Tử vi

TỬ VI ĐẨU SỐ HỌC TẬP TRỌNG ĐIỂM

Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà chúng ta cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú, các bạn có thể tìm thấy tư liệu phát triển Tử Vi trong 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng 10 năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”.

Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của Tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.

Một: Tính chất tinh đẩu

Bạn đang xem: TỬ VI ĐẨU SỐ HỌC TẬP TRỌNG ĐIỂM

Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều là chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “ hư tinh ” là cốt đại biểu ý ấy.

Tử Vi nghe nói có hơn 100 sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung Mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở Phu Thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở Tài Bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…

Về tính chất sao thì cần đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng của nó có điểm tương tự như phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều. Chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được Tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông, mỗi người một cách nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.

 Hai: Biến hóa của Tứ Hóa

Tác dụng của Tứ Hóa là đặc điểm rất nổi bật của khoa Tử Vi, nó mười phần quan trọng và có liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ Hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.

Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến đổi”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Lấy Cự Môn làm thí dụ: Cự Môn hóa Lộc đại biểu nhờ miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?

Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được sự việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của Tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.

Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thực, cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng ảnh hưởng đến nhân sinh một cách trọng đại. Tuy vậy, không nên nhất định dựa vào việc này để nhận xét người khác.

Bảng an Tứ Hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý. Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187 hoặc Tử Vi Đẩu Số Hoa Sơn Khâm Thiên Bí Nghi – Vũ Nam thư cục.

Ba: Biến hóa của cung vị

Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cung vị, nhưng có 13 cung chức, phân biệt là Mệnh, Thân, Huynh đệ, Tử nữ, Tài bạch, Tật ách v.v… Trong đó Thân có thể ở 6 cung là: Mệnh, Phu thê, Tài bạch, Thiên di, Quan lộc, Phúc đức. Mỗi cung chức đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.

Vì cung chức đại biểu phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều sự việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không chuẩn mực, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng bất ổn trong lòng.

Ba yếu tố trên (Tính chất tinh đẩu, Biến hóa của Tứ Hóa, Biến hóa của cung vị) là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm.

Nhưng ngày nay, ngàn vạn lần cần nhớ rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ để luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.

Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao vãng về sau. Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phép đoán Tử Vi

Dùng Tử Vi luận mệnh có hai cách thức. Một là “vĩ quan” – cái nhìn bao quát, xuất phát từ vận mệnh cả đời, rồi đến vận 10 năm (đại vận), cuối cùng đến vận 1 năm (lưu niên). Một loại khác gọi là “vi quan” – cái nhìn chi tiết, mục tiêu của phương thức này là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai cách thức này về phương pháp tương đối giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.

Vì vĩ quan tương đối thực dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong lòng của mỗi người, nên nói chung luận mệnh chủ yếu dùng cách thức vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi thì tự nhiên có thể sử dụng vi quan luận mệnh.

Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.

Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy

Cầm một lá số:

Đầu tiên cần xác nhận lại thông tin Năm, Tháng, Ngày, Giờ, Sinh có chính xác hay không, đây chính là thao tác định độ khả tín của lá số. (Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đầu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh).

Tiếp theo cần định được kinh mạch, kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không?

Bởi vì mọi cách cục là tĩnh, cho nên cần xem xét thêm sự dẫn động của Tứ Hóa. Trong những năm tháng đời người thì Tứ Hóa có khởi động cách cục nào đó trên lá số hay không?

Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.

Tiếp đó xem cung Thân, vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: Thân cư cung nào thì điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân cư Phu Thê thì mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; Người mà Thân cư Thiên Di tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng quan tâm lắm.

Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi theo tuổi tác mà chuyển biến theo đặc tính các tinh đẩu tại cung Thân. Tỉ như Mệnh vô chính diệu nhưng Thân có chính tinh thì có thể từ rất sớm -lúc trên 20 tuổi, chính tinh ở cung Thân đã dần dà phát sinh tác dụng.

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung Mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chính vào để tham khảo thì mới hoàn thiện. Lý của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc tức cung Mệnh ra, các sao tại các cung Tài Bạch, Quan Lộc (tam phương) và Thiên Di (tứ chính) đều ảnh hưởng đến cung Mệnh. Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: 14 chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao khác cũng sẽ xuất hiện. Theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng lẫn nhau. Lý kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung Mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (cung Huynh Đệ) và cung Phụ Mẫu.

Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung Huynh Đệ và Phụ Mẫu thì sản sinh tác dụng; như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung Phụ Mẫu, một ở cung Huynh Đệ thì có thể sinh tác dụng; ví dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.

Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung Mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc, có khi thêm tác dụng của Phụ Mẫu và Huynh Đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội trong Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là gì.

Ví như: Theo Tử Vi cung Phu Thê xấu tốt do: Phu Thê, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức, có khi Huynh Đệ và Tử Tức cũng có tác dụng, việc này làm sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung Phu Thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung Thiên Di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình (cung Quan Lộc tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và hôn nhân; Cuối cùng vấn đề tình dục, con cái cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v… đều là “dị khúc đồng công” (Thành ngữ: ý nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về những chuyện này mới được.

Tử Vi có một số cung do tự mình quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung: Huynh Đệ, Tử Tức, Tật Ách, Nô Bộc, Phụ Mẫu. Tự mình quyết định có các cung: Phu Thê, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức. Còn cung Điền Trạch, chính là khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng về sau thì có thể tự quyết định. Ngàn vạn phải hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị gái của bạn sinh năm Mậu Thân, thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Âm Bật Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của bạn không, nều có thì chị của bạn chính là chỉ cho bạn mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị của bạn đối xử tốt với bạn. Đương nhiên nếu Lộc của chị bạn khiến mệnh của bạn được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy. Mặt khác, nếu hóa Kị của chị bạn nhập cung Mệnh của bạn thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị của bạn thiên sinh đã phòng ngờ bạn. Còn về cá tính của người chị này thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Âm Bật Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.

Lưu niên:

Khi thảo luận về vấn đề này, đầu tiên cần phải thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách:

Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Kỷ Hợi tất cung mệnh của năm ở cung Hợi, rồi thêm tứ Hóa của can Kỷ vào lá số mà luận xét.

Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem xét, như năm nay Kỷ Hợi là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay.

Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa

Võ công thiên hạ bác đại tinh thâm. Võ Đang, Thiếu Lâm cũng đều là tinh hoa võ thuật, học cả đời chưa chắc đã có thành tựu lớn. Nếu học Võ Đang vài ba thức, Thiếu Lâm vài ba chiêu mà muốn tung hoành thiên hạ thì hoàn toàn chỉ là hù dọa người ta mà thôi vậy. Quý học giả bất tất phải học những thứ hợp tham làm gì, nếu thành cao thủ Võ Đang hay là cao thủ Thiêu Lâm thì đương nhiên đều là cao thủ của thiên hạ, chẳng có gì nghi ngờ nữa. Phương pháp trình bày với quý vị hôm nay chẳng có gì kỳ lạ, chẳng cần mặc khải gì cả, bất cứ ai đi theo những bước chân này đều có một ngày phát hiện con đường cho riêng mình. Con đường Tử Vi thực ra càng đi lại càng rộng rãi.

Tử Vi là một hệ thống hoàn chỉnh, không chỉ là một loại lý thuyết tự cuộn thành tròn, hoặc một cái gì đó cho phép quý vị tự chế ra bí kíp chưa từng có. Nói cách khác: Tử Vi bản thân có năng lực hiện đại hóa.

Ở đây tôi muốn cử một thí dụ cùng quý vị: Lưu niên Điền Trạch của một cá nhân có Cự Môn tọa thủ, hội chiếu có Thiên Cơ, Văn Khúc v.v… lại có Lộc Tồn và lưu niên Lộc dẫn động thì chúng ta có thể đoán: Người ấy năm nay trong nhà có thể có thêm một máy thuộc loại thu âm. Làm sao xem ra chuyện ấy? Rất giản dị: Cự Môn chỉ phát thanh, cơ giới là sao Thiên Cơ, Văn Khúc là tài nghệ cầm kỳ thi họa, bói toán thiên văn dịch lý … nhưng cũng đại biểu, âm nhạc, mỹ thuật, việc lao động v.v…, lưu niên Lộc Tồn xung động là vật phẩm, thống hợp lại mà suy, là một vật thuộc loại âm nhạc, nếu thêm Cự hóa Quyền thì công suất của dụng cụ âm nhạc đó chẳng nhỏ, ngoài ra có thể là dàn Karaoke.

Nếu vậy thử hỏi: Điện thoại có trở ngại làm sao xem? Cự Cơ trong cung Điền Trạch ứng điện thoại, Cự hoặc Cơ hóa Kị có thể là điện thoại gặp trở ngại hoặc đường dây bất ổn. Vậy máy đánh chữ là gì? Tivi là gì? Máy vi ba (microwave) là sao gì mới đúng? Xin quý vị suy nghĩ cho kỹ. Bộ phận đặc tính các sao này do bản thân tôi khai triển ra, nguyên tắc chẳng khó, chịu bỏ công là được. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung Lưu niên Mệnh , rồi xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Thí dụ: Một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên Phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ. Vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn Phu Thê, mà đại hạn Phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu:

Tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy;

Tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn;

Tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và tứ Hóa lưu niên.

Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

Chẳng hạn: Một người nào đó có cung Quan Lộc nguyên thủy hóa Kị, đại hạn Quan Lộc cũng hóa Kị, lưu niên Quan Lộc cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống đất đen hoặc bị đuổi việc?

Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Mục tiêu của kỹ thuật này là dùng để xác định sự việc sẽ ứng với cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói đến chuyện làm việc thì sẽ có cung Quan Lộc nguyên thủy, cung Quan Lộc đại hạn, cung Quan Lộc lưu niên tạo thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt cục phải xem cung Phúc Đức nguyên thủy, Phúc Đức đại hạn hay Phúc Đức lưu niên?.

Quy tắc chung của nó chính là: Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm.

Hàm nghĩa của quy tắc: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám phần là cung trọng điểm. Cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu, đến lúc song Kị dẫn động cung Phúc thì phải coi chừng bị mặc kẹt, bị thua lỗ. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu, tứ Hóa với cung vị mà quyết định. Các bạn nên ngàn vạn lần cẩn thận, bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhầm chân ngựa thì chẳng hay cho lắm

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) để luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến nơi khác làm việc, định chỗ công việc ở Thiên Di nguyên thủy và Quan Lộc lưu niên, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Canh Tý đối với cung cũ, nếu như tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp thì vào năm sau có nhiều cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối lạ lẫm gọi là “duyên khởi duyên diệt”. Đây là phương pháp được dùng để định khi nào một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người sử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Đẩu Số luận cầu tài”. “Đẩu Số luận nhân duyên” v.v… Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có ảnh hưởng. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp một lá số thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường ngày, dành thời gian phân tích chiêm nghiệm thêm nhiều lá số của những người mình đã quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính và cách vận hành của các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Đẩu Số luận cầu tài”, “Đẩu Số luận nhân duyên”, “Đẩu Số luận sự nghiệp”, cùng “Đẩu Số luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.

Công lực của người viết thua xa ông Tử Vân, nhưng mong mỏi được thay ông dẫn một số người vào con đường lớn của Tử Vi, những mong mọi người thoát khỏi cái cảnh tự mình sai rồi khiến người khác sai cùng; đó là tâm nguyện nhỏ bé của người viết, mong quý học giả hiểu cho.

(Chép lại từ Fanpage Tử Vi Bắc Phái)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm TỬ VI ĐẨU SỐ HỌC TẬP TRỌNG ĐIỂM

Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà chúng ta cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú, các bạn có thể tìm thấy tư liệu phát triển Tử Vi trong 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng 10 năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”.

Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của Tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.

Một: Tính chất tinh đẩu

Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều là chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “ hư tinh ” là cốt đại biểu ý ấy.

Tử Vi nghe nói có hơn 100 sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung Mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở Phu Thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở Tài Bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…

Về tính chất sao thì cần đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng của nó có điểm tương tự như phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều. Chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được Tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông, mỗi người một cách nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.

 Hai: Biến hóa của Tứ Hóa

Tác dụng của Tứ Hóa là đặc điểm rất nổi bật của khoa Tử Vi, nó mười phần quan trọng và có liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ Hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.

Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến đổi”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Lấy Cự Môn làm thí dụ: Cự Môn hóa Lộc đại biểu nhờ miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?

Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được sự việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của Tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.

Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thực, cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng ảnh hưởng đến nhân sinh một cách trọng đại. Tuy vậy, không nên nhất định dựa vào việc này để nhận xét người khác.

Bảng an Tứ Hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý. Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187 hoặc Tử Vi Đẩu Số Hoa Sơn Khâm Thiên Bí Nghi – Vũ Nam thư cục.

Ba: Biến hóa của cung vị

Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cung vị, nhưng có 13 cung chức, phân biệt là Mệnh, Thân, Huynh đệ, Tử nữ, Tài bạch, Tật ách v.v… Trong đó Thân có thể ở 6 cung là: Mệnh, Phu thê, Tài bạch, Thiên di, Quan lộc, Phúc đức. Mỗi cung chức đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.

Vì cung chức đại biểu phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều sự việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không chuẩn mực, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng bất ổn trong lòng.

Ba yếu tố trên (Tính chất tinh đẩu, Biến hóa của Tứ Hóa, Biến hóa của cung vị) là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm.

Nhưng ngày nay, ngàn vạn lần cần nhớ rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ để luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.

Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao vãng về sau. Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phép đoán Tử Vi

Dùng Tử Vi luận mệnh có hai cách thức. Một là “vĩ quan” – cái nhìn bao quát, xuất phát từ vận mệnh cả đời, rồi đến vận 10 năm (đại vận), cuối cùng đến vận 1 năm (lưu niên). Một loại khác gọi là “vi quan” – cái nhìn chi tiết, mục tiêu của phương thức này là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai cách thức này về phương pháp tương đối giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.

Vì vĩ quan tương đối thực dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong lòng của mỗi người, nên nói chung luận mệnh chủ yếu dùng cách thức vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi thì tự nhiên có thể sử dụng vi quan luận mệnh.

Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.

Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy

Cầm một lá số:

Đầu tiên cần xác nhận lại thông tin Năm, Tháng, Ngày, Giờ, Sinh có chính xác hay không, đây chính là thao tác định độ khả tín của lá số. (Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đầu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh).

Tiếp theo cần định được kinh mạch, kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không?

Bởi vì mọi cách cục là tĩnh, cho nên cần xem xét thêm sự dẫn động của Tứ Hóa. Trong những năm tháng đời người thì Tứ Hóa có khởi động cách cục nào đó trên lá số hay không?

Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.

Tiếp đó xem cung Thân, vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: Thân cư cung nào thì điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân cư Phu Thê thì mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; Người mà Thân cư Thiên Di tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng quan tâm lắm.

Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi theo tuổi tác mà chuyển biến theo đặc tính các tinh đẩu tại cung Thân. Tỉ như Mệnh vô chính diệu nhưng Thân có chính tinh thì có thể từ rất sớm -lúc trên 20 tuổi, chính tinh ở cung Thân đã dần dà phát sinh tác dụng.

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung Mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chính vào để tham khảo thì mới hoàn thiện. Lý của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc tức cung Mệnh ra, các sao tại các cung Tài Bạch, Quan Lộc (tam phương) và Thiên Di (tứ chính) đều ảnh hưởng đến cung Mệnh. Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: 14 chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao khác cũng sẽ xuất hiện. Theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng lẫn nhau. Lý kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung Mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (cung Huynh Đệ) và cung Phụ Mẫu.

Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung Huynh Đệ và Phụ Mẫu thì sản sinh tác dụng; như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung Phụ Mẫu, một ở cung Huynh Đệ thì có thể sinh tác dụng; ví dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.

Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung Mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc, có khi thêm tác dụng của Phụ Mẫu và Huynh Đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội trong Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là gì.

Ví như: Theo Tử Vi cung Phu Thê xấu tốt do: Phu Thê, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức, có khi Huynh Đệ và Tử Tức cũng có tác dụng, việc này làm sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung Phu Thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung Thiên Di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình (cung Quan Lộc tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và hôn nhân; Cuối cùng vấn đề tình dục, con cái cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v… đều là “dị khúc đồng công” (Thành ngữ: ý nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về những chuyện này mới được.

Tử Vi có một số cung do tự mình quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung: Huynh Đệ, Tử Tức, Tật Ách, Nô Bộc, Phụ Mẫu. Tự mình quyết định có các cung: Phu Thê, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức. Còn cung Điền Trạch, chính là khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng về sau thì có thể tự quyết định. Ngàn vạn phải hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị gái của bạn sinh năm Mậu Thân, thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Âm Bật Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của bạn không, nều có thì chị của bạn chính là chỉ cho bạn mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị của bạn đối xử tốt với bạn. Đương nhiên nếu Lộc của chị bạn khiến mệnh của bạn được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy. Mặt khác, nếu hóa Kị của chị bạn nhập cung Mệnh của bạn thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị của bạn thiên sinh đã phòng ngờ bạn. Còn về cá tính của người chị này thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Âm Bật Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.

Lưu niên:

Khi thảo luận về vấn đề này, đầu tiên cần phải thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách:

Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Kỷ Hợi tất cung mệnh của năm ở cung Hợi, rồi thêm tứ Hóa của can Kỷ vào lá số mà luận xét.

Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem xét, như năm nay Kỷ Hợi là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay.

Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa

Võ công thiên hạ bác đại tinh thâm. Võ Đang, Thiếu Lâm cũng đều là tinh hoa võ thuật, học cả đời chưa chắc đã có thành tựu lớn. Nếu học Võ Đang vài ba thức, Thiếu Lâm vài ba chiêu mà muốn tung hoành thiên hạ thì hoàn toàn chỉ là hù dọa người ta mà thôi vậy. Quý học giả bất tất phải học những thứ hợp tham làm gì, nếu thành cao thủ Võ Đang hay là cao thủ Thiêu Lâm thì đương nhiên đều là cao thủ của thiên hạ, chẳng có gì nghi ngờ nữa. Phương pháp trình bày với quý vị hôm nay chẳng có gì kỳ lạ, chẳng cần mặc khải gì cả, bất cứ ai đi theo những bước chân này đều có một ngày phát hiện con đường cho riêng mình. Con đường Tử Vi thực ra càng đi lại càng rộng rãi.

Tử Vi là một hệ thống hoàn chỉnh, không chỉ là một loại lý thuyết tự cuộn thành tròn, hoặc một cái gì đó cho phép quý vị tự chế ra bí kíp chưa từng có. Nói cách khác: Tử Vi bản thân có năng lực hiện đại hóa.

Ở đây tôi muốn cử một thí dụ cùng quý vị: Lưu niên Điền Trạch của một cá nhân có Cự Môn tọa thủ, hội chiếu có Thiên Cơ, Văn Khúc v.v… lại có Lộc Tồn và lưu niên Lộc dẫn động thì chúng ta có thể đoán: Người ấy năm nay trong nhà có thể có thêm một máy thuộc loại thu âm. Làm sao xem ra chuyện ấy? Rất giản dị: Cự Môn chỉ phát thanh, cơ giới là sao Thiên Cơ, Văn Khúc là tài nghệ cầm kỳ thi họa, bói toán thiên văn dịch lý … nhưng cũng đại biểu, âm nhạc, mỹ thuật, việc lao động v.v…, lưu niên Lộc Tồn xung động là vật phẩm, thống hợp lại mà suy, là một vật thuộc loại âm nhạc, nếu thêm Cự hóa Quyền thì công suất của dụng cụ âm nhạc đó chẳng nhỏ, ngoài ra có thể là dàn Karaoke.

Nếu vậy thử hỏi: Điện thoại có trở ngại làm sao xem? Cự Cơ trong cung Điền Trạch ứng điện thoại, Cự hoặc Cơ hóa Kị có thể là điện thoại gặp trở ngại hoặc đường dây bất ổn. Vậy máy đánh chữ là gì? Tivi là gì? Máy vi ba (microwave) là sao gì mới đúng? Xin quý vị suy nghĩ cho kỹ. Bộ phận đặc tính các sao này do bản thân tôi khai triển ra, nguyên tắc chẳng khó, chịu bỏ công là được. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung Lưu niên Mệnh , rồi xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Thí dụ: Một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên Phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ. Vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn Phu Thê, mà đại hạn Phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu:

Tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy;

Tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn;

Tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và tứ Hóa lưu niên.

Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

Chẳng hạn: Một người nào đó có cung Quan Lộc nguyên thủy hóa Kị, đại hạn Quan Lộc cũng hóa Kị, lưu niên Quan Lộc cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống đất đen hoặc bị đuổi việc?

Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Mục tiêu của kỹ thuật này là dùng để xác định sự việc sẽ ứng với cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói đến chuyện làm việc thì sẽ có cung Quan Lộc nguyên thủy, cung Quan Lộc đại hạn, cung Quan Lộc lưu niên tạo thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt cục phải xem cung Phúc Đức nguyên thủy, Phúc Đức đại hạn hay Phúc Đức lưu niên?.

Quy tắc chung của nó chính là: Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm.

Hàm nghĩa của quy tắc: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám phần là cung trọng điểm. Cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu, đến lúc song Kị dẫn động cung Phúc thì phải coi chừng bị mặc kẹt, bị thua lỗ. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu, tứ Hóa với cung vị mà quyết định. Các bạn nên ngàn vạn lần cẩn thận, bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhầm chân ngựa thì chẳng hay cho lắm

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) để luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến nơi khác làm việc, định chỗ công việc ở Thiên Di nguyên thủy và Quan Lộc lưu niên, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Canh Tý đối với cung cũ, nếu như tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp thì vào năm sau có nhiều cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối lạ lẫm gọi là “duyên khởi duyên diệt”. Đây là phương pháp được dùng để định khi nào một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người sử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Đẩu Số luận cầu tài”. “Đẩu Số luận nhân duyên” v.v… Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có ảnh hưởng. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp một lá số thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường ngày, dành thời gian phân tích chiêm nghiệm thêm nhiều lá số của những người mình đã quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính và cách vận hành của các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Đẩu Số luận cầu tài”, “Đẩu Số luận nhân duyên”, “Đẩu Số luận sự nghiệp”, cùng “Đẩu Số luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.

Công lực của người viết thua xa ông Tử Vân, nhưng mong mỏi được thay ông dẫn một số người vào con đường lớn của Tử Vi, những mong mọi người thoát khỏi cái cảnh tự mình sai rồi khiến người khác sai cùng; đó là tâm nguyện nhỏ bé của người viết, mong quý học giả hiểu cho.

(Chép lại từ Fanpage Tử Vi Bắc Phái)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button