Nghiên cứu

Tìm hiểu Bốn Pháp Ấn của Phật giáo

Trải qua 26 thế kỷ kể từ khi Đức Phật Thích Ca sáng lập đạo Phật, Phật giáo đã phát triển thành các trường phái và giáo phái đa dạng. Khi Phật giáo được truyền đến các khu vực của châu Á, nó thường hấp thụ tàn dư của các tôn giáo bản địa.

Nhiều “Phật giáo dân gian” mọc lên đã nhận Đức Phật và nhiều nhân vật biểu tượng trong nghệ thuật và văn học Phật giáo như các vị thần, mà không quan tâm đến ý nghĩa ban đầu của chúng.

Đôi khi các tôn giáo mới xuất hiện mang hình hài Phật giáo nhưng chỉ giữ lại rất ít lời dạy của Đức Phật. Mặt khác, đôi khi các trường phái phát triển của Phật giáo tiếp cận các giáo lý theo những cách mới và mạnh mẽ hơn, dẫn đến sự không tán thành của những người theo chủ nghĩa truyền thống.

Bạn đang xem: Tìm hiểu Bốn Pháp Ấn của Phật giáo

Câu hỏi đặt ra – điều gì phân biệt Phật giáo là một tôn giáo đặc biệt so với các tôn giáo khác? Khi nào “Phật giáo” thực sự là Phật giáo?

Những trường phái Phật giáo dựa trên giáo lý của Đức Phật Thích Ca cho rằng, Bốn Pháp Ấn hay Tứ Pháp Ấn (bốn dấu ấn của chánh pháp) là sự phân biệt giữa Phật giáo chân chính và những thứ “trông giống Phật giáo”. Hơn nữa, nếu trường phái nào giảng dạy giáo lý mâu thuẫn với một trong Bốn Pháp Ấn thì đó không phải là một giáo lý Phật giáo thực sự.

Bốn Pháp Ấn bao gồm:

  1. Tất cả những gì có điều kiện đều vô thường.
  2. Tất cả những cảm xúc nhiễm ô đều dẫn đến khổ đau.
  3. Tất cả những hiện tượng đều vô ngã và trống rỗng.
  4. Niết bàn là an lạc.

Hãy dừng lại một chút và suy ngẫm về Bốn Dấu Ấn này nhé!

1. Tất cả những gì có điều kiện đều vô thường

Bất cứ thứ gì được lắp ráp từ những thứ khác sẽ tách rời – máy nướng bánh mì, tòa nhà, ngọn núi, con người…Đương nhiên là thời gian biểu có thể khác nhau. Chắc chắn, một ngọn núi có thể vẫn là một ngọn núi trong 10.000 năm.

Nhưng 10.000 năm hay thậm chí 100.000 năm cũng không phải là “mãi mãi”. Thực tế là thế giới xung quanh chúng ta dường như vững chắc và cố định lại luôn ở trong tình trạng biến đổi liên tục.

Vâng, tất nhiên, bạn có thể hỏi. Tại sao điều này lại rất quan trọng đối với Phật giáo?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết rằng, vô thường làm cho tất cả mọi thứ có thể. Bởi vì mọi thứ thay đổi, có hạt giống và hoa, con và cháu. Một thế giới tĩnh sẽ là một thế giới chết!

  • Tham khảo thêm: Vô thường là gì?

Chánh niệm về vô thường dẫn chúng ta đến nhận thức sâu sắc về nguồn gốc phụ thuộc. Tất cả những thứ phức tạp là một phần của một mạng lưới liên kết vô hạn luôn thay đổi.

Hiện tượng hình thành do các điều kiện được tạo ra bởi các hiện tượng khác. Các yếu tố lắp ráp và tiêu tan và lắp ráp lại. Không có gì là tách biệt với mọi thứ khác.

Cuối cùng, chánh niệm sự vô thường của tất cả những thứ có điều kiện (tổ hợp – phức tạp), bao gồm cả bản thân chúng ta sẽ giúp chúng ta chấp nhận sự mất mát, tuổi già và cái chết. Điều này nghe có vẻ bi quan nhưng nó là thực tế. Sẽ có mất mát, tuổi già và cái chết cho dù chúng ta có chấp nhận chúng hay không.

2. Tất cả những cảm xúc nhiễm ô đều dẫn đến khổ đau

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dịch pháp ấn này như sau: “Tất cả các hiện tượng ô nhiễm đều thuộc về bản chất của đau khổ”. Từ “nhuộm màu” hoặc “bị ô nhiễm” chỉ hành động, cảm xúc và suy nghĩ bị quy định bởi sự gắn bó ích kỷ, hoặc bởi sự ghét bỏ, tham lam và thiếu hiểu biết.

Dzongsar Khyentse Rinpoche, một Lạt ma và nhà làm phim người Bhutan chia sẻ:

“Tất cả cảm xúc là khổ đau. Tất cả chúng! Tại sao? Bởi vì chúng liên quan đến nhị nguyên. Đây là một chủ đề lớn. Chủ đề này chúng ta phải thảo luận trong một thời gian dài.

Theo quan điểm của Phật giáo, miễn là có một chủ thể và đối tượng, miễn là có sự tách biệt giữa chủ thể và đối tượng, miễn là bạn tách biệt ra để nói, miễn là bạn nghĩ chúng độc lập và sau đó hoạt động với tư cách là chủ thể và đối tượng, đó là một cảm xúc, bao gồm tất cả mọi thứ, gần như mọi suy nghĩ mà chúng ta có. “

Đó là bởi vì chúng ta thấy bản thân mình tách biệt với những thứ khác, những thứ chúng ta mong muốn hoặc tránh xa. Đây là sự thật thứ 2 của Tứ Diệu Đế, dạy rằng nguyên nhân của đau khổ là tham ái (tanha).

Bởi vì chúng ta chia thế giới thành chủ thể và đối tượng, tôi và mọi thứ khác, chúng ta liên tục nắm bắt những thứ mà chúng ta nghĩ là tách biệt với chính mình để làm cho chúng ta hạnh phúc. Nhưng không có gì đảm bảo sự hài lòng lâu dài của chúng ta.

3. Tất cả những hiện tượng đều trống rỗng

Một cách khác để nói điều này là không có gì tự tồn tại hoặc vốn có, kể cả chính chúng ta. Điều này liên quan đến việc giảng dạy của thuyết vô ngã (Anatta).

Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa có cách hiểu và giải thích hơi khác nhau. Học giả Nguyên thủy Walpola Rahula giải thích:

“Theo giáo lý của Đức Phật, thật sai lầm khi giữ quan điểm ‘Tôi không có ngã’ (thuyết đoạn diệt) cũng như giữ quan điểm ‘Tôi có một cái ngã’ (thuyết vĩnh cửu), bởi vì cả hai đều là kiết sử, cả hai phát sinh từ ý tưởng sai lầm ‘TÔI LÀ’.

Quan điểm chính xác liên quan đến câu hỏi của vô ngã không phải là nắm giữ bất kỳ ý kiến hay quan điểm nào, mà là cố gắng nhìn mọi thứ một cách khách quan như chúng thật sự là, chứ không phải tưởng là, nghĩ là hay phải là.

Để thấy rằng cái mà chúng ta gọi là ‘Tôi’ hay ‘là’, chỉ là sự kết hợp của các tập hợp vật lý và tinh thần, chúng phối hợp với nhau một cách phụ thuộc vào một dòng thay đổi nhất thời trong luật nhân quả và không có gì là vĩnh viễn, vĩnh cửu, không thay đổi và vĩnh cửu trong toàn bộ sự tồn tại. “

Phật giáo Đại thừa dạy học thuyết tánh không (shunyata) hay “sự trống rỗng”. Tất cả hiện tượng đều không có sự tồn tại của chính nó và sự trống rỗng của một bản ngã vĩnh cửu.

Trong tánh không, không có thực tế-phi thực tế; chỉ có tương đối. Tuy nhiên, tánh không là một thực tại tuyệt đối khi tuyên bố tất cả mọi thứ và chúng sinh đều “không nhất quán”.

4. Niết bàn là an lạc

Pháp ấn thứ tư đôi khi được viết: “Niết bàn là vượt lên các cực đoan”. Walpola Rahula cho biết:

“Niết bàn (Nirvana) vượt lên mọi khía cạnh của nhị nguyên và tương đối. Do đó, nó vượt ra ngoài quan niệm của chúng ta về thiện và ác, đúng và sai, tồn tại và không tồn tại.”

Dzongsar Khyentse Rinpoche chia sẻ: “Trong nhiều triết lý hay tôn giáo, mục tiêu cuối cùng là thứ mà bạn có thể giữ. Mục tiêu cuối cùng là thứ duy nhất thực sự tồn tại. Nhưng niết bàn không phải là tổ hợp…nên nó không phải là thứ gì đó được tổ chức, hình thành, chế tạo hay xây dựng. Nó được gọi là “vượt quá cực đoan.”

Niết bàn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau bởi các trường phái khác nhau trong Phật giáo. Nhưng Đức Phật đã dạy rằng, Niết bàn vượt ra ngoài khái niệm hoặc trí tưởng tượng của con người, và khuyên các môn đệ của mình không được lãng phí thời gian trong những suy đoán về Niết bàn.

Bốn Pháp Ấn tiết lộ những gì độc đáo về Phật giáo trong tất cả các tôn giáo trên thế giới. Dzongsar Khyentse Rinpoche nói: “Bất cứ ai giữ Bốn Pháp Ấn này trong trái tim của họ, hoặc trong đầu của họ và chiêm ngưỡng chúng là một Phật tử.”

Hoasenphat.com dịch Việt – Theo: thoughtco

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Nghiên cứu

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button