Đại Hao”: Cung Tý an mệnh, hạn thứ hai hành đến đất Đại Hao, lại gặp Ác diệu sát kị tinh, chính là cách này.

⑽, Ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức đều có Không Kiếp, Sát Kị, là mệnh tăng đạo, nếu không phải vậy thì là mệnh cô đơn bần tiện.

⑾, Mệnh Thân gặp các sao Liêm Phá Vũ và Hóa Kị, lại phùng Không Kiếp, Kình Đà đến kẹp, nhất định là hạ cách cô hàn. Nếu Lộc Tồn ở đất sinh vượng, tuy Kình Đà kẹp, cung không phải là hạ cách. Lại như Kình Đà, Không kiếp không cùng lúc tương kẹp ở hai bên, mà ở tam gặp Hóa Quyền Hóa Lộc, cũng không phải hạ cách. Nhưng phùng sát vận có phá bại.

⑿, Mệnh cung vô chính diệu, chỉ thấy Thiên Không Địa Kiếp tọa thủ, tam phương không có cát tinh đến cứu, chủ về không tụ Tài, bần tiện, phiêu lưu, bệnh tật khổ sở, bản cung và tam phương thêm cát tinh cũng không được. Bản cung lại gặp Sát tinh đa số yểu chiết.

⒀, “Sinh gặp bại địa, phát cũng hư thương; tuyệt sứ phùng sinh, thương mà không bại”: Nhưng người thủy cục an mệnh tại Ngọ, là tuyệt địa, chính là cách này. Nếu như có kim tinh đồng cung đến sinh, thì là có cứu. Phàm Dần Thân Tị Hợi là tứ Tuyệt, cũng là tứ sinh.

⒁, “Hao cư Lộc vị, khất thực ven đường” : Phá Quân cư cung Sự Nghiệp, lại gặp Dương Kị, và người sinh Dần Ngọ Tuất mệnh tọa cung Ngọ, người sinh Tị Dậu Sửu mệnh tọa cung Dậu, người sinh Hợi Mão Mùi mệnh tọa cung Mão, người sinh Thân Tý Thìn mệnh tọa cung Tý đều phải.

⒂, “Kị ám đồng cư Mệnh Tật, khốn nhược vô lực”: Như các cung Mệnh Thân Tật ách gặp Cự Môn Dương Đà cùng thủ, thì nghèo khó yếu nhược tàn phế, phá sạch tổ nghiệp, bôn ba vất vả.

⒃, Quân tử không tại dã (không có quyền hành gì): Có Tứ sat tinh thủ thân mệnh lại gặp hãm địa, chính là cách này.

⒄, Lộc Suy Mã khốn: Hạn gặp Thất sát Lộc Mã ở đất Không Vong, chính là cách này.

⒅, Trong mệnh cung có Liêm Sát Tham Phá thất hãm, lại phùng sao Thất Sát, thì bần tiện.

★五、定凶局、恶局 – Xác định hung cục, ác cục.

Mệnh gặp hung cách và ác cách, phần nhiều dễ có tai nạn hung hiểm. Bất kể là hung cách hay là ác cách, khi đều qua hạn có sao Hóa Kị dẫn động, mới có hung tượng; Trái lại, khi gặp niên hạn Hoa Lộc dẫn động, nói chung đa số có chuyển biến tốt hoặc không có hung tượng.

1、凶格- Hung Cách

Trên đây là 3 tổ hợp kẹp mệnh thân là hung cách, thực ra là cung vị có 3 nhóm hung ác tinh đến kẹp là Không Kiếp, Hỏa Linh, Dương Đà đều là hung cách, chỉ bất quá việc hung của mỗi người không giống nhau mà thôi, hơn nữ việc ứng hung giống nhau phải gặp kẹp Sát hoặc Kị, còn cần khi niên hạn gặp Hóa Kị dẫn động sẽ ứng hung. Ví dụ: Dương Đà kẹp Sát, Hỏa Linh kẹp Sát, Không Kiếp kẹp Sát.

Thất Sát Dương Đà điệt tịnh (thay nhau tụ họp) hung cách: Thất Sát với Dương Đà đồng cung hoặc hội chiếu, Lưu niên lại gặp Dương Đà đến quấy nhiễu, đây gọi là “Thất Sát Dương Đà điệt tịnh (thay nhau tụ họp)”, khi chúng tụ họp cũng sẽ xuất hiện hung tượng.

Tam phương Sát tụ hung cách: Các cung Tam phương Tứ chính của một cung nào đó đều có Sát tinh, chính là cách này. Đương lúc hành hạn lại gặp Kị tinh quấy nhiễu hoặc Sát xâm, liền có Điệt Tịnh (thay nhau tụ họp) rõ ràng là hung tượng.

Song Kị kẹp Sát : Ba đời Kị tinh ở hai cung bên cạnh của Sát tinh (Năm sinh, Đại hạn, Lưu niên gọi là ba đời, khi suy tính những việc của trọng đại của bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên thì dùng đến cách này; Khi tính toán Lưu Thời, thì lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời cũng gọi là ba đời).

Dưới đây là những hung cách gặp Lộc trái lại trở thành cát cách

Linh Xương Đà Vũ: Tổ hợp 4 sao Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc, nếu khuyết một Đà La, Đà La của lưu niên có thể tổ thành, nếu tổ thành cách, gặp Lộc nhất định thấy cát, gặp kị nhất định có hung.

Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương hội: Tổ hợp Thiên Cơ, Thiên Lương, Dương Nhận ﹝ hoặc Đà La ﹞. Thiên Cơ chủ về cơ trí; Thiên Lương chủ về phân tích, Dương Đà chủ về có nghị lực. Điều mà tổ hợp sao này hình thành là “Lấy trí năng hóa thành vật chất” mà “từ tinh thần hóa thành vật chất” được thông suốt từ đầu đến cuối, dù là kết cấu nào thì cung không theo kịp.

Hình tù giáp (kẹp) Ấn: Tổ hợp 3 sao là Liêm Trinh ﹝ hóa khí tù ﹞, Thiên Tướng ﹝ hóa khí Ấn ﹞, Kình

Dương ﹝ hóa khí hình ﹞, Khi khuyết Kình Dương, có Đà La thay thế cũng thành. Khi Liêm Trinh Hóa

Lộc thì đầu óc thanh tĩnh, không hình thành ác niệm, Khi Liêm Trinh Hóa Kị, cấu kết với quan thương, đứng ở trung gian kiếm trác tư lợi, bụng đầy tham lam làm việc phạm pháp, hành vi nghị lực bất khuất lúc này của Kình Dương là trợ giúp Trụ Vương làm điều trái nghịch, do vậy mà khiến cho tính công chính của Thiên Tướng đã bị liên lụy và nghi vấn. Cách này rõ ràng có thiên hướng vi phạm pháp luận làm trái kỷ cương.

Liêm Trinh Thất Sát hội Dương Đà: Tổ hợp các sao Liêm Trinh, Thất Sát, Dương Nhận ﹝ Đà La ﹞, lộ thượng mai thi (trôn xác trên đường). Thất Sát là Tướng tinh, tính của Liêm Trinh là không ổn định sẽ khiến cho Thất Sát bị ảnh hưởng, dễ vì vậy mà xuất hiện hành vi đánh giá sai thực lực giữa địch và ta hoặc đi theo địch bán nước, bước tiêp theo là làm trái pháp luật vi phạm kỷ cương, khiến cho thân bại danh liệt hoặc đầu lìa khỏi cổ, nhưng khi cách cục bị Kị làm cho khởi phát! Cách này rõ ràng có thiên hướng phát sinh sự cố ngoài ý muốn.

Mã đầu đới kiếm cách: Kình Dương độc tại Ngọ. Cung Ngọ là đất hỏa vượng, kim nhập Ngọ cung, trong nháy mắt mà có thể luyện ra kiếm sắc, treo ở đầu Ngựa, uy lực hiển đạt lớn, uy chấn biên cương, tuy phú quý, nhưng xung không bền lâu.

Cự Hỏa Dương ﹝ Đà ﹞: Tổ hợp 3 sao Cự Môn, Hỏa Tinh, Kình Dương, cũng tính là “Kẹp Sát thành

cách”. Tính tích cực của Hỏa Tinh và tính nghị lực tiến thử của Dương Nhận, đây là hai yếu tố trọng yếu của sự thành bại! Còn như là thành hoặc bại, đều ở sự dẫn động của Lộc Kị!

Cự Linh Dương ﹝ Đà ﹞: Tổ hợp 3 sao Cự Môn, Linh Tinh, Kình Dương, cũng tính là “Kẹp Sát thành

cách”. Tính tích cực của Linh Tinh và tính nghị lực tiến thủ của Dương Nhận, đây là hai yếu tố trọng yếu của sự thành bại! Còn như là thành hoặc bại, đều ở sự dẫn động của Lộc Kị!

Hiệp Sát cách: Bất luận chính tinh nào bị kẹp bởi 4 nhóm sát tinh là Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương thì cách cục này được hình thành. Sát cách không có chính tinh, thì không có mực tiêu cố gắng; Sát cách có chính tinh, dựa vào lý tính của sao cũng có sự không giống nhau, xuất hiện việc theo đuổi không giống nhau. Như Tử Vi và Hỏa Tinh, Kình Dương đồng cung hoặc hội chiếu, thì đặc tính của Tử Vi liền trở thành mục tiêu theo đuổi chủ yếu.

Dưới đây là một số hung cách khi gặp Không Vong mà phá cách.

Hỏa Dương Không: Tổ hợp 3 sao Hỏa Tinh, Kình Dương, Thiên Không, “Hỏa Dương” cách bị Thiên Không xung phá.

Hỏa Đà Không: Tổ hợp các sao Hỏa Tinh, Đà La, Thiên Không, “Hỏa Đà” cách bị Thiên Không xung phá.

Hỏa Dương Kiếp: Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Dương Nhận, Địa Kiếp. “Hỏa dương” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Hỏa Đà Kiếp: Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Đà La, Địa Kiếp. “Hỏa Đà” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Linh Dương Không: Tổ hợp sao Linh Tinh, Dương Nhận, Thiên Không, “Linh Dương” cách bị Thiên Không xung phá.

Linh Đà Không: Tổ hợp sao Linh Tinh, Đà La, Thiên Không, “Linh Đà” cách bị Thiên Không xung phá.

Linh Dương Kiếp: Tổ hợp Linh Tinh, Dương Nhận, Địa Kiếp, “Linh dương” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Linh Đà Kiếp: Tổ hợp Linh Tinh, Đà La, Địa Kiếp, “Linh đà” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Tám tổ hợp cách cục này, chính là cách cục phản hung thành cát đó là “Hỏa không thì phát” và “Kim không thì kêu”. Lấy đồng cung được song Lộc phù trợ là cát tường nhất (đặc biệt khi hình thành “Song Lộc phù Lộc” thì đẹp nhất), lực bạo phát mạnh. Nhưng nếu gặp Kị kẹp, đột nhiên xuất hiện những tai nạn khiến người ta không kịp trở tay. Khi gặp Lộc tinh chiếu nhập thì cũng có thể xuất hiện một ít cát tường, nếu làm những nghề nghiệp như nghiên cứu, thiết kế, khai phá nhân tài, thì có thể có những phát huy thích hợp. Nếu là Kị tinh xâm nhập, thì có xuất hiện tình hình là “hung mà không hoàn toàn hung”, tuy thương tổn về nguyên khí, nhưng lại có cơ hội trở lại từ đầu, bởi vì khi Lộc tinh ở đại hạn hoặc lưu niên đến liền có thể khiến nó ” liền phát mà lại kêu”.

Dương Đà giáp Kị, Hỏa Linh giáp Kị, Không Kiếp giáp Kị, goị là cách hung ác, gặp phải càng hung, trong đó sao Hóa Kị được tính cả sao Hóa Kị ở nguyên cục, đại hạn, lưu niên.

Hóa Kị hiệp Sát thành cách: Bất luận một tổ hợp cách cục sau hình thành là Kỵ tinh hiệp Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương, Linh Đà đều gọi là “Hóa Kị hiệp sát thành cách”. Tam phương của một cung nào đó hội nhập Hóa Kị hoặc tọa nhập Hóa Kị, lại hội nhập hoặc tọa nhập 4 tổ hợp Sát cách là Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương, Linh Đà, cũng gọi là “Hóa Kị hiệp Sát thành cách “, cách này không thể có bóng dáng của Không Kiếp.

Tam phương kị Sát cách: Khi Cung tam phương tứ chính của một cung nào đó đều sát tinh và Hóa Kị tinh,

đó chính là cách này. Và có sự khác biệt sát tụ hung cách của tam phương là: Sát tụ cách không có sao Hóa Kị, Kị sát cách có sao Hoa Kị.

Tam Kỳ xung khắc cách: Hóa Kị, Hóa Quyền, Hóa Khoa đồng thời hội nhập vào cung nào đó, thì cung này liền hình thành “Tam Kì xung khắc”, Tam Kì xung khắc, một loạt thê thảm, nhất định có việc tai họa.

Còn có rất nhiều cách cục khác, chỉ không liệt ra hết được mà thôi, trong chương tiết 8,9,10 sẽ có luận thuật tỉ mỉ.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Nhóm Thiên Hỏa Đồng Nhân biên dịch)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tiết 4: Khái luận về cách cục.

Cái gọi là cách cục, chính là kết cấu quần thể tổ hợp giữa các tinh diệu và tinh diệu, mỗi một tổ hợp cung đều có thể trở thành một cách cục. Cách cục mà chúng ta nói là một số cách cục cát hung thường dùng được tiền nhân tổng kết ra, nó là tiêu chí cát hung, là một loại tượng của đại cục, một xu thế lớn. Cát cách, tức phú quý cách là sự tổ hợp tốt giữa sao với sao, hung cách, tức cách cục bền tiện chính là tôt hợp không tốt giữa các sao với nhau, Cách cục cát hung là kinh nghiệm tổng kết của tiền nhân để lại, nó rất trọng yếu, khi luận mệnh điều cần chú ý đầu tiên là xem ra cách cục nào, thành cách cục cát hung thì cũng lấy cách cục để luận cát hung họa phúc. Nhưng, cách cục và ca quyết đều có giới hạn và điều kiện sử dụng của nó, đặc biệt là kinh tế chính trị, hoàn cảnh địa lý, thói quen sinh hoạt giữa thời hiện đại và cổ đại không giống nhau, khi kết luận có thể có sai biệt, hoặc giả chỉ có ý nghĩa cơ bản, mà nội dung cụ thể lại có khác biệt, đây là điều cần chú ý, mà không thể rập khuôn máy móc. Tiết này xem như là kiến thức sơ bộ, lại bày ra những định nghĩa về cách cục, nội dung luận đoán phân tích cục thể về cách cục đã đề cập ở các chương tiết thứ 8, 9, 10

Cách cục cũng có phân ra mức độ cường nhược, phương pháp phán đoán là xem mức độ thất hãm miếu vượng của sao ở cung nó đóng, và những tình huống liên quan đến sự phù ức cát hung của sao. Cách cục phú quý gặp chính tinh miếu vượng, cát tinh nhiều vô sát chính là cách cục cường mà có lực; Trái lại chính tinh thất hãm thì chính là cách cục suy nhược mà vô lực; gặp sát kị là phá cách (đặc biệt như Hỏa Tham cách làm ví dụ), hào nhoáng bên ngoài, nhưng phúc trạch có tổn hại, cho dù phú quý thì cũng có nhiều khuyết hãm (phá cách cũng nên xem chế hóa, chế sát có lực mạnh cũng có thể thành cách cục tốt tuy rằng có mang chút khiếm khuyết). Cách cục bần tiện gặp chính tinh miếu vượng, cát tinh nhiều thì bớt hung, gặp chính tinh thất hãm, sát nhiều thì tăng thêm độ hung hiểm.

Đối với cách cục, cần biết vận dụng khéo léo, nếu không biết vận dụng thì cũng không thể dùng được, chỉ cần căn cứ vào lý luận của mệnh cung và tam phương tứ chính, giáp cung, tứ hóa tiến hành phân tich luận đoán là có thể được

★一、富贵格局. Cách cục phú quý

Dưới đây xin liệt ra một số cách cục phú quý chủ yếu, còn các cách cục phú quý khác đã được tường thuật rõ ràng ở chương 8 và chương 9, ở đây đa số là tổ hợp mệnh cung, vừa phú vừa quý, quý khí tốt hơn phú khí. Cách cục dưới đây, nói chung cần tổ hợp mệnh cục hoàn toàn phù hợp, chính tinh ở chủ cung miếu vượng, không gặp Sát Kị Không vong, 3 cái này nếu khuyết một đều không thể trở thành cách cục phú quý được; đặc biệt là cách cục đặc thù làm ví dụ. (Chính tinh chủ cung gặp sát thì phá cục, tam phương gặp sát không nhất định là phá cục, nhưng cũng chủ có áp lực gây trở ngại, các cục đặc thù làm ví dụ chẳng hạn). Chú ý nhất là cần phải lấy chính tinh cung mệnh (chủ cung) làm chủ.

Tam Kỳ giai hội cách: Các cung Mệnh Tài Quan Thiên Di hội đủ 3 cát tinh Hóa Khoa Hóa Quyền Hóa Lộc, không có Sát xung phá chính là nó. Phùng các ác tinh như Tứ Sát Không Kiếp thủ chiếu hội hợp thì phá cục. Tổ hợp tốt nhất là Khoa tọa mệnh, Lộc tọa Tài, Quyền tọa Quan, Chính tinh cung mệnh miếu vượng vô sát, mà lại được vận phù trợ; Lộc tọa mệnh, cung Tài phân chia tọa Khoa Quyền, hoặc Quyền tọa mệnh, Tài Quan phân chia tọa Lộc Khoa, thì chỉ tính vào cấp độ thứ 2; Tam kỳ không thích trùng điệp, nếu trùng điệp thì không được xem là chân cách, nhưng nếu mệnh cung miếu vượng vô sát thì vẫn có phú quý. Người nhập cách này, có chí hướng lớn, thường có được nhiều cơ hội tốt, có những vận tốt bất ngờ, công danh thành tự. Nếu chính tinh cung mệnh là cát tinh phú quý miếu vượng, như các sao Tử Phủ Vũ Tướng Nhật Nguyêt Lương Đồng Cơ, tam hợp chính tinh lại miếu vượng, gia hội cát tinh, thì chính là cách dương danh thế giới, cục giàu đại quý; Chính tinh cung mệnh miếu vượng vô sát, tam phương cát hung hỗn tạp, vẫn có thể phú quý nổi danh, duy chỉ kém hơn chút mà thôi, chính tinh mệnh cung không vượng vô sát cũng có thể có phú quý; mệnh cung thất hãm lại hội thêm nhiều các sao Sát Kị, thì tuy có tài hoa cũng là có tài năng mà không gặp thời. Phần đa có chỗ khác thường so với người bình thường. Tổ hợp mệnh cung đại phú đại quý khoảng chừng có: Thiên Lương Tý Ngọ, Thiên Đồng Thìn Tuất, Thiên Đồng Mão Dậu, Thái Âm Thìn Tuất, Thiên Cơ Tý Ngọ, Vũ Tương Dần Thân, Liêm Sát Sửu Mùi, Liêm Tướng Tý Ngọ, Đồng Âm cung Tý, còn lại nhiều tổ hợp khó có cách đại phú đại quý, nhiều nhất cũng chỉ là phú quý trung bình mà thôi, ngoài ra, cung vị một số hóa tinh này đóng lại không có thể có tự hóa, ví dụ Mệnh cung tọa Lộc gặp Tự Hóa Lộc, tức phá Lộc bất cát, nếu Tự Hóa Kị cũng là bất cát. Lại có mức độ cao thấp của cách cục còn có liên quan đến Hóa tinh, Quyền tinh hỉ Hóa Quyền, Tài Tinh hỉ Hóa Lộc, Khoa tinh hỉ hóa Khoa, cách cục gặp được thì tương đối cao.

Tam Kỳ triều đẩu cách: Tử Vi tọa mệnh, tam phương được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, vô Sát xung phá, chính là cách này. Giải thích rõ nó giống Tam Kỳ giai hội cách.

Tử Phủ đồng cung cách: Tử Phụ cùng tọa ở cung Dần Thân, lại có Tả Hữu Khôi Việt thủ chiếu, vô Sát xung phá, mới hợp cách này, chủ cả đời phúc dày. Tử Vi và Tả Hữu đồng cung càng cát. Không có hai cát tinh Tả Hữu, thì không phải cách này.

Tử Phủ triều viên cách: Tử Vi, Thiên Phủ ở tam phương hội chiếu hoặc ở trên dưới kẹp mệnh cung, Chính tinh cung mệnh phải miếu vượng gia hội thêm cát tinh, mới hợp cách này, không quý thì phú. Gặp cát tinh nhiều mà không có sát tinh thì chức vị đến công khanh, có thêm Sát Kị tinh là người bình thường. Như Đẳng Tiểu Bình, sinh giờ Tý ngày 12 tháng 7 năm 1904.

Tử Phủ giáp (kẹp) mệnh cách: Tử Phủ ở hai cung bên cạnh cung mệnh, Mệnh cung cư Dần Thân, vô sát gia hội thêm cát tinh mới hợp cách này mà có phú quý, không có cát tinh chỉ là thường nhân.

Nhật Chiếu Lôi Môn cách: Thái Dương cư cung Mão thủ mệnh, người sinh ban ngày hợp cách này. Hội lục cát tinh, người sinh Giáp Ất mà sinh ban đêm cũng hợp cách này. Có thêm tứ Sát tuy phá cách nhưng cũng chủ no ấm.

Tướng Tinh đắc địa cách: Vũ Khúc miếu vượng tọa mệnh, vô Sát có cát chính là cách này.

Tứ chính đồng lâm cách: Tử Phủ tọa mệnh, Nhật Nguyệt ở vượng cung hôi tề ở cung mệnh, chính là cách này

Phụ Bật củng chủ cách: Tử Vi tọa mệnh, Phụ Bật ở tam phương hội chiếu hoặc kẹp nhau ở hai cung trên dưới bên cạnh.

Cực hướng ly minh cách: Tử Vi tọa mệnh tại Ngọ cung, vô Sát mà có cát tinh Tả Hữu Khôi Việt Khoa Quyền Lộc tọa thủ hội chiếu. Người sinh Giáp Đinh Kỷ, đại phú đại quý, vị chí công khanh..

Quân thần khánh hội cách: Bao sao Tử Vi và Tả Hữu đồng cung thủ mệnh, hoặc Tử Vi tọa mệnh, Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt Phủ Tướng ở tam phương hội chiếu, không có Sát Kị thủ chiếu mới hợp cách này, đại phú đại quý; những sao trên cần thành sao đôi gia hội, nếu chỉ được đơn tinh gia hội mà nhiều dù có thành cách, nhưng tương đối hư phù vô lực, chỉ giống như mang chút mùi vị mà thôi, gặp Sát Kị thủ chiếu là phá cách, cho dù phú quý cũng chủ về gian trá.

Nhật Nguyệt Giáp Mệnh cách: Mệnh cung cư Sửu Mùi, Nhật Nguyệt miếu vượng, giáp nhau ở hai cung bên canh trên dưới Mệnh cung. Cần chính tinh mệnh cung vượng cát mới hợp cách này.

Nhật Nguyệt Tịnh Minh cách: Cung Sửu an mệnh, Thái Dương ở Tị, Thái Âm ở Dậu cung nhau chính là cách này. cần chính tinh cung mệnh vượng cát mới hợp cách.

Nhật Nguyệt chiếu mệnh cách: Sửu cung an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Mùi; cung Mùi an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Sửu, xung chiếu nhau đúng là cách này.

Nhật Lệ Trung Thiên cách: Thái Dương ở cung Ngọ thủ mệnh, vô sát tinh lại có thêm cát tính là đúng cách này. Người sinh Canh Tân, lại sinh ban ngày mới hợp cách này.

Nhật xuất Phù Tang cách: Thái Dương ở cung Mão thủ mệnh, người sinh ban ngày thì hợp cách. (tên gọi khác là Nhật Chiếu Lôi Môn cách).

Phủ Tướng Triều Viên Cách: Phủ Tướng ở tam phương củng hợp mệnh cung, chính tinh cung mệnh miếu vượng mà có cát vô sát, mới hợp cách này, phú quý mà chủ lục thân nhân duyên hậu. Tối hỉ Tướng cu Tý phủ cư Thân, Tướng cư Ngọ Phủ cư Dần, Tướng cư Thân Phủ cư Thìn.

Tọa quý hướng quý cách: Thiên Khôi tọa mệnh, Thiên Việt ở cung xung chiếu; hoặc Thiên Việt tọa mệnh,Thiên Khôi ở cung xung chiếu;Hoặc mệnh thân đều chiếm một sao. Vẫn cần chính tinh cung mệnh miếu vượng, lại gia hội thêm cát tinh mới hợp cách này. là người thông minh bac học, cuộc đời được nhiều quý nhân giúp đỡ, gặp hung hóa cát, gặp nạn hóa cát tường. Là giả cách, nếu mệnh cung không có cát tinh, chính tinh thì không tốt, chủ chủ về được nhân duyên mà thôi, không thể phú quý.

Thạch trung ẩn ngọc cách: Cự Môn tọa mệnh ở cung Tý hoặc cung Ngọ, có Khoa Quyền Lộc một trong 3 chiếu hội, vô sát xung phá

Thất Sát triều đẩu cách: Thất Sát tọa mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, Tử Vi ở cung xung chiếu, cũng cần lục cát tinh thủ hội mới đúng cách, thêm sát tinh là không đúng cách này.

Song Lộc triều viên cách: Lộc Tồn, Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu Mệnh cung, chính là cách này, cũng gọi là song Lộc giao hội, gặp ở nguyên cục, đại hạn, lưu niên có Hóa Lộc giao hôi cũng thành cách, dễ phát tài. (ở hai cung Tài Quan gọi là hợp lộc, ở cung Thiên Di gọi là Củng Lộc), cần chính tinh cung Mệnh vượng cát mới hợp cách này.

Song Lộc phụ mệnh cách: Lộc Tồn, Hóa Lộc đồng cung hoặc giáp Mệnh cung, chính là cách này; khi lại gặp niên hạn mệnh cung lại phùng Hóa Lộc, dễ là song Lộc phụ Lộc cách, cát lực rất lớn, cho dù nguyên cục thành hung cách cũng sẽ biến hóa về phương hướng tốt. Cần mệnh cung chính tinh miếu cát mới hợp cách.

Lộc hợp uyên ương cách: Lộc Tồn Hóa Lộc một trong 2 so thủ mệnh, ngoài ra sao còn lại đến hợp, hoặc chi nhau ra thủ ở hai cung mệnh thân. Cần chính tinh cung Mệnh miếu cát mới hợp cách.

Minh châu xuất Hải: Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi, Mệnh cung tọa Mùi. Tối kị Sát tinh xung phá, rất kỵ Dương Đà.

Dương Lương Xương Lộc cách: Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn ở tam phương tứ chính tập hợp chiếu mệnh.

Nguyệt Lãng Thiên Môn cách: Thái Âm ở Hợi cung tọa mệnh, quý ở người sinh buổi tối. Tam phương có cát củng, chủ đại quý. Người sinh Bính Đinh chủ quý, người sinh Nhâm Quý chủ phú. Vô cát chỉ là công nhân viên chức tạp vụ.

Nguyệt sinh thương Hải: Thái âm ở cung Tý thủ cung Điền Trạch, đó chính là cách này. Người sinh ban đêm hợp cách.

Tài Ấn giáp Lộc cách: Sao Lộc Tồn thủ mệnh, hai sao Vũ Khúc Thiên Tướng kẹp Lộc Tồn, không có sát Kị xung phá chính là cách này.

Văn tinh củng mệnh cách: Tam phương của Mệnh cung có văn tinh chiểu củng là các sao Xương Khúc Khôi Việt Hóa Khoa, là đúng cách này. Ngụy cách, cần mệnh cung vượng cát mới có thể phú quý.

Cự Nhật đồng cung cách: Thái Dương Cự Môn cùng đóng tại Dần Thân thủ mệnh, có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt đồng thủ hoặc củng chiếu mới đúng cách, thêm sát tinh là không phải. Được Vũ Tướng giúp kẹp ở hai bên Mệnh cung kẹp lại càng cát.

Lộc Mã bội Ấn cách: Lộc Tồn (Hóa Lộc cũng có thể được), Thiên Mã và Thiên Tướng đồng cung thủ mệnh, chính là cách này, chủ có tài có thế có địa vị.

Cơ Nguyệt Đồng Lương cách: Tam phương của Mệnh cung có 4 chính tinh tụ hội là Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, có cát mà vô sát Kị, chính là cách này, gia hội thêm Xương Khúc là chuẩn nhất. Đa số là công tác quản lý hoặc công tác kỹ thuật ở các xí nghiệp lớn hoặc cơ quan công vụ.

Một số cách cục phú quý khác (Những cách cục này đa số là ngụy cách, cần phân tích một cách tỉ mỉ, chú sự vượng suy cát hung của chính tinh.

⑴ “Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài phúc” : Quyền Lộc thủ ở hai cung Tài Bạch và Phúc Đức, chính tinh mệnh cung miếu vượng có cát tinh nhiều, nhất định chủ có vinh hoa.

⑵ “Khoa Quyền Lộc củng, Danh Dự chiêu chương”: Khoa Quyền Lộc phân thủ ở 3 cung Mệnh, Tài, Quan, chính tinh cung Mệnh miếu vượng có cát diệu vô sát tinh chính là cách này, vị đến tam công (Tam công: ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm: thái sư, thái phó, thái bảo). Thực cách này là Tam Kỳ giai hội cách.

⑶ “Khoa minh Lộc ám, vị chí tam công” : Ví dụ người sinh Giáp, an Mệnh cung Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, mà Lộc Tồn cư Dần, thì Dần và Hợi hợp, cho nên gọi là Khoa Minh Lộc ám. Thường là cung Mệnh có Hóa Khoa, Lộc tồn lục hợp mới đúng cách này, vẫn cần chính tinh mệnh cung miếu vượng cát tinh nhiều.

⑷ “Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, nhất đình là bậc công hầu”: Tử Vi cư Ngọ, Phủ cư Tuất, Nhật cư

Mão, Nguyệt cư Dậu, lại gặp Khoa Quyền Lộc tọa thủ Mệnh Thân là đúng cách này. Nếu thêm Sát Kị Không Vong thì không phải cách này. (Nếu hai cung Tài Quan có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc cũng đúng).

⑸ “Mộ gặp Tả Hữu, tôn cư Bát Tọa chi quý “, “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử”: Cung Tứ Mộ an mệnh, hai sao Tả Hữu đồng thủ mới đúng. Hoặc gặp nó ở 3 cung Tài Quan Di, cũng cát. Thông thường thì không tính là cách cục phú quý, chỉ chủ về được trợ lực lớn, cần chính tinh miếu cát vô sát, mới chủ phú quý.

Mệnh cư cung Thân, Thiên Đồng ở cung Tý, Thiên Lương ở cung Dần, lại được Khoa Quyền Lộc Tả Hữu củng xung, mới là mệnh tài năng xuất chúng.

⑺ Nhật Nguyệt vượng địa thủ thân Mệnh, tam phương Xương Khúc Khôi Việt đến củng; Hoặc mệnh tọa

Xương Khúc, Nhật Nguyệt ở tam phương đên củng, lại gặp Khôi Việt, chủ phú quý.

⑻ “Phụ Bật ngộ Tài Quan, được hoàng đế ban áo gấm, y thực”: Cung Tài Bạch, cung Sự Nghiệp có Phụ Bật đến củng mệnh, không luận vượng suy của mệnh cung, chủ cuộc đời y thực phong túc. Chính tinh mệnh cung miếu vượng thêm cát tinh mới có thể phú quý.

⑼ “Cự Lương tương hội Liêm Tham tịnh, Uyên ương hợp Lộc nhất thế vinh” : Câu trước là chỉ 4 sao Cự

Lương Liêm Tham ở tam phương của thân mệnh hội tụ, miếu địa và hội cát tinh; Câu sau là chỉ 4 sao kể trên ở tam phương của cung Phu Thê, mà mệnh hoặc Phu Thê cung phùng Lộc Tồn Hóa Lộc thủ hợp, đều phú quý.

⑽ “Minh Lộc ám Lộc, cẩm thượng thêm hoa” : Người sinh Giáp, lập mệnh tạo cung Hợi, được Hóa Lộc tọa thủ, lại được Lộc tồn cung Dần đến hợp, là đúng cách này. Phàm Mệnh cung có một lộc, phương lục hợp lại có một Lộc, đều phải. (Minh Lộc chỉ cung Mệnh, ám Lộc chỉ lục hợp, tam hợp hoặc đối cung).

⑾” Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú nhanh nhẹn, Âm Dương Tả Hữu tối hiền từ”: Xương Khúc Lộc Cơ thủ mệnh, không có thêm tứ sát, chủ nhân lỗi lạc anh hoa, thông minh tú lệ, cũng chủ phú quý; Âm Dương Tả Hữu tọa mệnh, không thêm sát Kị, chủ nhân thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, phú quý.

⑿ “Thái Dương Văn Xương đồng thủ ở Quan Lộc, hoàng điện thủ ban chi quý”: Thái Dương và Văn Xương đồng thủ ở cung Quan lộc, gia hội cát tinh, chủ phú quý, quý có thể làm đến chức thủ tướng.

⒀ “Thái Âm Văn Khúc đồng thủ Phu thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh” : Thái Âm và Văn Khúc đồng thủ ở cung Phu Thê, lại gặp cát củng, vận hạn lại đến gặp vận này, nam nữ thi đạt cao trung, dành được quan quý, nữ lấy được chồng quý được phong tặng.

⒁ “Lộc văn củng mệnh, quý mà còn hiền”: Lộc Tồn ở cung Tài bạch, Xương Khúc ở cung Quan Lộc củng chiếu Mệnh cung, là người phú quý mà hiền minh.

⒂ “Khoa Quyền Lộc giáp vi quý cách”: Ba hóa diệu là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa trong đó có hai sao ở hai bên mệnh cung, tức là hai cung bên cạnh tương kẹp cung mệnh, vẫn cần chính tinh cung mệnh miếu vượng mà không có sát tinh lại hội thêm cát tính, mới chủ đại phú.

①, Vũ Tham thủ Tài trạch, hoạnh phát; Tử Phủ Vũ Khúc thủ cung Tài bạch, lại thêm Quyền Lộc, nhất định là phú ông, phát khi gặp hạn thứ 2.

②, Tài Ấn giáp ấm cách: Thiên Lương thủ mệnh, Vũ Tương kẹp Mệnh cung; Hoặc Thiên Lương thủ cung Điền trạch, Vũ Tương đến kẹp, tức là phú cục.

③, Nhật Nguyệt giáp Tài cách: Vũ Khúc thủ mệnh, Nhật Nguyệt đến kẹp; hoặc Vũ Khúc thủ Tài Bạch, Nhật Nguyệt đến kẹp, chính là cách này. Thiên Phủ thủ mệnh, Nhật Nguyệt đến kẹp cũng giống nhau. Cần thêm cát tinh, không phú thì quý.

④, Tài Lộc giáp Mã cách: Thiên Mã thủ mệnh, Vũ Lộc lai đến, chính là cách này. Gặp sinh vượng càng đẹp.

⑤, Ấm Ấn củng Thân cách: Thân lâm cung Tài bạch, Lương Tướng ở tam phương củng chiếu, chính là cách này, kị tọa Không Vong.

⑥, Nhật Nguyệt chiếu bích cách: Nhật Nguyệt lâm cung Điền trạch, lại còn ở cung tứ mộ.

⑦, Kim xán quang huy cách: Thái Dương thủ mệnh tại Ngọ cung, đúng là cách này. Người sinh năm Đinh Tân hoặc Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn chủ phú.

⑧, Lộc Tồn thủ Điền Tài, tài sản vô số: sao Lộc Tồn thủ ở cung Điền Trạch hoặc cung cung Tài bạc, bất luận có một sao Không vong nào thì phá cách, chủ đại phú.

⑨, Tài ấm tọa ở Thiên Di, nhất định là nhà thương nhân lớn: Tài tức Vũ Khúc, ấm tức Thiên Lương, hai sao này hoặc có một Hóa Quyền Hóa Lộc, cùng với cát tinh tọa ở cung Thiên Di, chính là cách này. Nếu thêm sát kị thì bình thường.

Những cách cục phú quý trên đa số ở hai cung Tài và Điền trạch, cho nên chủ về phú nhiều hơn quý. Nếu phùng chính tinh miếu vượng, có cát tinh thủ chiếu tất giàu.

Vận hạn có ảnh hưởng rất lớn đến phú quý, vậy nên kết hợp để xem. Nếu các cung Mệnh Tài Phúc Điền đều tốt, tiền vận tốt thì giàu trước; hậu vận tốt thì giàu sau; tiền hậu vận đều tốt thì cả đều đều giàu có; Tiền vận tốt mà hậu vận không tốt thì tiên phú hậu bần.

★四、定贫贱局 – Định cách cục bần hàn

⑴, “Bần tiện từ nhỏ, là Kiếp Không lâm hai cung Tài phúc” : Mệnh không có phú quý cách, chính tinh lại không miếu vượng, Kiếp Không phân đoạt ở hai cung Tài Bạch Phúc Đức, mà còn còn chính tinh đồng cung bất vượng, chủ về cuộc đời bần hàn; nếu gặp thân mệnh cát, chủ về người này tiêu pha phung phí xem nhẹ tiền bạc, tài đến tài lại đi. Thân mệnh gặp nó là đúng, tức cung Mệnh thân có Không Kiếp phân đoạt, bần tiện, lại thêm Cô Thần Quả Tú, thì cô quả bần tiện. Không Kiếp đến kẹp mệnh càng hung.

⑵, Sinh bất gặp thời: Mệnh tọa hãm cung lại Không Vong (Chính Không trọng, Phụ Không Nhẹ), Không Kiếp.

⑶, Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa Mệnh Thân, ngộ Không, Kiếp, Kị, Không Vong đến xung phá, gọi là “Lộc gặp xung phá, cát xứ tàng hung” (thường thường trước thành sau bại, tiền phú hậu bần). Hành hạn gặp như vậy đều phải. (Hai sao Không Kiếp cùng đến càng hung).

⑷, Mã lạc Không Vong, cả đời bôn tẩu: Thiên Mã gặp Không Vong, tất chủ bôn ba vất vả mà vô công. Như sinh năm Giáp, có chính Triệt Không tại Thân Dâu, nếu an mệnh ở Thân, là mã gặp Không Vong. Nếu gặp chính Không thì nặng, gặp phụ Không thì nhẹ. (gặp Tuần Không ở lưu niên cũng phải).

⑸, Nhật Nguyệt thất hãm, lại gặp Cự Môn: Nhật Nguyệt hãm địa thủ mệnh, gặp Cự Môn đồng cung hoặc chiếu.

⑹, Vũ Khúc Liêm Trinh phân thủ cung Mệnh Thân, (hai sao lạc hãm thêm Sát Kỵ mới đúng; (Liêm Trinh rơi vào hãm cung mới là tù tinh).

⑺, Phá Quân thủ mệnh, cư hãm địa, cô bần. (Phá Quân và Văn Khúc đồng thủ cung Mão, là kẻ sĩ cả đời bần khổ).

⑻, Tứ Sát thủ Mệnh Thân cung, gặp Tham Lang, Kình Dương giao hội, mà nhiều cát thất hãm.

⑼, “Đặng thông chết đói, vận gặp đất Đại Hao”: Cung Tý an mệnh, hạn thứ hai hành đến đất Đại Hao, lại gặp Ác diệu sát kị tinh, chính là cách này.

⑽, Ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức đều có Không Kiếp, Sát Kị, là mệnh tăng đạo, nếu không phải vậy thì là mệnh cô đơn bần tiện.

⑾, Mệnh Thân gặp các sao Liêm Phá Vũ và Hóa Kị, lại phùng Không Kiếp, Kình Đà đến kẹp, nhất định là hạ cách cô hàn. Nếu Lộc Tồn ở đất sinh vượng, tuy Kình Đà kẹp, cung không phải là hạ cách. Lại như Kình Đà, Không kiếp không cùng lúc tương kẹp ở hai bên, mà ở tam gặp Hóa Quyền Hóa Lộc, cũng không phải hạ cách. Nhưng phùng sát vận có phá bại.

⑿, Mệnh cung vô chính diệu, chỉ thấy Thiên Không Địa Kiếp tọa thủ, tam phương không có cát tinh đến cứu, chủ về không tụ Tài, bần tiện, phiêu lưu, bệnh tật khổ sở, bản cung và tam phương thêm cát tinh cũng không được. Bản cung lại gặp Sát tinh đa số yểu chiết.

⒀, “Sinh gặp bại địa, phát cũng hư thương; tuyệt sứ phùng sinh, thương mà không bại”: Nhưng người thủy cục an mệnh tại Ngọ, là tuyệt địa, chính là cách này. Nếu như có kim tinh đồng cung đến sinh, thì là có cứu. Phàm Dần Thân Tị Hợi là tứ Tuyệt, cũng là tứ sinh.

⒁, “Hao cư Lộc vị, khất thực ven đường” : Phá Quân cư cung Sự Nghiệp, lại gặp Dương Kị, và người sinh Dần Ngọ Tuất mệnh tọa cung Ngọ, người sinh Tị Dậu Sửu mệnh tọa cung Dậu, người sinh Hợi Mão Mùi mệnh tọa cung Mão, người sinh Thân Tý Thìn mệnh tọa cung Tý đều phải.

⒂, “Kị ám đồng cư Mệnh Tật, khốn nhược vô lực”: Như các cung Mệnh Thân Tật ách gặp Cự Môn Dương Đà cùng thủ, thì nghèo khó yếu nhược tàn phế, phá sạch tổ nghiệp, bôn ba vất vả.

⒃, Quân tử không tại dã (không có quyền hành gì): Có Tứ sat tinh thủ thân mệnh lại gặp hãm địa, chính là cách này.

⒄, Lộc Suy Mã khốn: Hạn gặp Thất sát Lộc Mã ở đất Không Vong, chính là cách này.

⒅, Trong mệnh cung có Liêm Sát Tham Phá thất hãm, lại phùng sao Thất Sát, thì bần tiện.

★五、定凶局、恶局 – Xác định hung cục, ác cục.

Mệnh gặp hung cách và ác cách, phần nhiều dễ có tai nạn hung hiểm. Bất kể là hung cách hay là ác cách, khi đều qua hạn có sao Hóa Kị dẫn động, mới có hung tượng; Trái lại, khi gặp niên hạn Hoa Lộc dẫn động, nói chung đa số có chuyển biến tốt hoặc không có hung tượng.

1、凶格- Hung Cách

Trên đây là 3 tổ hợp kẹp mệnh thân là hung cách, thực ra là cung vị có 3 nhóm hung ác tinh đến kẹp là Không Kiếp, Hỏa Linh, Dương Đà đều là hung cách, chỉ bất quá việc hung của mỗi người không giống nhau mà thôi, hơn nữ việc ứng hung giống nhau phải gặp kẹp Sát hoặc Kị, còn cần khi niên hạn gặp Hóa Kị dẫn động sẽ ứng hung. Ví dụ: Dương Đà kẹp Sát, Hỏa Linh kẹp Sát, Không Kiếp kẹp Sát.

Thất Sát Dương Đà điệt tịnh (thay nhau tụ họp) hung cách: Thất Sát với Dương Đà đồng cung hoặc hội chiếu, Lưu niên lại gặp Dương Đà đến quấy nhiễu, đây gọi là “Thất Sát Dương Đà điệt tịnh (thay nhau tụ họp)”, khi chúng tụ họp cũng sẽ xuất hiện hung tượng.

Tam phương Sát tụ hung cách: Các cung Tam phương Tứ chính của một cung nào đó đều có Sát tinh, chính là cách này. Đương lúc hành hạn lại gặp Kị tinh quấy nhiễu hoặc Sát xâm, liền có Điệt Tịnh (thay nhau tụ họp) rõ ràng là hung tượng.

Song Kị kẹp Sát : Ba đời Kị tinh ở hai cung bên cạnh của Sát tinh (Năm sinh, Đại hạn, Lưu niên gọi là ba đời, khi suy tính những việc của trọng đại của bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên thì dùng đến cách này; Khi tính toán Lưu Thời, thì lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời cũng gọi là ba đời).

Dưới đây là những hung cách gặp Lộc trái lại trở thành cát cách

Linh Xương Đà Vũ: Tổ hợp 4 sao Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc, nếu khuyết một Đà La, Đà La của lưu niên có thể tổ thành, nếu tổ thành cách, gặp Lộc nhất định thấy cát, gặp kị nhất định có hung.

Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương hội: Tổ hợp Thiên Cơ, Thiên Lương, Dương Nhận ﹝ hoặc Đà La ﹞. Thiên Cơ chủ về cơ trí; Thiên Lương chủ về phân tích, Dương Đà chủ về có nghị lực. Điều mà tổ hợp sao này hình thành là “Lấy trí năng hóa thành vật chất” mà “từ tinh thần hóa thành vật chất” được thông suốt từ đầu đến cuối, dù là kết cấu nào thì cung không theo kịp.

Hình tù giáp (kẹp) Ấn: Tổ hợp 3 sao là Liêm Trinh ﹝ hóa khí tù ﹞, Thiên Tướng ﹝ hóa khí Ấn ﹞, Kình

Dương ﹝ hóa khí hình ﹞, Khi khuyết Kình Dương, có Đà La thay thế cũng thành. Khi Liêm Trinh Hóa

Lộc thì đầu óc thanh tĩnh, không hình thành ác niệm, Khi Liêm Trinh Hóa Kị, cấu kết với quan thương, đứng ở trung gian kiếm trác tư lợi, bụng đầy tham lam làm việc phạm pháp, hành vi nghị lực bất khuất lúc này của Kình Dương là trợ giúp Trụ Vương làm điều trái nghịch, do vậy mà khiến cho tính công chính của Thiên Tướng đã bị liên lụy và nghi vấn. Cách này rõ ràng có thiên hướng vi phạm pháp luận làm trái kỷ cương.

Liêm Trinh Thất Sát hội Dương Đà: Tổ hợp các sao Liêm Trinh, Thất Sát, Dương Nhận ﹝ Đà La ﹞, lộ thượng mai thi (trôn xác trên đường). Thất Sát là Tướng tinh, tính của Liêm Trinh là không ổn định sẽ khiến cho Thất Sát bị ảnh hưởng, dễ vì vậy mà xuất hiện hành vi đánh giá sai thực lực giữa địch và ta hoặc đi theo địch bán nước, bước tiêp theo là làm trái pháp luật vi phạm kỷ cương, khiến cho thân bại danh liệt hoặc đầu lìa khỏi cổ, nhưng khi cách cục bị Kị làm cho khởi phát! Cách này rõ ràng có thiên hướng phát sinh sự cố ngoài ý muốn.

Mã đầu đới kiếm cách: Kình Dương độc tại Ngọ. Cung Ngọ là đất hỏa vượng, kim nhập Ngọ cung, trong nháy mắt mà có thể luyện ra kiếm sắc, treo ở đầu Ngựa, uy lực hiển đạt lớn, uy chấn biên cương, tuy phú quý, nhưng xung không bền lâu.

Cự Hỏa Dương ﹝ Đà ﹞: Tổ hợp 3 sao Cự Môn, Hỏa Tinh, Kình Dương, cũng tính là “Kẹp Sát thành

cách”. Tính tích cực của Hỏa Tinh và tính nghị lực tiến thử của Dương Nhận, đây là hai yếu tố trọng yếu của sự thành bại! Còn như là thành hoặc bại, đều ở sự dẫn động của Lộc Kị!

Cự Linh Dương ﹝ Đà ﹞: Tổ hợp 3 sao Cự Môn, Linh Tinh, Kình Dương, cũng tính là “Kẹp Sát thành

cách”. Tính tích cực của Linh Tinh và tính nghị lực tiến thủ của Dương Nhận, đây là hai yếu tố trọng yếu của sự thành bại! Còn như là thành hoặc bại, đều ở sự dẫn động của Lộc Kị!

Hiệp Sát cách: Bất luận chính tinh nào bị kẹp bởi 4 nhóm sát tinh là Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương thì cách cục này được hình thành. Sát cách không có chính tinh, thì không có mực tiêu cố gắng; Sát cách có chính tinh, dựa vào lý tính của sao cũng có sự không giống nhau, xuất hiện việc theo đuổi không giống nhau. Như Tử Vi và Hỏa Tinh, Kình Dương đồng cung hoặc hội chiếu, thì đặc tính của Tử Vi liền trở thành mục tiêu theo đuổi chủ yếu.

Dưới đây là một số hung cách khi gặp Không Vong mà phá cách.

Hỏa Dương Không: Tổ hợp 3 sao Hỏa Tinh, Kình Dương, Thiên Không, “Hỏa Dương” cách bị Thiên Không xung phá.

Hỏa Đà Không: Tổ hợp các sao Hỏa Tinh, Đà La, Thiên Không, “Hỏa Đà” cách bị Thiên Không xung phá.

Hỏa Dương Kiếp: Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Dương Nhận, Địa Kiếp. “Hỏa dương” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Hỏa Đà Kiếp: Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Đà La, Địa Kiếp. “Hỏa Đà” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Linh Dương Không: Tổ hợp sao Linh Tinh, Dương Nhận, Thiên Không, “Linh Dương” cách bị Thiên Không xung phá.

Linh Đà Không: Tổ hợp sao Linh Tinh, Đà La, Thiên Không, “Linh Đà” cách bị Thiên Không xung phá.

Linh Dương Kiếp: Tổ hợp Linh Tinh, Dương Nhận, Địa Kiếp, “Linh dương” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Linh Đà Kiếp: Tổ hợp Linh Tinh, Đà La, Địa Kiếp, “Linh đà” cách bị Địa Kiếp xung phá.

Tám tổ hợp cách cục này, chính là cách cục phản hung thành cát đó là “Hỏa không thì phát” và “Kim không thì kêu”. Lấy đồng cung được song Lộc phù trợ là cát tường nhất (đặc biệt khi hình thành “Song Lộc phù Lộc” thì đẹp nhất), lực bạo phát mạnh. Nhưng nếu gặp Kị kẹp, đột nhiên xuất hiện những tai nạn khiến người ta không kịp trở tay. Khi gặp Lộc tinh chiếu nhập thì cũng có thể xuất hiện một ít cát tường, nếu làm những nghề nghiệp như nghiên cứu, thiết kế, khai phá nhân tài, thì có thể có những phát huy thích hợp. Nếu là Kị tinh xâm nhập, thì có xuất hiện tình hình là “hung mà không hoàn toàn hung”, tuy thương tổn về nguyên khí, nhưng lại có cơ hội trở lại từ đầu, bởi vì khi Lộc tinh ở đại hạn hoặc lưu niên đến liền có thể khiến nó ” liền phát mà lại kêu”.

Dương Đà giáp Kị, Hỏa Linh giáp Kị, Không Kiếp giáp Kị, goị là cách hung ác, gặp phải càng hung, trong đó sao Hóa Kị được tính cả sao Hóa Kị ở nguyên cục, đại hạn, lưu niên.

Hóa Kị hiệp Sát thành cách: Bất luận một tổ hợp cách cục sau hình thành là Kỵ tinh hiệp Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương, Linh Đà đều gọi là “Hóa Kị hiệp sát thành cách”. Tam phương của một cung nào đó hội nhập Hóa Kị hoặc tọa nhập Hóa Kị, lại hội nhập hoặc tọa nhập 4 tổ hợp Sát cách là Hỏa Dương, Hỏa Đà, Linh Dương, Linh Đà, cũng gọi là “Hóa Kị hiệp Sát thành cách “, cách này không thể có bóng dáng của Không Kiếp.

Tam phương kị Sát cách: Khi Cung tam phương tứ chính của một cung nào đó đều sát tinh và Hóa Kị tinh,

đó chính là cách này. Và có sự khác biệt sát tụ hung cách của tam phương là: Sát tụ cách không có sao Hóa Kị, Kị sát cách có sao Hoa Kị.

Tam Kỳ xung khắc cách: Hóa Kị, Hóa Quyền, Hóa Khoa đồng thời hội nhập vào cung nào đó, thì cung này liền hình thành “Tam Kì xung khắc”, Tam Kì xung khắc, một loạt thê thảm, nhất định có việc tai họa.

Còn có rất nhiều cách cục khác, chỉ không liệt ra hết được mà thôi, trong chương tiết 8,9,10 sẽ có luận thuật tỉ mỉ.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Nhóm Thiên Hỏa Đồng Nhân biên dịch)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button