Tử vi

Tử vi đẩu số mệnh vận phân tích thực lệ thiên

Căn Nguyên Sự Thay Đổi Biến Hóa

Vạn Tượng Của Tinh Diệu

Có rất nhiều bằng hữu hỏi về vấn đề tinh diệu, cho rằng tứ hóa phi tinh phái đối với tinh diệu tựa hồ không quá coi trọng, đây là nhận xét cực kỳ sai lầm; nếu tứ hóa là dụng thần của Tử Vi Đẩu Số thì như vậy tinh diệu có thể nói là thần tượng, không phải thần tượng thế dụng thần cũng không có cách nào nương tựa, cho nên tinh diệu là công phu nhập môn để học tốt Tử Vi Đẩu Số. Thế nhưng đối với ý nghĩa và giải thích các tinh diệu, các lưu phái không có cùng thuyết pháp, làm cho người chưa kết luận được, người mới học lại càng phức tạp.

Bạn đang xem: Tử vi đẩu số mệnh vận phân tích thực lệ thiên

Trên thực tế, chỉ với hơn ba mươi sao muốn phản ánh muôn vàn tượng sự vật của nhân sinh trong cuộc sống thật sự đó là quá trình rất phức tạp; với người toán mệnh thì khi nhìn vào các kí hiệu trên mệnh bàn để suy luận ra các sự kiện mà muốn giải thích như thế nào cho phù hợp với hiện tượng nhân sự thực tế thì sẽ phải luôn cân nhắc, tỉ mỉ diễn hóa mới có thể đi đến sát với thực tế hiện tượng, mà việc cân nhắc diễn biến này trong quá trình suy tính có rất nhiều nhân tố, trong đó có tính chất của sao là cơ sở rất trọng yếu trong luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số.

Tinh diệu trong cơ cấu Tử Vi Đẩu Số đảm nhiệm hiển hiện công hiệu của [hình tượng nhân sự vật], nó phải theo sự biến hóa của cung vị mà thay đổi hình tượng của nó, tinh tú đồng cung cũng sẽ làm tăng tình tiết hình tượng nhân sự vật đó, mà diễn hóa hiệu quả sinh ra có sự mạnh yếu. Do đó, đem tinh tú chuyển hóa thành [hình tượng nhân sự vật] là một sự cần thiết trong quá trình suy tính nhiều phương diện.

Ví dụ như: Thái Dương rơi vào cung Mệnh và cung Điền Trạch thì hình tượng đại biểu không có giống nhau. Khi ở cung Mệnh nó chỉ về tướng mạo, cá tính, ngoại hình của người, giải thích các đặc trưng của người. Khi nhập cung Điền Trạch thì giải thích các cảnh vật có liệ quan đến điền trạch, Thái Dương chính là chỉ các cảnh vật như trạm xăng dầu, đài phát thanh, trạm biến áp, cục viễn thông … cho nên hình tượng nhân sự vật mà tinh diệu sở thuộc đại biểu nó tùy theo sự biến động của cung vị mà chuyển hóa.

Bởi vì tinh diệu có số lượng ít mà nhân thế thì lại hàng ngàn hàng vạn sắc màu khác nhau, cho nên cần có sự kết hợp phụ trợ của những phụ tinh sát diệu khác mà hiển hiện hoặc chuyển hóa ra rất nhiều hình tượng nhân sự vật khác nhau, những hình tượng nhân sự vật này có thể căn cứ tình hình:

  • Vấn đề được hỏi của người hỏi: tìm ra cung vị tương ứng có chuyển biến, bởi vì mười hai cung vị đại biểu hàng ngàn hàng vạn hiện tượng nhân sự, có một số vấn đề sự tượng thực tế không phải là ngày thường gặp phải nên ở khía cạnh lập hướng cũng phải luôn có sự cân nhắc xem xét mới có thể xác định. Sau khi lập hướng, tiếp tục căn cứ tình hình cung vị, sao, tứ hóa để phân biệt hình tượng sự kiện.
  • Suy xét cung vị với tổ hợp sao tọa để diễn hóa: tập trung vào quan hệ phi hóa nhập xung chiếu hợp của tứ hóa bản mệnh, đại hạn một cách rõ ràng để tìm ra điểm xảy ra vấn đề, chủ động đưa ra giải thích.

Muốn phân giải chính xác hình tượng sự vật, thực tế không phải là một xúc có thể đụng, phải trường kì gom góp tích lũy kinh nghiệm và sự từng trải việc đời việc người; cũng phải nắm rõ các quy tắc của mệnh lý, mới có thể vận dụng tốt nhất, nắm giữ trong lòng, người đạo hạnh Đẩu Số cao thâm thường hay có thể một lời nói rõ ra được nỗi băn khoăn của người hỏi mệnh, đạo lý cũng là ở chỗ này.

Người mới học phải hao tốn rất nhiều thời gian để tìm tòi hình tượng sự vật của tinh diệu, thế nhưng trước hết phải học tốt cách vận dụng tứ hóa, không phải là từ trong mười hai cung lấy ra một cung vị nào đó hoặc sao nào đó là có thể phân giải ra hình tượng sự vật. Có thể lấy ra được cung vị lập hướng chính xác thì có thể sử dụng khả năng thống kê phân loại mạnh mẽ của máy vi tính, đem các mệnh lệ vốn có các sự kiện tương đồng quy nạp cùng một chỗ, trải qua học hỏi luyện tập thông thạo có tính hệ thống, đem kết hợp hình tượng nhân sự vật được đại biểu bởi các tinh tú, thì có thể nắm bắt tốt được hình tượng sự vật mà tinh tú hàm ẩn, tiến tới tích lũy chính xác quy tắc suy lý.

Tinh diệu tùy vào các nhân tố như lạc nhập vào cung vị địa chi khác nhau, cung nhân sự khác nhau, hóa tinh khác nhau, tổ hợp tinh tú trong cung khác nhau, chúng đối với tính chất của sao đều làm xuất hiện “thay đổi”, tính chất sao

biến đổi cũng không có giống nhau, được gọi là bốn loại hình thái biến hóa của tinh diệu, cách gọi theo thứ tự là “Chất hóa”, “Loại hóa”, “Dị hóa” và “Hóa khí”, phân loại tên gọi chính xác là “Tinh diệu tứ hóa” và “Thiên can tứ hóa”.

Cái Gì Gọi Là “Chất Hóa Của Sao”

Trong quan hệ của tinh diệu và Địa chi, thì Địa chi có thể ví như là thổ nhưỡng, còn Tinh diệu được coi là hạt giống, hạt giống đó có thể rơi vào các thổ nhưỡng khác nhau, cho nên hạt giống rơi vào thổ nhưỡng thích hợp là có thể lớn lên cao lại khỏe mạnh; còn nếu rơi vào thổ nhưỡng cằn cỗi có hại thì lớn lên nhỏ mà thấp, thậm chí còn có tính độc. Cho nên, Địa chi là chính thể, Tinh diệu là khách thể, đây là điều phải được xác định trước tiên khi phán đoán tinh diệu lạc nhập cung vị sản sinh tác dụng “chất hóa”.

Cường Độ Tinh Diệu Thay Đổi Về Chất

Tinh diệu lạc nhập các cung thì vì ngũ hành của Địa chi sở tại khác nhau, sẽ cùng với ngũ hành của Tinh diệu sản sinh tác dụng tương hỗ mà dẫn khởi chuyển biến về bản chất, mà loại biến hóa này làm cho có sự tăng giảm “tuyến tính” xuất hiện, không phải là chuyển biến thành một loại hiện tượng “đột biến” về tính chất. Bản thân tinh diệu cũng có ngũ hành thuộc tính, mà lạc nhập Địa chi cũng có ngũ hành thuộc tính, ngũ hành của Địa chi và ngũ hành của Sao sẽ sản sinh [tác dụng ngũ hành sinh khắc] mà làm cho tính chất của Tinh diệu có tác dụng được “Cường hóa hoặc Nhược hóa”, dạng đặc tính xuất hiện này được gọi chung là “Miếu hãm lợi vượng”, hiện tượng này được gọi là “Chất hóa”. Trên cơ bản thì mỗi một viên sao đều có hai loại tính chất đặc biệt “Diện hướng”, ví dụ như Thiên Đồng y theo cổ văn nói là “chủ là người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tâm từ thẳng thắn, văn mặc tinh thông, có ý chí”. Đây là đặc tính tích cực, nếu mở rộng đến mặt trái thì cũng có đặc tính “thoái lui, nhu nhược, vô vi, bàn suông, lười nhác”, loại cải biến “Chất hóa” này chính là hiện tượng khiến cho tính chất tích cực và tính chất tiêu cực của tinh diệu được cường hóa hoặc nhược hóa, cũng không thể cho thấy tình hình là cát hay là hung, ví dụ như có người cá tính thì lại thích “thanh bần nhạc đạo, thích ứng trong mọi tình cảnh, tri túc thường nhạc” vui vẻ điềm đạm không mành danh lợi, đối với những người “tranh quyền đoạt lợi, ham hưởng thụ, liều mạng kiếm tiền” đó là điều không hiểu được nhưng đối với đương sự mà nói thì đây là hưởng thụ với phúc báo lớn nhất rồi. Cho nên “Chất hóa” của sao chính là hiện tượng làm cho tính chất mặt tích cực hoặc mặt trái của tinh diệu được tăng lên hay yếu đi, người viết dùng “mặt trái” để hình dung một phía tính chất đặc biệt khác chứ không có hàm ý phủ định, giống như dạng cách gọi điện dương với điện âm hoàn toàn không mang hàm ý cát hung gì.

Bởi thế tinh diệu sau khi trải qua ảnh hưởng “Chất hóa” làm cho tính chất của tinh diệu có thể mạnh thêm hoặc yếu bớt đi, cổ nhân lấy “Miếu hãm lợi vượng” để gọi tên, độc giả có thể đối chiếu tham khảo thêm từ bảng biểu ở trên. Chỉ cần là tinh diệu cư ở các cung trên bản mệnh bàn thì nó có hiệu lực sản sinh hiệu quả cả đời, còn những tinh diệu này nếu là cư ở cung vị đại hạn thì cũng có thể xuất hiện hiện tượng ở trong hạn đó, cũng đều cần xem xét những thay đổi trong bản chất của tinh diệu sau khi bị ảnh hưởng bởi “chất hóa của miếu hãm lợi vượng”.

Sự biến đổi về bản chất của tinh diệu cùng với sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết. Bởi vậy, có thể thấy ngũ hành của cung vị Địa chi và ngũ hành của tinh diệu có quan hệ như thế nào thì cũng biết được định đính “miếu vượng lợi hãm” của tinh diệu như thế , cũng làm thoải mái hơn trong nắm bắt ý nghĩa của chính tinh khi nhập cung, cũng không cần phải nhớ cứng ngắc theo bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu.

Giả như ngũ hành của Địa chi sinh cho ngũ hành của Tinh diệu thì sẽ làm tăng mạnh tính chất tinh diệu, tính chất tốt sẽ được cường hóa, tính chất không tốt tương tự cũng sẽ được liệt hóa mà không phải là tăng mạnh tính chất tốt của tinh diệu.

Ngũ hành Địa chi khắc ngũ hành Tinh diệu thì tính chất của tinh diệu cũng sẽ bị suy yếu, tính chất tốt bị suy giảm, tính chất xấu cũng yếu nhược đi.

Nếu như ngũ hành Tinh diệu sinh cho ngũ hành của Địa chi: bởi vì phải hao phí tinh thần đến sinh cung Địa chi, có sát tinh đồng cung dễ phải tự lo không xong.

Ngũ hành Tinh diệu khắc ngũ hành Địa chi: bết bát hơn, hao tổn tác dụng của tinh diệu, càng sợ có sát tinh nhảy vào, chuyển hóa làm tính chất không tốt có đất phát triển, đây là biến dị của tinh diệu. Tượng, gọi giản đơn là “Dị hóa”, về sau bàn tiếp.

  • Âm, dương tương sinh là hay nhất: âm sinh dương hoặc dương sinh âm, như cung Dần là Giáp Mộc sinh cho Âm Hỏa của Liêm Trinh hoặc Quý Thủy của Phá Quân khi tiến nhập Dương Kim của cung Thân … chính là lấy ngũ hành của cung vị sinh cho ngũ hành của tinh diệu. Giả như ngũ hành tinh diệu tới sinh ngũ hành cung vị thì không có hiệu lực gì, ví dụ như Thủy của Phá Quân lạc nhập tới sinh cho Mộc ở cung Dần thì không phải là tốt, bởi vì chủ khách có khác biệt cho nên Phá Quân nhập cung Dần chỉ là “Đắc địa” mà thôi.
    Thí dụ như: Thái Dương [dương Hỏa] rơi vào cung Mão [âm Mộc], môi trường âm Mộc càng làm cho khi Thái Dương bính Hỏa lạc nhập càng thêm tràn đầy cho nên tính chất tích cực của Thái Dương như chính trực, quang minh, bác ái, giúp người, rộng rãi … sẽ mười phần hiển hiện, bởi vậy người có cách “Nhật chiếu lôi môn” sẽ càng hiển hiện rỗ những tính chất đặc biệt này. Hoặc như Tham Lang [giáp Mộc] thì cung nào có thể tới sinh cho nó? Âm Thủy tới sinh cho [dương Mộc] của Tham Lang thì Tý vị có thuộc tính là âm Thủy, cho nên Mộc của Tham Lang rơi vào Tý vị là vượng, “Tham Lang là thần của họa phúc, chủ người tính cương uy mãnh cơ thâm mưu xa, tùy sóng theo sóng, yêu ghét khó định, cư miếu vượng, gặp Hỏa Tinh quan võ quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục” chính là chỉ Tham Lang Tý gặp Hỏa Tinh là có thể quan võ quyền quý. Bởi vậy, âm Thủy của Tý vị có thể làm tính chất tốt của Tham Lang phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, có thể thành đại cách cục tốt “Mã đầu đới tiễn, uy chấn biên cương”!
  • Dương sinh dương, âm sinh âm: tốt tiếp theo, ví như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Thân [dương Kim], được Kim sinh làm [dương Thủy] mạnh thêm cho nên tinhc chất tích cực của Thiên Đồng cũng có thể thích hợp mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản của Trung Dung đến xem thì có: các đặc tính như trong các quy tắc mọi thứ vẫn được ổn định, không quá cầu danh lợi, tri túc thường nhạc, tâm tính hào phóng rộng rãi… Mặt khác Thiên Đồng [Thủy] ở cung Dần [Mộc] bởi vì phải tổn hao công phu đi sinh Mộc của cung Dần mà tiêu hao năng lượng, nên đặc tính còn hơn Thiên Đồng ở cung Thân, tương đối lười nhác, không tích cực, bị động, thích hưởng thụ một chút … Bởi thế, con đường phát triển của đời người tương đối bị hạn chế, mà lấy đặc tính “Ấm phúc tụ không sợ tai ương” mà nói, khi Thiên Đồng tinh Thân vị có thể gặp hóa cát nếu so với tổ hợp ở Dần vị rõ ràng mạnh hơn, một cái có khả năng hóa giải nhẹ, một cái có khả năng hóa giải nhưng lại mạnh hơn. Cho nên Thiên Đồng lạc nhập cung Dần là “Lợi”, còn lạc nhập cung Thân là “Vượng”, tuy cùng là [Thiên Đồng, Thiên Lương đồng vị] nhưng tính chất vẫn có một chút khác biệt.
  • Âm khắc dương, dương khắc âm: hữu tình, tính chất mặt trái bị áp lực, mặt tích cực cũng bị áp chế, nên khi tính chất tích cực của tinh diệu hiển hiện thì cũng đồng thời xuất hiện cả tính chất mặt trái, loại hiện tượng đồng thời tồn tại như này lánh đi cũng không được mà nhường người ta cũng khó có được vui vẻ như ý. Ví dụ như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Mùi [Thổ] thì Thổ khắc Thủy [dương Thủy] cho nên tính chất tích cực của Thiên Đồng chịu áp lực, tính chất mặt trái cũng sẽ quá độ mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản Trung Dung đến xem, thì có: lười nhác, đa cảm và các hành vi cư xử rõ ràng, vì thế Thiên Đồng rơi vào Sửu Mùi cung, khi Thiên Đồng nhập mệnh hạn nói về cát hung có thuyết “Thiên Đồng nhập Sửu Mùi cung, không đắc địa”, không lấy cát luận, mà các hiện tượng được định hình trong cuộc sống chẳng hạn như là: “có nhiều tâm sự không thể nói với người ngoài, khi mặt đối mặt với mọi người thì lại miễn cưỡng vui cười, có nhiều chuyện không như ý khó có được niềm vui”. Hoặc như Thiên Tướng [dương Thủy] rơi vào cung Tị, Tị là đất vượng của [Hỏa], nên khi đem Thiên Tướng [Thủy] tinh vào đây thì tính chất tích cực của Thiên Tướng không có cách nào hiển hiện, thi triển không được, mà đặc tính mặt trái lại diễu võ dương oai, vốn dĩ là “ngôn ngữ trung thực, gặp chuyện không dối trá, gặp người có khó khăn trong lòng có trắc ẩn, gặp người ác trong lòng giận dữ cảm thấy bất bình”. Tuy rằng đều vẫn còn đó, nhưng lại phát sinh lệch đi, như tinh thần trọng nghĩa quá đà, giống như bang phái phân chia, hoặc không thức thời mà làm náo động khiến chính bản thân bị ảnh hưởng không tốt, đối với vận đồ cuộc sống cũng gặp trở ngại tương đối, hoặc thêm mệt nhọc không thuận lợi nữa, đây hoàn toàn là kết quả chính tinh lạc cung đưa đến.
  • Dương khắc dương, âm khắc âm: vô tình; rất không tốt, làm tính chất thiện lương của tinh diệu chuyển hóa cải biến triệt để, như: Thiên Đồng [dương Thủy] đóng ở cung Tị [dương Hỏa] sẽ làm cho dương Hỏa liệt dương Thủy vô tình, cũng làm tính chất của Thiên Đồng hoàn toàn cải biến, nguyên cớ trong Đẩu Số Toàn Thư nói “Đồng Lương Tị Hợi vị, nam đa lãng đãng nữ đa dâm” là tại sao chứ? Cũng là bởi vì dương Hỏa sẽ làm khô nóng dương Thủy của Thiên Đồng mà khiến cho tính chất mặt trái của Thiên Đồng hoàn toàn phát huy, trở thành lười biếng, có các hiện tượng cẩu thả, háo sắc, ham hưởng thụ, ủy mị không phấn chấn … Bởi vậy cổ nhân mới dành cho người Thiên Đồng ở Tị lời bình như thế.

Ngoại lệ: còn có một số hiện tượng ngoại lệ chẳng hạn như Thiên Cơ [Ất Mộc] rơi vào cung Sửu [Thổ], Thổ tới sinh Ất Mộc của Thiên Cơ hẳn là càng chương hiển tính chất tích cực của Thiên Cơ tinh chứ nhỉ! (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, có lẽ ý tác giả đang chỉ về cây tức Mộc được ở trồng trong đất tức Thổ nên đất làm cây tốt lên) Người nghĩ lầm, không phải là “Thổ sinh Mộc” mà là “Thổ sinh Kim” chứ, nhưng mà Mộc của Thiên Cơ ở trong Thổ tại sao ở bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu lại ghi trạng thái là “Lạc hãm”? Nguyên bởi bốn cung vị Thìn Tuất Sửu Mùi nó thừa tục trạng thái chuyển hoán của cung vị trước nó một cung mà bao hàm ngũ hành khí bên trong của cái cung vị trước ấy, như trong Sửu [Thổ] thì có hàm chứa [Thủy] khí của Tý vị cho nên loại Thổ này giống như “đất ao đầm” hoặc “cát lắng”, về căn bản nó không sinh nổi Mộc của Thiên Cơ, cho nên Mộc của Thiên Cơ khi nhập vào đây dễ tiêu thất nên là lạc hãm. Bởi vậy, tính chất mặt trái trong tính chất đặc biệt chung của Thiên Cơ tinh sẽ được cường hóa mà tính chất tích cực lại bị nhược hóa, Thiên Cơ vốn là tinh diệu thuộc thần trí rõ ràng, cơ trí nhạy bén khi lạc nhập vào đây thì thần kinh trở nên quá nhạy cảm, thần kinh suy nhược, đối với bất cứ chuyện gì hay cử chỉ của ai đó đều sẽ lấy mặt trái suy xét khiến cho bản thân dễ nghi thần nghi quỷ, hoặc là đặc biệt nhạy cảm đối với những sự vật có tính quái lạ, liệu có không? Thì là do tư duy thiếu mạch lạc, lối suy nghĩ rối rắm, không phân rõ nặng nhẹ, thân sơ viễn cận (LC chú: ý chỉ thân cận thì sơ sài mà xa xôi lại gần gũi); nếu là ở đất miếu vượng, ngư ở Ngọ vị không chỉ thần trí rõ ràng, suy nghĩ rõ ràng, trật tự mạch lạc, cơ trí minh mẫn, với nghiên cứu, thi cử hoặc đối nhân xử thế đều có giúp ích rất lớn, đương nhiên cũng dễ trở thành nhân vật trung lưu trong xã hội. Cho nên một số định nghĩa và suy nghĩ của chúng ta về sự miếu hãm của tinh diệu ở trong bảng biểu miếu hãm lợi vượng của tinh diệu còn có một số chỗ không khớp, cái này muốn dựa vào sự ghi nhớ thuộc lòng chẳng hạn như Thiên Cơ Mộc nhập cung Dậu Kim vị thì Ất Mộc của Thiên Cơ chẳng phải là bị Kim ở Dậu khắc chế hay sao chứ? Vậy phải là bị “Lạc hãm” chứ! Tại sao lại là “Vượng” vậy? Cái này không cách nào dùng quan hệ ngũ hành sinh khắc để giải thích được, chỉ có thể dùng định nghĩa về kim thí dụ như là dùng rìu đục để tạo hình cây cối, có thể đem gỗ mục tạo hình nghệ phẩm hoặc gia cụ có giá trị được nâng lên cao trên diện rộng nhằm biểu thị hàm ý cho sự nhập miếu thôi.

Cái Gì Gọi Là “Dị Hóa Của Sao”

Nếu có hai sao ở cùng một cung thì trước tiên cần xem xét quan hệ sinh khắc chế hóa của sao với cung, sau đó cân nhắc ảnh hưởng sinh khắc chế hóa của tinh diệu ở trong đó, thì có thể biết được sự tốt xấu của cung với tổ hợp sao lạc nhập.

Do ảnh hưởng quan hệ tương hỗ được tăng cường hay suy giảm của tổ hợp sao tọa trong cung lúc đó mà làm cho tính chất của sao có chuyển biến, là thông qua tác dụng vật lý, hóa học mà dẫn khởi, hai sao cùng lạc nhập một cung cũng không thể đơn giản lấy quan hệ ngũ hành sinh khắc gia giảm tác dụng ngay lập tức, có một số tổ hợp tinh diệu sẽ sản sinh một vài đột biến làm cho tính chất của sao có sự chuyển biến 180 độ, cái hiện tượng này được gọi là “Dị hóa của sao”.

Ví dụ như: Thái Âm vốn chủ ôn nhu, nhưng [Thái Âm Hỏa Linh đồng vị, ngược lại thành Thập ác] chính là tổ hợp dị hóa điển hình, cũng không phải là Thái Âm [Thủy] bị Hỏa Tinh [Hỏa] sở khắc, chỉ chủ ôn nhu kém vẻ mà thôi, mà là chuyển biến hoàn toàn thành: giỏi về tâm cơ, tính toán, hay đố kị, chanh chua, tính cách đôi lúc hơi vô lý, bởi thế tổ hợp hai sao trở lên phải chú ý tính chất “Dị hóa” nhằm chuyển hoán giải thích cho hợp lý, tổ hợp dị hóa mọi người có thể tìm được ở trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Như: “Thiên Đồng cung Tuất Hóa Kị, Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai”. Người sinh năm Đinh cung Mệnh tại Tuất có sao Thiên Đồng tọa, tình trạng Thiên Đồng là “bình thản”, nếu như Can cung là Canh thì làm cho sao Thiên Đồng trong cung tự Hóa Kị, mà Can năm sinh là Đinh thì làm cho Thiên Đồng trong cung Tuất thành Hóa Quyền, cung Thìn ở đối diện có Cự Môn Kị cũng đứng sóng đôi nhìn chằm chằm vào Thiên Đồng Quyền ở cung Mệnh, vốn dĩ thực lực của Quyền với Kị cứng rắn nhưng tự Hóa Kị lại làm phá hư hết, Thiên Đồng tinh vốn bình hòa nay khí thế yếu ớt vậy sao có thể luận là tốt được đây? Đây cũng là một loại “Dị hóa”, nhưng phải kết hợp cùng năm sinh với Can cung Tứ hóa để khán điểm kỳ lạ trong đó; loại người có mệnh cục như này thường thường “Nhược cực phản cường”, luôn cho thấy sự bền bỉ và tinh thần chiến đấu như siêu nhân luôn nỗ lực phấn đấu dù trong nghịch cảnh mà thu được thành công.

Sự cát tường hay ác của tinh diệu càng không thể chỉ nhìn vào mặt chữ để phán định, ví dụ như sao Thiên Lương (天梁星) không thể vì âm nó gần với “thiên lương” (天良 ) mà cho là rất hiền lành, trái lại thực tế có những lúc lại tỏ ra rất nghiêm nghị khiến cho người khác không thể

chịu đựng được, bởi vì nó là thống soái tinh lãnh đạo chúng nhân, phải công bằng mới có thể làm cho mọi người tin phục, cho dù con cái có phạm sai lầm cũng muốn xử trí cho nên có bao hàm ý cô khắc trong đó.

Vì vậy mỗi một sao đều có tính chất tích cực và tính chất mặt trái của nó, nếu như sát tinh ít thì sẽ biểu hiện mặt hiền lành tốt đẹp, nếu như Kị sát trùng trùng sẽ hiển lộ đặc tính bất lương. Lúc giải thích tính chất của sao không thể quên mỗi một sao thực tế đều tồn tại cùng lúc bên ngoài quang quang bên trong âm ám, mà diện hướng hiển lộ là gì? Tất cần phải xem xét bảng biểu miếu hãm lợi vượng với phụ tinh sát diệu đồng cung.

Cái Gì Gọi Là “Loại Hóa Của Sao”

Tinh diệu bởi vì các cung vị rơi vào, trong đó có một số là lục thân cung, một số cung vị có tính vật chất, cũng có một số cung vị có tính tinh thần, cho nên tính chất của sao nhất định cần tương ứng với cung vị khác nhau mà huyễn hóa ra hình tượng sự vật khác nhau để giải thích, này gọi là “Loại hóa”, cùng với hiện tượng nhân sự vật trong thực tế tương chiếu.

Vấn đề mà người hỏi mệnh đưa ra rất đa dạng hóa, tuyệt không phải mười hai cung với tinh diệu có thể bao quát hết được, ví dụ như: từng gặp có đánh mất một số tiền lớn mà đến hỏi có khả năng có thể tìm về được hay không, sư phụ nói cho họ biết có thể ở gần xung quanh chỗ tủ lạnh thử tìm một chút xem, quả nhiên là tìm được thật, xin hỏi tủ lạnh là viên sao nào đại biểu? Cái này đòi hỏi đến công năng của “Loại hóa”, lại có người hỏi người hướng dẫn giảng dạy cho họ không được tốt? Có thể làm cho ta thuận lợi tốt nghiệp được hay không? Xin hỏi là người hướng dẫn chỉ dạy thì là cung nào hoặc sao nào biểu hiện, vì thế trước tiên phải biết “Lập hướng” hoặc “Lập tượng” như thế nào, sau đó từ trong cung “Lập hướng” lấy ra tinh diệu tới loại hóa tìm được hình tượng sự vật nhằm giải thích cho người hỏi mệnh có thể hiểu được, cái này đương nhiên không phải là tùy tiện xem xét tưởng tượng tới loại hóa, mà cần phải thông qua thống kê thu nạp và phân tích tìm ra “Tinh diệu” cùng “Loại hóa” tương chiếu với vật hoặc sự tình đó. Ví dụ như rất nhiều người đều biết “Kình Dương” là đao giải phẫu, đây là loại hóa, thế nhưng lúc nào thì lấy “Loại hóa tượng” này để giải thích, ứng dụng thì nhất định phải căn cứ vào vấn đề mà người hỏi mệnh hỏi để từ trong mệnh bàn tìm ra cung vị “Lập hướng” rồi từ tổ hợp sao tọa trong cung tới “Loại hóa” thành sự vật sự việc trong thực tế để phân giải hình tượng sự vật sự việc. Cái này trong Tử Vi Đẩu Số là kỹ xảo cao cấp nhất, cũng là kỹ xảo trọng yếu rất hay thường dùng đến, công phu toán mệnh có linh hay không linh cũng phải xem xét đến điểm này.

Gần đây có gặp một vị độc hữu tương đối trẻ tuổi có “Bị người đe dọa, cướp lấy tiền của”, đến xin hỏi phải làm sao từ 12 cung trên mệnh bàn để xác định được cung vị nào xảy ra chuyện?

Có người thì nói nhìn xem có tổ hợp “nhân tài bị kiếp” là [Vũ Khúc Thất Sát Hỏa Tinh] hay không. Đúng! Đây là cách cục giựt tiền, nhưng cũng không phải là tổ hợp bị giựt tiền duy nhất, có một số là gặp phải đối tượng là lưu manh thái bảo ngẫu nhiên tìm tới gây án mà gặp phải, như vậy thì “Bị người khác giựt” với “Lưu manh thái bảo” thì rốt cuộc sao nào nó đại biểu là “Lưu manh thái bảo” chứ? Còn một số cũng có thể như là Dương Đà Hỏa Linh, còn có Thất Sát, Thái Âm Hỏa Linh tổ, Phá Quân, Thiên Đồng gặp Hỏa Tinh … Thật đúng là không dễ gì hiểu thấu đáo sự ảo diệu trong đó để tìm ra tổ hợp tinh diệu của lưu manh thái bảo, nhưng mà nếu biết chút bí quyết trong đó, là có thể “định” ra cung vị suy đoán cát hung, lúc này hiệu quả của Tử Vi Đẩu Số liền có thể được nâng cao rất lớn.

Tinh diệu chúng ta thường dùng tuy rằng chỉ có khoảng hơn ba mươi sao, phối hợp với 12 cung tới loại hóa cho ra được hình tượng sự vật cũng có 384 loại tổ hợp, thế nhưng tái phối hợp quá trình “thùy tượng – thành hình – thành sự” của Thiên Địa Nhân bàn còn có thể huyễn hóa ra càng nhiều hình tượng hơn. Bởi vậy, sự đam mê nghiền ngẫm của toán mệnh thường là mối quan hệ giữa suy nghĩ và suy nghĩ làm thế nào để phân loại thành những thứ phù hợp với tượng sự vật trong hình thái sinh hoạt thường ngày.

Khí Hóa Của Sao

Tinh diệu trải qua tác dụng của Thiên can tứ hóa, làm cho tính chất của sao biến đổi gọi là “Hóa khí”. Ví dụ như trong đàm luận cát hung khi Liêm Trinh nhập Mệnh hạn có: “Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, hóa thứ đào hoa, sát tù tinh, là chủ quan lộc ..”, nói đúng là Liêm Trinh sau khi “Hóa” có chứa tính chất đào hoa, trước khi không bị “Hóa” thì không có đào hoa hoặc có đào hoa nhưng loáng thoáng, rốt cuộc Liêm Trinh vì sao mà hóa vậy? Điểm mấu chốt nằm chính ở Thiên can, Thiên can Giáp làm cho Liêm Trinh hóa Lộc, Thiên can Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị, cả Giáp và Bính đều làm cho Liêm Trinh tinh “Hóa khí” mà huyễn hóa xuất hiện đào hoa nhiều lên. Nếu như cung Phu Thê chủ chưởng về tình cảm, Liêm Trinh hóa Kị là thiên hướng đầy đủ đào hoa nhục dục, bởi vậy dễ gặp họa vì tai tiếng tình dục hoặc quan phi, nên có nói là “sát tù tinh”, đây là tiếp cận vế đầu tiên; cũng là sau khi Liêm Trinh hóa Kị hiện tương mới có, sở dĩ Liêm Trinh hóa Kị trừ đào hoa ra còn sẽ có thể đụng phạm pháp luật, thậm chí không tốt còn bị phán tử hình, cho nên sao này sau khi hóa Kị ác tính rất là nghiêm trọng, nếu là nhân viên công vụ thì mệnh vận rất dễ gặp cảnh bị điều tra hoặc mất chức, nếu là người dân thường cũng rất có thể khẩu khí ẩn nhẫn không đủ mà phạm phải sai lầm lớn. Cho nên Liêm Trinh sau khi hóa Kị nói chung là hiện tượng khí hóa tương đối hung ác.

Mà Liêm Trinh hóa Lộc rất là có nhân duyên đào hoa, là thuộc về đào hoa thuần khiết đoan chính đứng đắn, không dẫn khởi hiện tượng quan phi hoặc thất trinh, trái lại là chính trực, người giữ gìn trật tự cương trực công chính, là người giám sát hoặc nhân viên chấp chưởng điều tra giám sát bên tư pháp. Cho nên hiện tượng “Hóa khí” nếu như là “Hóa Lộc” hoặc “Hóa quyền” hoặc “Hóa khoa” thì thường thuộc may mắn, một khi gặp phải khí hóa là “Hóa kị” sẽ làm cho mặt trái của “Tinh diệu” hiển hiện rất rõ, sao lại gọi là “Mặt trái” mà không gọi là “Ác tính” vậy? Nguyên bởi một số tinh diệu đặc tính mặt trái của nó không phải là ác, thí dụ như sao Thiên Đồng khi hóa Kị thì có hiện tượng hay lười nhác, ẩn nhẫn, không tích cực nhưng lại không làm ác, vì thế chỉ có thể gọi đặc tính “Mặt trái” của tinh diệu thôi. Cái hiện tượng “Hóa khí” này là căn cứ vào [Thiên can], xem người muốn suy đoán là tình cảm hay là sự nghiệp, thì lấy Can cung cung nhân sự tương ứng tới phi hóa, xem là sao nào hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Kị liền có thể huyễn hóa thành hiện tượng sự kiện, cho nên phải thuộc lòng thành thạo [Thiên can Tứ hóa biểu]. Còn có “Khí hóa” có tính chất tác dụng theo thời, khí hóa của đại hạn thì có hiệu quả tác dụng chủ quản trong mười năm, trải qua đại hạn đó thì mất đi hiệu lực, không giống như “Chất hóa” và “Dị hóa” không có hạn chế giới hạn về thời gian tác động, nó tác động đến cả đời giống như địa lôi mai phục trên con đường của nhân sinh, một khi đương sự đụng phải tức thời đã đến và đạp phải nó sẽ nổ tung.

Còn có “Hóa khí” có hiệu ứng tầng tầng tăng mạnh, Tứ hóa của Can cung cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên phi xuất lai sẽ từng tầng cường hóa tác lực, cát lực sẽ được tăng mạnh, hung lực cũng sẽ tăng cường. Bởi vì tác dụng của “Hóa khí” sẽ tùy Tứ hóa của cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hay lưu niên mà tăng giảm lực tác dụng, vì thế nó sẽ có “Thời kỳ phát tác” của nó, một khi tác dụng yếu bớt thì sẽ không phát sinh. Do đó, có thể dùng để kết luận thời kỳ phát tác của sự kiện, mà những cái như “Chất hóa”, “Dị hóa” lại không có được công năng này.

Cho nên một viên sao có bốn loại biến hóa diện hướng, các yếu tố liên quan đến việc tạo điều kiện cho sự thay đổi này đã được thuật ở trên, mong rằng độc giả suy nghĩ sâu xa được bí quyết ở trong đó, để có thể ứng dụng được thuận buồm xuôi gió.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để giải thích tình hình ứng dụng tinh diệu tứ hóa luận mệnh, những thứ khác không có quan hệ tới chủ đề này xin được tạm lược bớt đi.

Chủ nhân ví dụ này nói rằng:

Vào đầu năm năm 31 tuổi (năm Mậu Tý) người bạn trai qua lại với nhau đã được 12 năm rồi mà không hiểu tại sao lại mỗi người mỗi nơi, tình cảm sâu nặng, luôn lởn vởn trong đầu, ngày mùng 5 tết âm lịch thì tự sát, nhưng được Giáp tiên sinh cứu lên, trong những ngày tâm trạng xuống thấp Giáp tiên sinh vẫn luôn ở bên cạnh cổ vũ động viên giúp đỡ tôi, rồi có một ngày đột nhiên nói với tôi rằng: “Rất muốn được chăm sóc cô mọi lúc”.

Làm cho tôi có chút động lòng, nhưng hắn đã kết hôn, tuy rằng vợ chồng bọn họ lúc đó ở chung với nhau không êm thấm, lại vẫn có quan hệ hôn nhân bảo đảm, tôi không quan tâm nhiều danh phận nhưng lại rất sợ bị thương tổn lần nữa, không biết nên làm thế nào cho phải?

Những lời kể cặn kẽ mô tả quá trình tinh thần như mệnh lệ này cung cấp khá nhiều đầu đề nghiên cứu có thể dùng để tham khảo:

  • Vì sao cô ấy có đoạn tình cảm kéo dài được như vậy? Người bình thường thì nói chuyện khoảng ba năm là đã có kết quả rồi, là tinh diệu nào hoặc cái nhân tố gì trên mệnh bàn có thể cung cấp để cân nhắc xem xét sự biểu hiện của tượng này chứ?
  • Tinh diệu nào khiến cho đoạn tình cảm này tan vỡ nhanh vậy?
  • Vì sao tình cảm tan vỡ lại xuất hiện hành vi bản thân muốn kết thúc cuộc đời cơ chứ?
  • Vì sao khi tự sát lại có thể được giải cứu thoát khỏi hiểm nguy?
  • Tại sao sau khi được cứu vớt lại rơi vào lưới tình với người không hợp pháp vậy chứ?

Người viết chỉ là nhắc nhở mọi người nhằm vào mệnh lệ, phải từ trong lời tự thuật thông thường tìm ra bí kíp có thể nghiên cứu nhằm làm công lực của mình được nâng cao lên.

Trước tiên là nói về hiện tượng “Chất hóa”, cho nên trước đem tứ hóa năm sinh lược bớt đi, Thái Âm cư Hợi cung có thuyết “Dậu Tuất Hợi cung nhập miếu, Bính Đinh nhân tài quan cách, cát tinh chúng đại quý”, nhưng người này là người sinh năm Mậu, cũng không hợp tài quan cách, thế nhưng “Sao này thuộc Thủy, là chủ Điền Trạch cung, có phước lành, cung Mệnh có sao này tọa sáng lại có cát tụ tập, lấy hưởng phúc để luận”. Tuy rằng không hợp tài quan cách nhưng cũng có một phần được “hưởng phúc”, mà cung Hợi là Thủy vị, Thủy tinh nhập Thủy vị, thế Thủy càng vượng, “hưởng phúc” là đối với nam nhân thời cổ xưa mà nói vì thường nam nhân có tiền hay nạp thiếp. Nhưng mà thời hiện đại không như thế, huống chi là phụ nữ, vì thế Thủy vượng lại dẫn tới “tình cảm tràn động”, còn như “là người thông minh tuấn tú, tích cách đoan trang tao nhã thuần tường” cũng không cần luận nhiều đến bởi đây là chỉ đơn nhất Thái Âm tinh cư Hợi mà luận.

Thế nhưng còn có một sao quan trọng khác là Thiên Hình, vai trò không kém gì chủ tinh, ngũ hành thuộc Hỏa, [Hỏa] tinh nhập Thủy vị, đương nhiên bị giảm uy, “Thiên Hình thủ Mệnh Thân, không là tăng đạo, định chủ cô hình, không yểu thì nghèo”. Lại nói: “Hình cư Dần thượng tịnh Dậu Tuất, cánh lâm Mão vị tự quang vinh, tất ngộ văn tinh thành đại nghiệp,chưởng ác biên cương bách vạn binh”. Bởi vì là sao này chủ “vũ dũng, cô khắc”, nhưng mà không nhập vị trí miếu ở “Dần Mão Dậu Tuất” thì “vũ dũng” giảm đi mà “cô khắc” lại tăng lên, Thiên Hình kị nhất đồng cung với sao thuộc Thủy, huống chi còn lạc nhập Thủy vị! “Hỏa” tinh làm cho „Thủy” tinh bị giảm uy lực, lại còn bị cái mát của Thủy vị làm cho sức mạnh “vũ dũng” giảm đi. Cho nên tổ hợp Thái Âm với Thiên Hình sản sinh tác dụng “Dị hóa” mà có lời bình “Thiên Hình cư hãm địa được Nhật Nguyệt củng chiếu, cũng chủ phụ mẫu khí dưỡng, nhị tính duyên sinh, vi xướng tác tỳ, hoặc vi thiên phòng vi thiếp, chính thú phản nhi lợi phu tử” cùng với tính chất Thái Âm Hợi cũng có độ biến dị rất là lớn. Đương nhiên, chúng ta đem lời bình của cổ nhân áp dụng vào thời hiện đại thì cần có sự tu chỉnh cho thích hợp, thế nhưng nội hàm tinh thần trên cơ bản là bất biến. Vì thế mới có quá trình “Cùng với chồng người khác phát sinh cảm tình, muốn cùng chung với nhau bất kể danh phận” và “Hay là lấy làm vợ nhỏ” tương hợp.

Tiếp tục tới xem hành động “Khí hóa”, lúc này cần xem “Tứ hóa năm sinh” và “Tứ hóa Can cung”, cho nên trước tiên đem Tứ hóa năm sinh đới nhập.

Hóa Quyền tinh cư ở cung Mệnh: “Chưởng sinh sát chi thần, thủ Thân Mệnh, … hội Cự Môn Vũ Khúc, tất sự đại sự, chưởng ác binh phù, vi nhân cực cổ quái, đáo xử nhân dục kính; nữ nhân đắc chi, nội ngoại xưng ý”. Trên cơ bản, Hóa Quyền tinh cư Mệnh là người có cá tính kiên nghị, lòng tự trọng mạnh, cho nên “nơi nơi đều muốn người tôn trọng” nếu ngươi xem nhẹ hoặc đánh giá thấp lời của y, nhất định y không để ngươi yên. Thế nhưng, phía sau sự kiên cường ấy lại là yếu đuối, ngoài mặt nhìn như mạnh mẽ nhưng một khi gặp sự đả kích lớn phá đi lớp mặt nạ ấy thì y sẽ hiển hiện ra mặt yếu đuối, như nhất thời nghĩ không thông mà tự sát hoặc xung động mà làm chuyện ngốc nghếch … Bởi vì “Hóa Quyền” cũng có hàm ý hành động chấp trước, vừa nghĩ đến sẽ kiếm cách thực hiện, như nàng một khi gặp phải nam nhân yêu thích sẽ quyết một lòng theo hắn vài chục năm cũng không thay lòng đổi dạ.

Cho nên sợ nhất nó gặp phải chuyện xấu xung kích, bởi vì “Chất hóa và Dị hóa của Sao” đều hiển hiện tính chất “Mặt trái” của sao, tình cảm không như ý cũng rất dễ nghĩ đến “phá hủy bản thân”, huống hồ Can cung Phu Thê là Tân vừa lúc làm Văn Xương hóa Kị tới xung cung

Mệnh, làm cho Hóa Quyền tinh chuyển biến trở thành một loại năng lượng phá hủy bản thân, tại sao lại nói như vậy? Bởi vì lúc này Hóa Quyền tinh của cung Mệnh có hàm ý “sĩ diện chết”, cũng làm cho cô ấy miệng nuốt không trôi không buông bỏ được oán khí, mà “Thái Âm” của cung Mệnh cũng chỉ chính bản thân cô ấy, cung Mệnh bị xung rõ ràng là có sự bất lợi cho chính bản thân. Vì thế từ tượng “Khí hóa của Sao” đến xem, chỉ cần tình cảm (cung Phu Thê) không tốt sẽ dẫn phát mệnh tạo có ý nghĩ phá hủy bản thân mình, đó là một kết cấu mang hàm ý có tư duy lệch trong xử lý tình cảm ở cung Mệnh với cung Phu Thê.

Can cung Mệnh là Quý, làm Thái Âm tự hóa Khoa, có người nói Quý làm Thái Âm hóa Khoa mang tính đào hoa, quả thật không sai, thảo nào làm cho thương yêu “chồng của người phụ nữ khác”, nhưng cũng không thể quên nó cũng có tác dụng “gặp dữ hóa lành” cho nên khi tự sát được người khác giải cứu. Hơn nữa, Hóa Khoa tinh cũng có tác dụng “cứu giải” Hóa Quyền tinh làm giảm sự căng thẳng tăng hứng thú thư giãn; bởi thế sẽ đi tìm kiếm giải đáp, bất kể là mệnh lý, tôn giáo, hay là tâm lý học mà không phải là hỏi không rõ ràng lại chui đầu vào trong ngõ cụt. Bởi vậy, lúc này Thái Âm tự hóa Khoa đối với bản thân cô ấy (Thái Âm) là “Khí hóa” tinh rất có lợi, làm cho suy nghĩ xử sự thiên lệch có thể được chuyển biến dần dần tốt lên.

Mà “Loại hóa” của Sao đâu? Phía trước đã có nói nhiều lần, loại hóa “Thái Âm” tinh của cung Mệnh là phái nữ, là mẹ, là con gái, bản tạo là nữ nhân, cho nên có thể nói đây chính là bản thân cô ấy, mà Thái Âm hoá Khoa rõ ràng có nghĩa là “Hóa khoa” của chính cô ấy đã giải cứu được “mối nguy hiểm” của cô ấy và mang lại hiện tượng “Hoặc là lấy làm vợ nhỏ”.

Bởi vậy, khi giải thích mệnh bàn của một người thì độ sáng của tinh diệu chiếm vai trò quan trọng, và độ sáng này có bao hàm những biến đổi ẩn tàng từng tầng khác nhau của tinh diệu, mới có thể hiển hiện sinh động như thật sự đa dạng sắc màu cuộc sống của người. Tinh diệu tuyệt không phải là “cung Mệnh tọa sao nào cá tính ra làm sao”, đặc tính như vậy quá giản đơn, đó chỉ là kiến thức nhập môn cho người mới học Tử Vi Đẩu Số thôi, còn muốn đi sâu nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số thì phải hiểu rõ được tinh diệu đại biểu rất đa dạng sắc màu của cuộc sống, tinh diệu nhất định phải được trao cho các đặc tính nhiều tầng thứ khác nhau hoặc chủng loại khác nhau thì như vậy mới có thể bám sát tượng nhân sự vật trong sinh hoạt của con người. Lúc phân giải mệnh bàn thì cũng mới có thể lấy các hành vi hoặc sự vật trong cuộc sống để thuyết minh, mà sẽ không giống cổ nhân phê mệnh tổng hợp: “Phá Quân nhập miếu thế như sông lớn, chuyên quyền nắm giữ chấn chỉnh tám phương, Thất Sát cạnh cạnh (LC chú: nguyên văn là lăng lăng

  • ý chỉ góc do hai mặt phẳng tạo nên, cả Thất Sát với Phá Quân và Tham Lang luôn tạo thành thế tam giác trên đồ hình mệnh bàn) chủ chính lệnh, Tham Lang chiếu hợp được tương trợ, rõ ràng có sự tương trợ mà không thiên lệch, văn võ đều tài năng có thể ở bên phò tá …”, hành văn có vẻ tuy tốt nhưng ý nghĩa lại dễ làm người khác hiểu sai ý, làm cho người khác như trong sương mù, có xem mà không hiểu được.

Lúc sử dụng Tinh diệu, liên quan đến “Bốn loại biến hoá”, đây cũng là một loại quan hệ của “Tứ hóa”, đây là học tập thiên phú tinh diệu tuyệt đối không nên sao lãng, bốn loại biến hóa

này có sự tương hỗ như Biểu với Lý, cho nên không thể chỉ luận một loại “Miếu hãm lợi vượng” hay là “Tổ hợp tinh diệu”, mà còn phải chú ý đến hiện tượng “Loại hóa” và “Khí hóa” mới có thể làm cho hình tượng nhân sự vật được hiển hiện một cách rõ ràng, mà học tập tính chất của sao chính là phải biết bốn loại biến hóa: Chất hóa, Dị hóa, Loại hóa và Khí hóa của Tinh diệu.

Thức Mở Đầu Tứ Hóa Phi Tinh

Có rất nhiều độc giả gửi thư hoặc điện báo ngỏ ý mua “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích”, nhưng khi nhìn thì thấy phương thức phi hóa với ý nghĩa của tứ hóa còn nhiều chỗ cần phân giải, cho nên hiện tại dùng phương thức minh họa từng bước từng bước để giải thích.

Tứ hóa tinh chia làm: tứ hóa năm sinh, tứ hóa của các cung, tứ hóa đại hạn, tứ hoá lưu niên … mỗi một tứ hóa có sự phân chia thành từng cấp chưởng quản các sự kiện của giai đoạn đó có hiển tượng hay không, cho nên trước tiên phải nắm rõ được phương thức khởi phi và độ dài ngắn thời gian lực tác dụng có hiệu quả của những tứ hóa này.

*Tứ Hóa Năm Sinh

Trước tiên từ “Tứ Hóa Năm Sinh” nói tới, giả thiết có một mệnh bàn nam mệnh như hình trên, người này sinh năm Giáp Tý, bởi vậy căn cứ Thiên can Giáp của “Giáp Tý”, tìm theo bảng thập can tứ hóa thì biết Thiên can Giáp là Liêm Trinh hóa Lộc, thì tìm được Liêm Trinh trong mệnh bàn ở cung Điền Trạch, thì đánh dấu ở chữ Liêm Trinh (có thể dùng khung hoặc vòng tròn đều được); Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân thì ở Phụ Mẫu, thì cũng đánh dấu ngay chỗ sao Phá Quân ở cung Phụ Mẫu; Vũ Khúc hóa Khoa ở Tật Ách, đánh dấu ngay dưới Vũ Khúc; Thái Dương hóa Kị , Thái Dương ở Tài Bạch, ngay phía dưới Thái Dương tinh đánh dấu lại. Chú ý tứ hóa và vị trí tinh diệu không thể hỗn loạn lệch chỗ với nhau, nếu không sẽ không rõ được là sao nào tham gia tứ hóa, hơn nữa sao khác nhau hóa tinh sẽ khác nhau nên ý nghĩa cũng sẽ có sự khác nhau, bởi vậy hóa tinh nên viết ở chính xác vị trí phía dưới của tinh diệu mới là tốt!

Như vậy là có thể biết “Tứ hóa năm sinh” phi nhập vào cung vị nào và sao nào xuất hiện biến hóa, bởi vậy chúng ta có thể nói:

  • Hóa Lộc năm sinh nhập Điền Trạch
  • Hóa Quyền năm sinh nhập Phụ Mẫu
  • Hóa Khoa năm sinh nhập Tật Ách
  • Hóa Kị năm sinh nhập Tài Bạch

Cung vị mà Tứ hóa năm sinh rơi vào, đối với cung vị và sao ở bên trong đó sẽ sản sinh tác dụng “Biến đổi về bản chất”, đặc tính tinh diệu sẽ bởi “Khí hóa” mà bay hơi phát xuất khí “Cát” hoặc “Hung”. Khi vận đồ có sự bay hơi đó sẽ xuất hiện biến hóa, tập trung hướng đến mệnh bàn ví dụ trên, căn cứ vào cung vị Tứ hóa năm sinh lạc nhập có thể giải thích là …

  • Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch: biểu thị mệnh tạo rất lo cho gia đình, quan tâm đến các chuyện lớn nhỏ trong nhà.
  • Phá Quân Quyền nhập Phụ Mẫu: đối với cha mẹ nói chuyện thái độ tương đối thẳng thắn, tương đối sĩ, có lúc hơi to tiếng, nếu không có sự tu sửa thêm rất dễ almf cho người khác cảm thấy mình đối với cha mẹ bậc bề trên không biết lớn nhỏ, không có lễ phép.
  • Vũ Khúc Khoa nhập Tật Ách: dung mạo khi lớn lên nhìn không mập không ốm, hình thể cân xứng, không dễ nhiễm dính bệnh dịch, một khi bị bệnh tật dễ gặp được thầy giỏi thuốc tốt.
  • Thái Dương Kị ở Tài Bạch: tâm tư đều đặt ở tiền tài, làm sao dư tiền? Làm sao tiết kiệm tiền? Làm sao kiếm tiền? Dùng tiền có biểu hiện hay tính toán chi li, dùng tiền không hào phóng, tính toán tỉ mỉ chút một.

Hóa tinh do Thiên can năm sinh phi xuất ra có lực ảnh hưởng lâu dài, đối với mệnh tạo đều sẽ sản sinh tác dụng cả đời, tuy rằng ngày sau giáo dưỡng có thể cải biến đặc tính của người, nhưng trong tiềm thức vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tứ hóa tiên thiên, biểu hiện ở hành vi cử chỉ, mô thức tư duy … trong sinh hoạt hàng ngày.

Cái này giống như là thuyết pháp căn bản thông thường dễ gặp, còn cần đi sâu tham khảo thêm nữa.

Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch:

Có Thiên Phủ với Thiên Diêu đồng cung, với cung Điền Trạch mà nói thì tổ hợp Liêm Trinh, Thiên Phủ là cát lợi. Thiên Phủ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, người hiện đại làm về nông tương đối ít đi, có thể nói rằng điền địa có hiệu quả kinh tế rất cao, khi thêm Hóa Lộc càng tăng thêm năng lực có thể có hoặc nắm giữ bất động sản, có thể thấy được bản thân mệnh tạo có một sự quan tâm mạnh mẽ trong đầu tư về bất động sản, nhưng nó cũng cho thấy tình cảm dành cho gia đình của bản thân mệnh tạo rất sâu đậm, hiển rất rõ, đây là lấy Lộc năm sinh nhập Điền Trạch để luận. Thiên Diêu cũng nhập Điền Trạch, Thiên Diêu là sự vật tốt đẹp, là vật điểm tô cho đẹp hoặc trang sức, đại biểu sự bố trí ở trong nhà tương đối lộng lẫy, hoa văn thiết kế có thể là mời những nhà thiết kế nổi tiếng về thiết kế cho, mua các sản phẩm kỹ nghệ hoặc sản phẩm trang trí về làm đẹp cho căn nhà.

Còn như có thể có nhiều điền trạch hay không hoặc là vì đầu tư bất động sản mà kiếm tiền, do liên quan tới hành động đầu tư và sự tốt xấu của tài vận, nên cần tham khảo thêm các cung vị khác, không phải là chỉ nhìn Điền Trạch mà thôi. Đây chỉ là hàm ý của Hóa Lộc năm sinh nhập cung Điền Trạch.

Mà Can cung Điền Trạch là Mậu:

  • Tham Lang hóa Lộc ở Nô Bộc: Tham Lang là giao tế xã giao, biểu thị rất thích tiếp đón khách vào nhà, thích được chiêu đãi giống như đàm luận cổ phiếu hoặc đầu tư vậy (Tham Lang Hỏa Tinh), mọi người đều được hưởng lợi từ nhau (Hóa Lộc).
  • Thái Âm hóa Quyền ở Quan Lộc: Thái Âm là chủ điền trạch, hóa Quyền là thành tựu, bởi vậy sé đem nhà cửa thu xếp cho sạch sẽ gọn gàng liên tục làm cho người khác vừa nhìn thì tôn sùng người chủ của nhà này, sẽ rất chú ý nhà, quản lý trông nom việc nhà như thế nào cho ổn thỏa, bản thân nghe xong cũng sẽ rất đắc ý (Hóa Quyền).
  • Hữu Bật hóa Khoa ở Thiên Di: Hữu Bật là tình người, ở Thiên Di biểu thị vì quan hệ gia đình nhà mình mà ở bên ngoài có danh dự tương đối tốt.
  • Thiên Cơ hóa Kị ở Phu Thê: Thiên Cơ có hàm ý chỉ biến động với suy tính, bởi vậy vợ chồng đôi bên rất dễ vì chuyện trong nhà mà tính toán chi li, dẫn tới tranh chấp hoặc ẩu đả, vì thế khiến cho bên kia dễ ngoại tình.

Bởi vậy tổng hợp lại các điều thuật ở trên, có người vì sĩ diện mà mời đồng sự hoặc bằng hữu tới nhà ăn uống nhậu nhẹt, bàn luận trên trời dưới bể nhằm chứng tỏ bản thân rất có thành tựu, nhưng lại đem vấn đề dọn dẹp sạch sẽ cho phối ngẫu xử lý, kết quả là quan hệ vợ chồng bất hòa, thậm chí ly hôn, cái này là tổ hợp tứ hóa thôi!

Phá Quân Quyền ở Phụ Mẫu:

Có Lộc Tồn, Linh Tinh đồng cung, Phụ Mẫu phiếm chỉ những người có thể quản thúc ta như thầy cô giáo, cơ quan chính phủ, chủ quản công ty, người có vai ngang với cha của ta … Vì là Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân vốn có tính làm trái, Hóa Quyền càng tăng thêm dạng đặc tính làm trái, không cùng lòng với mình nữa này lên, cho nên khi tiếp xúc nói chuyện với bề trên thì giọng nói hoặc khí thế như muốn đem đối phương đè xuống, bởi vậy dễ làm xung quanh cảm thấy trong từ ngữ như không có tôn ti, không phân biệt lớn nhỏ, nói một câu chặn một câu, dễ lời qua tiếng lại với bề trên dẫn tới tranh chấp. Bởi vậy quan hệ đối đãi giữa bản thân với phụ mẫu cũng không tốt, Phá Quân là tinh diệu vốn chủ làm trái ngược, ý thức bản thân rất mạnh, cho dù cha mẹ yêu cầu rất nghiêm túc, cũng dám đối trị, vì thế thỉnh thoảng xuất hiện xung đột giữa cha con hoặc mẹ con dẫn tới khó có thể dự liệu được kết quả ví dụ như là rời nhà trốn đi hoặc lầm

vào lạc lối, nhưng mà đó là cha mẹ đối với ta là “hà khắc, ngược đãi” hay là “tình yêu thương sâu đậm, trách nhiệm thiết thực” đây? Sẽ khán Tứ hóa của Can cung cung Phụ Mẫu, đơn cử ví dụ mà nói như rất nhiều đầu đảng lão đại xã hội đen đối với con cái của mình vẫn là “Chỉ giới tình thâm” (LC chú: ý chỉ tình thâm nhưng giá trị như tờ giấy), đối với con cái mà nói thì khả năng của cung Phụ mẫu chính là tình hình tề tụ của các trưởng bối bề trên. Thế nhưng tứ hóa của Can cung Phụ Mẫu cũng phi bố (LC chú: phi là phi hóa, bố là bài bố) đến trong tam phương của mệnh bàn, thì có thể phán đoán tình cảm của phụ thân đối với hắn rất là sâu đậm.

Nhưng nếu Hóa Lộc ở cung Thiên Di thì lại có chút khiếm khuyết, bởi vì cha mẹ sẽ không có nhiều biểu hiện quan tâm thương yêu con cái ra bên ngoài mà chỉ len lén quan tâm cho nên con cái sẽ không cảm thụ được sự thương yêu của cha mẹ mà có hồi báo, sẽ khán Tử nữ Mệnh cung cung Can tứ hóa (LC chú: dòng này dịch nguyên văn, không rõ ý tác giả chỉ về việc khán ở hành hạn hay đang nói ở trên nguyên cục, nếu nói ở nguyên cục thì có điểm không được khớp về Can cung, độc giả lưu ý), như ví dụ này “Phá Quân Quyền, Lộc Tồn, Linh Tinh” thì cha nhất định là người rất quả quyết táo bạo, độc đoán độc hành, nhưng con cái thì lại vẫn hay tranh luận với cha mình.

Nhưng Tứ hóa của Can cung – Bính:

  • Thiên Đồng hóa Lộc  – lạc nhập Thiên Di àchiếu cung Mệnh.
  • Thiên Cơ hóa Quyền  – lạc nhập Phu Thê à chiếu Quan Lộc
  • Văn Xương hóa Khoa – lạc nhập Nô Bộc
  • Liêm Trinh hóa Kị– lạc nhập Điền Trạch

Hóa Lộc Hóa Quyền phi nhập “chiếu” tam hợp của cung Mệnh, bởi vậy tuy rằng cha mẹ đối với mệnh tạo tương đối nghiêm khắc, nhưng mà xuất phát từ tâm thái trách nhiệm thương yêu thiết thực mà không phải là ngược đãi. Đương nhiên, quan hệ giữa mệnh tạo với cha mẹ về sau tương đối gần gũi thân thiết, sẽ không vì cha mẹ nghiêm khắc đối với mình mà có sự xa cách, cái này là hiện tượng cát lợi.

Vũ Khúc Khoa ở Tật Ách:

Hóa Khoa năm sinh tiến nhập vào trong cung Tật Ách, đại biểu thân thể cá nhân lớn lên tương đối cân xứng, không cao không lùn không mập cũng không ốm, hơn nữa không dễ mắc bệnh, cho dù sinh bệnh cũng có thể khám và chữa trị đúng lúc mà khỏi bệnh, thời khắc nguy hiểm trí mạng kề bên cũng có thể chuyển nguy thành an, đây chỉ là hiện tượng có “Hóa Khoa” ở Tật Ách. Còn như tổ hợp sao tọa ở trong cung cũng có ảnh hưởng, ở ví dụ này: Vũ Khúc Khoa, Vũ Khúc là khí quản, cũng bởi hóa khí thành Khoa cho nên khí quản không dễ mắc bệnh. Đồng

cung còn có Thiên Tướng, Văn Khúc đều thuộc tinh diệu cát lợi, bởi vậy không dễ bị mắc phải tật bệnh ác tính khó trị liệu.

Thế nhưng hệ thống tiết niệu sẽ tương đối kém, hiển hiện ra ngoài chính là thường xuyên đi tiểu hoặc tiểu khó, cảm giác giống như rất khó loại bỏ sạch sẽ, đôi lúc cứ giọt giọt khiến hổ thẹn, đây chính là nhược điểm về thể chất do tiên thiên mang tới.

Can cung Tật Ách là Nhâm:

Khiến cho sao Vũ Khúc trong cung Tật Ách hóa thành Kị, mới vừa có nói qua Vũ Khúc chỉ khí quản, hóa Kị đương nhiên khí quản sẽ nhược hóa, có hiện tượng dị ứng mũi hoặc thở hổn hển, nếu đã có Hóa Khoa bảo hộ thì có còn mắc những chứng bệnh như thế hay không? Đáp án của ta là – có, không cách nào tránh được, bởi vì Vũ Khúc Hóa Khoa đã bị Vũ Khúc Hóa Kị phá hủy, trái lại còn làm cho bệnh tình càng khó trị liệu, đây là quan hệ tứ hóa có hàm ý “kéo dài dây dưa”, cảnh ngộ tốt cũng không được mà xấu cũng không đến nỗi chết, với sự khống chế trong phạm vi có thể, lại tật bệnh đeo bám nhiều năm, tạo thành sự quấy nhiễu phức tạp đối với cuộc sống của mệnh tạo mà thôi.

Thái Dương Kị ở Tài Bạch:

Kị tinh năm sinh có hàm ý khiếm khuyết, thiếu khuyết hoặc mong cầu chưa đủ, ở Tài Bạch đương nhiên sẽ biểu hiện ra những tính chất đặc biệt này, tỷ như vì là không có tiền cũng rất keo kiệt, hoặc mong cầu nhưng không đủ mà liều mình kiếm tiền, nhưng cuối cùng vẫn cảm giác mình không có tiền, đây là hàm ý được gọi là “Thiếu nợ Kị” của Kị năm sinh, thiếu nợ ở “Tài Bạch” nên phải nỗ lực kiếm tiền để trả nợ, bởi vậy khiến cho bản thân tận lực kiệt sức. Tiếp tục nhìn đến tính chất của sao thì Thái Dương chủ bác ái, Thiên Lương là thiện cho nên tiền tài của bản thân thì cam tâm tình nguyện vì người mà hao tổn ở phương diện phụng sự hoặc làm việc thiện, là “mang tiền của mình đi giúp đỡ người khác”. Hơn nữa Thái Dương chủ nam nhân, là phu tinh, mà mệnh tạo lại là nam nhân, cho nên tiền tài bản thân kiếm được không nhiều lắm hoặc vì tiêu xài nhiều mà hết, khả năng chi phối vận dụng tiền tài của bản thân không nhiều, cũng có khả năng tiền tài của bản thân bị người thân là nam giới phá. Vì thế gặp phải người thân thuộc là nam giới tới vay tiền thì phải đặc biệt coi chừng, làm theo khả năng, không nên để tài lực bản thân bị thương tổn.

Tiếp tục tới nhìn tứ hóa của Can cung là Quý thì:

  • Phá Quân hóa Lộc nhập cung Phụ mẫu
  • Cự Môn hóa Quyền nhập cung Thiên Di
  • Thái Âm hóa Khoa nhập cung Quan Lộc
  • Tham Lang hóa Kị nhập cung Nô Bộc

Hóa Lộc, Quyền, Khoa cũng không có hình thành nên góc độ tam hợp cho nên tác dụng là nhỏ, sự trợ giúp đối với bản thân không lớn, mà Tài Bạch hóa Phá Quân Lộc nhập Phụ Mẫu, mà phụ mẫu là gì vậy? Đem Nô Bộc coi như cung Mệnh thì Phụ Mẫu chính là cung Tài Bạch của Nô Bộc, mà Tài Bạch của ta hóa Lộc tiến nhập Tài Bạch của Nô Bộc, hàm ý chính là “tiền tài của ta tiến nhập vào túi của bạn bè” mà Tham Lang hóa Kị lại ở Nô Bộc cũng có hàm ý là tiền tài bay đến chỗ bằng hữu, đem hai loại tứ hóa này tổng hợp lại để đồng thời khán, tại sao phải tổng hợp để khán? Bởi vì “Lộc tùy Kị tẩu”, tiền mang cho bằng hữu có đôi khi được hồi báo rất hậu hĩnh, thế nhưng ở ví dụ này thì phi hóa Lộc hóa Kị đều ở cung Nô Bộc và cung Tài Bạch của Nô Bộc, rất rõ ràng tiền tài đều đến phía bằng hữu, nếu dùng từ để giải thích phù hợp theo hiện tượng xã hội nay hàm ý chính là bị “Lừa đảo”. Bởi vậy, qua lại với bằng hữu có liên quan về tiền bạc phải đặc biệt coi chừng cẩn thận, tránh tường hợp tiền không có mà bằng hữu cũng mất. Vì thế có bằng hữu tới vay tiền thì nên thoái lui, hoặc là chỉ cho mượn chút ít thôi, tránh cho hao tổn tới mức quá nặng.

Phía trên đây là nói về quan hệ của tứ hóa năm sinh và tứ hóa cung vị tiên thiên, vận đồ đại hạn cũng sẽ cùng với tứ hóa cung vị tiên thiên và tứ hóa năm sinh hình thành góc độ “hiệu

ứng” sản sinh ra loại phản ứng nào đó, đây là biến hóa của “vận đồ”. Mệnh bàn tiên thiên là thùy tượng, là đặc điểm bẩm sinh, khi còn nhỏ thì tuân theo khuôn phép của trẻ nhỏ, sau khi lớn lên phần nhiều vẫn là tuân theo pháp luật, khi còn bé có thể bướng bỉnh gây sự, sau khi lớn lên đại để phần nhiều dễ vi phạm pháp luật hơn. Bất quá cũng không dám nói, cũng có một số ít chuyển biến, cho nên tiên thiên mệnh chính là quan sát mức biến hóa của vận đồ tương lai, ở Đẩu Số xưng là “thùy tượng”.

*Tứ Hóa Đại hạn:

Vận đồ chính là cung Mệnh đại hạn chuyển động mà 11 cung vị khác cũng theo đó mà chuyển dời mà hiện tượng khởi phục tiêu trưởng các hạng sự vật được sản sinh, cái này phải thông qua quan hệ giữa mệnh bàn đại hạn và mệnh bàn tiên thiên để quyết định trạng thái “khởi phục tiêu trưởng”, cho nên trước hết phải đem mệnh bàn tiên thiên y theo đại hạn chuyển dời thành đại hạn bàn cục, phải chuyển dời như thế nào chứ?

  • Quyết định là “âm nam dương nữ” hay là “dương nam âm nữ”, nếu âm nam dương nữ thì chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ, nếu dương nam âm nữ thì chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Xem Thiên can năm sinh là gì: các can Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là can dương, các can Ất Đinh Kỉ Tân Quý là can âm, ví dụ như người nam sinh năm Giáp Tý thì can trong đó là dương cho nên là dương nam và đại hạn sẽ theo chiều thuận của kim đồng hồ mà chuyển dời.
  • Quyết định thời điểm bắt đầu và kết thúc một đại hạn: xem mệnh bàn thuộc cục số nào, như ở ví dụ trước có nói là Thủy nhị cục, cho nên bắt đầu từ 2 tuổi, mỗi khi gặp 2 thì đổi đại hạn, như 2 ~ 11 tuổi là đại hạn thứ nhất, 12 ~ 21 tuổi là đại hạn thứ hai, 22 ~ 31 tuổi là đại hạn thứ ba … còn lại cứ loại suy thôi.

Như ở ví dụ người nam ở phía trước sinh năm Giáp Tý (1984) đến năm Mậu Tý 2008 là được 25 tuổi tính cả tuổi mụ, cho nên cung Mệnh đại hạn đã tiến vào cung Mão, bởi vậy đại hạn bàn cục thứ ba trở thành một mệnh bàn mới.

Để có thể vừa xem thấy ngay, giảm thiểu phức tạp, đại hạn mệnh bàn chỉ giữ lại ba cung là cung Mệnh đại hạn, Quan Lộc đại hạn và Tài Bạch đại hạn, còn lại toàn bộ bỏ bớt đi không viết, nhưng không phải không chọn dùng, như khán vận đồ tử nữ thì vẫn phải mượn dùng cung Tử Nữ đại hạn.

Tứ Hóa Của Các Cung Vị Đại Hạn Bàn:

Trước tiên nói rõ tứ hóa đại hạn bàn cục phải phối hợp với tứ hóa tiên thiên bàn cục, xem xét góc độ hình thành giữa chúng để quyết định cát hung. Vì hóa thì nhiều cho nên chỉ nói giản lược về hóa cung Mệnh, 11 cung vị khác có thể phỏng theo phương thức này, tham khảo sách này hoặc trong “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích” có tiết lộ về kỹ thuật và ví dụ luyện tập tương tự.

Đầu tiên, trước quan sát tình trạng tổ hợp tinh diệu của tam hợp cung Mệnh đại hạn, xem có hóa tinh năm sinh tiến nhập hay không, liền có thể nắm được đại khái tình hình đại hạn.

Như cách cục ở Mão hạn của ví dụ này: cung Mệnh đại hạn có Kình Dương tọa, đối cung có Thái Dương Kị, Thiên Lương, Kình Dương của cung Mệnh thì cũng cho thấy ở đại hạn này dễ gặp tai họa đến bất ngờ, lại gặp phải Thái Dương mà Thái Dương chủ nam cũng chủ quan lộc. Vì thế đại hạn này sự nghiệp tất sẽ dễ gặp chèn ép hoặc trắc trở hoặc dễ gặp phiền phức với quan trên dẫn đến không thuận lợi lên chức giành được trọng dụng; bản thân cũng phải cẩn thận chú ý kẻo thương tổn, cả hai sự việc lớn này đều sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự bình thuận của vận đồ đại hạn này. Đặc biệt Thái Dương vì là Kị tinh năm sinh cho nên mười năm vận đồ của đại hạn này đều sẽ bị ảnh hưởng,

Mệnh bàn Đại hạn

Đại cục một năm vận đồ tùy tổ hợp tinh diệu đại khái cũng có thể sáng tỏ được năm sáu

Trở lại lấy Thiên can Đinh cung Mệnh đại hạn phi tứ hóa:

  • Thái Âm hóa Lộc nhập Quan Lộc nguyên cục (Phúc Đức đại hạn)
  • Thiên Đồng hóa Quyền nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)
  • Thiên Cơ hóa Khoa nhập Phu Thê nguyên cục (Tài Bạch đại hạn)
  • Cự Môn hóa Kị nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)

Cung vị mà những hóa tinh này phi nhập là cung nào đó trên mệnh bàn tiên thiên lại là cung vị đại hạn sau chuyển dời, vậy phải lấy cái nào làm chuẩn?

Đương nhiên, phải lấy tiên thiên mệnh bàn làm chuẩn, nhưng có một số trường hợp đặc biệt lấy đại hạn bàn làm chuẩn, trước nhớ kĩ, “tứ hóa đại hạn phải hóa nhập tiên thiên mệnh bàn” mới tốt, đối tượng của “hóa nhập” này bao gồm bốn viên hóa tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kị. Chỉ có Lộc, Quyền hóa nhập tiên thiên mệnh bàn, khí thế tương đối ảo, không qua nổi bấp bênh thăng

trầm, một khi gặp phải suy bại thường thường những thứ sở hữu đều tổn hao, không có cách nào khác bảo tồn. Giả như chỉ có Lộc, Khoa hóa nhập mệnh bàn là “tiền văn nhã”, như dựa vào thanh danh của kỹ nghệ chuyên môn nào đó để kiếm tiền, hoặc là tác gia nổi danh … Mà hóa Quyền, Khoa nhập tiên thiên mệnh bàn, chính là dựa vào năng lực chuyên môn để kiếm tiền, nhưng khổ cực hơn so với tổ hợp Lộc, Khoa; với Lộc, Quyền, Khoa mà nói khi gặp phải ngăn trở xung kích thì vì có Khoa tinh bảo hộ cho nên có thể hóa giải nguy nan, vượt qua cửa ải khó khăn. Nếu là tài vận sẽ không đến nỗi phải bồi thường sạch trơn, túi trống rỗng như lúc đi tắm, chí ít còn có thể bảo tồn nguyên khí, chờ mong tương lai có cơ hội chuyển biến thừa cơ gây dựng lại.

Tại sao viết hai cái Lộc chồng lên nhau vậy? Bởi vì tứ hóa của cung Mệnh đại hạn và cung Mệnh tiên thiên vừa vặn trùng điệp ở một chỗ, vốn có tác dụng “gia thừa”, tốt xấu đều sẽ gấp bội, Hóa Kị của cung Mệnh tiên thiên và hậu thiên đều ở cung Thiên Di, hình thành “Kị xung cung Mệnh”, cũng chính là bàn cục có cách “Hóa Kị của cung Mệnh đại hạn tới xung cung Mệnh tiên thiên”, mà “cung Mệnh tiên thiên hóa Kị nhập cung Thiên Di” hình thành “Song Kị xung Mệnh”,

bởi vậy, một viên Kị tinh xung Mệnh có chút phiền phức nhưng còn có thể chịu đựng được, nhưng hai viên Kị xung Mệnh thì phải cẩn thận, rốt cuộc là phải cẩn thận “chuyện gì” đây chứ? Nếu là “xung cung Mệnh” đương nhiên có tương liên đến sinh mệnh của ta rồi, làm không tốt sẽ có nguy hiểm tới tính mệnh, mà cung Mệnh đại hạn là cung Phúc Đức tiên thiên, trong đó cung Phúc Đức nó chủ chưởng trạng thái tinh thần của cá nhân cho nên là bởi vì trạng thái tinh thần mà nguy hiểm tới tính mệnh, các vấn đề về trạng thái tinh thần ví dụ như tự sát, làm chuyện điên rồ, ma quỷ nhập thân, bệnh tâm thần … Như ở ví dụ này mệnh tạo là vì mắc chứng u buồn mà có khuynh hướng không biết thương xót bản thân mình, nhưng mà Hóa Lộc, Quyền, Khoa của mệnh tạo khá tốt đều tập trung ở tam phương mệnh cục vì thế có tác dụng gặp dữ hóa lành, hai lần định tìm đến tự tử đều được người phát hiện hoặc tìm người khác thổ lộ hết mà giải tỏa giác ngộ được.

Cho nên những cái khác như “Thiên Cơ hóa Khoa, Thái Âm hóa Lộc” hội chiếu ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, Thiên Đồng hóa Quyền ở Thiên Di đều ở trong tam phương tứ chính của cung Mệnh, đại biểu khí thế của cung mệnh còn rất cường vượng, vì thế mặc dù có Cự Môn Kị xung, vẫn có tác dụng bảo hộ, nếu như không có ba tam cát hóa tinh này nhập trong tam phương tứ chính cung Mệnh, như vậy người này cũng rất có khả năng “hồi khứ” rồi. (LC chú: hồi khứ ý chỉ sự quay trở về, trở lại, có thể có rồi mất, lên cao rồi rơi xuống …)

Mệnh lệ này tại sao lại mắc chứng u buồn vậy? Cái này phải xem hóa tinh, tới xung cung Mệnh chính là “Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị”, Thiên Đồng hóa Quyền là muốn “Có biểu hiện, không chịu thua kém, nơi nơi đều muốn cầu hoàn mỹ” còn Cự Môn hóa Kị chính là “Khẩu thiệt thị phi, lời đồn chuyện nhảm”, cho nên trong công tác đều rất nỗ lực chăm chú nhưng kết quả lại nghe được một số lời châm chọc chê cười, vì thế mới mắc chứng u buồn, trải qua trị liệu dược lý với tâm lý nhằm kiềm chế mới có thể từ từ hồi phục.

Như vậy góc độ hình thành của tứ hóa đại hạn ở ví dụ này ở mệnh bàn tiên thiên có phải là cách cục “Tam kỳ gia hội” hay không vậy? Cũng có thể coi là cách này, nhưng lại không có cách “Tam kỳ gia hội” của tiên thiên tới tương hỗ chiếu rọi, chỉ có đại hạn thành cách mà thôi, khó coi là “cát tường” được, chỉ bất quá làm cho y ở đại hạn này bình ổn một chút mà thôi, cho nên mắc chứng u buồn còn có thể đi đến bác sĩ khám và chữa bệnh, không phải đại hạn cung Mệnh độc tọa một viên sát tinh Kình Dương lắm khả năng sẽ áp dụng thủ đoạn phá hủy bản thân.

Bởi vậy, “Tứ hóa đại hạn phải chiếu xạ đến Mệnh bàn tiên thiên” xem có hình thành góc độ đặc thù :

  • Tam kỳ gia hội
  • Xung
  • Chiếu
  • Hội
  • Nhập

hay không, mới có thể xuất hiện hiệu ứng “Cát hung”, đương nhiên còn cần xem xét cân nhắc nhân tố “Tổ hợp tinh diệu” mới có thể, không được phép chỉ nhìn một nhân tố liền võ đoán quả quyết, người viết vẫn hay nhấn mạnh phải “tổng quan toàn cục” thì mới có thể “khái quát toàn cảnh”.

Người viết từng thấy trong một cuốn sách có nói rằng “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Đại hạn bàn cục” tới quan sát cát hung, này là sai lầm, đại hạn bàn là một bàn mượn dùng một đại hạn chuyển dời, toàn bộ đại hạn bàn cũng chuyển dời theo đó. Tiếp tục căn cứ quy tắc suy lý “Thiên địa nhân” bàn, đại hạn bàn trưng tượng đột hiển sẽ ứng nghiệm ở “Lưu nguyệt”, cho nên chuẩn xác mà nói thì phải là “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Lưu niên bàn cục” mới đúng. Quan sát đại hạn tứ hóa có hình thành góc độ hiệu ứng “Tam hợp, xung, chiếu, hội, nhập” có ở lưu niên bàn cục hay không, thì mới có thể suy đoán tiếp lưu nguyệt ứng nghiệm. Bởi vậy nếu không biết quan hệ ở trong đó, một cung có ba tầng ý nghĩa: cung tiên thiên bàn, cung đại hạn bàn, cung lưu niên bàn, nếu không nắm được quan hệ “Phụ thuộc” trong đó, cũng không biết phải tách xuất ra từng tầng để phán đoán suy luận cát hung.

Bởi vậy đại hạn là một trạm kiểm soát trọng yếu, nó muốn hướng lên tiên thiên tiếp nhận thùy tượng sự vật để sau đó giao cho lưu niên để hiển hiện tượng nhân sự vật của sự kiện.

Mệnh bàn Lưu niên

Nếu như trạm kiểm soát này mất liên lạc thì “Sự kiện” không cách nào có thể hình thành được, vì thế mỗi mười hai năm đi qua cái cung đó không nhất định sẽ phát sinh “sự kiện”. Mà là đại hạn đòi hỏi phối hợp mới có thể thành sự, đại hạn là một trạm chuyển tiếp dẫn dắt trọng yếu, khai triển công năng xe chỉ luồn kim làm cho sự kiện từ thùy tượng mà thành hình thành sự một mạch tương thừa, sự kiện mới phát sinh. Vì vậy, trọng điểm phải quan sát của tứ hóa của đại hạn bàn cục là:

  • Một: đại hạn và tiên thiên bàn cục có hình thành góc độ đặc thù gì không?
  • Hai: nếu như có hình thành một góc độ đặc thù của sự việc hạng mục nào đó mà có khả năng ứng nghiệm thì tra xem quan hệ của đại hạn bàn cục và lưu niên bàn cục để tìm ra năm ứng nghiệm.

*Lưu Niên:

Phi bố Lưu niên Tứ hóa Mệnh bàn

Như vậy thì “Lưu niên” lúc suy luận mệnh bàn thì nó có vai trò gì? Tứ hóa có hiệu lực và tác dụng gì không? Thông thường người ta khi toán mệnh thường hay phân giải cát hung lưu niên, căn cứ quy tắc suy luận Tử Vi Đẩu Số là từ “Tiên thiên mệnh bàn” để khởi điểm “Đại hạn mệnh bàn” làm trung gian dẫn dắt quan hệ “Xung chiếu hội nhập” làm chất xúc tác để dẫn phát sự kiện mà ứng nghiệm trong “Lưu niên bàn cục”. Cho nên lưu niên bàn là một “Thụ thể” tiếp nhận góc độ đặc thù hoặc sự diễn hóa tính chất của tinh diệu ở trên tiên thiên và đại hạn mệnh bàn mà làm cho sự kiện xuất hiện. Bởi vậy, giai đoạn lưu niên chủ yếu là quan sát góc độ hình thành của tứ hóa giữa tiên thiên với đại hạn bàn mà suy đoán lưu niên ứng nghiệm, do đó vai trò của lưu niên đã trở nên rất rõ ràng.

Tuy nhiên chưa chắc nó đã hoàn toàn là như vậy, bởi vì góc độ mà tứ hóa cấu thành của tiên thiên với đại hạn bàn nó không chỉ đơn giản có “Tam kỳ gia hội, xung, chiếu, hội, nhập” thôi, còn có một số không thể hoàn toàn quy nạp vào năm loại góc độ đặc thù này, lúc này cần ánh tượng của “Tứ hóa lưu niên” tới đột hiển sự kiện, lúc này cũng giống như Cung Can khởi phi tứ hóa của Cung “Lập tượng”, xem xem góc độ phân bố trên mệnh bàn có hình thành các góc độ với tiên thiên hoặc đại hạn hoặc tứ hóa đã thuật ở trên hay không nhằm quyết định xem hiện tượng là cát hay là hung.

Như ví dụ người sinh năm Giáp Tý thuật ở trên, năm 22 tuổi (năm Hợi) vừa lúc tiến nhập vào tuyến có Thiên Cơ hóa Khoa và Thái Âm hóa Lộc, cũng là tuyến Quan Lộc – Phu Thê, cái này nó đại biểu hàm ý gì? Biểu hiện trong lòng hắn muốn có thành tích về phương diện sẹ nghiệp, một loại tư duy muốn có biểu hiện; thế nhưng Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị

  • cung Thiên Di lại xung đến cung Mệnh, cũng là vị trí cung Phúc Đức của lưu niên năm 22 tuổi, mà Thiên Đồng và Cự Môn có hàm ý có sự tự mâu thuẫn. Hơn nữa cung Mệnh còn có Đà La tinh cũng là tinh diệu nhìn trước ngó sau, do dự không quyết, rất muốn thể hiện nhưng lại do dự, đó không phải là tự tìm khổ não hay sao? Bởi vậy tình huống như này dễ mắc chứng u buồn.
  • ví dụ này mà nói thì lưu niên Hợi chỉ là tiếp nhận kết quả của tiên thiên với đại hạn, mà ứng nghiệm ở năm Hợi, mà hoàn toàn không cần phải đi xem xét tứ hóa năm Hợi rốt cuộc là phân bố ở tiên thiên bàn cục hoặc lưu niên bàn cục.

Nếu muốn phi bố lưu niên Mệnh cung tứ hóa cũng có thể làm cho bàn cục thêm rõ ràng:

Dùng hình bát giác đóng khung ở chính chỗ tứ hóa lưu niên (LC chú: ở đây tác giả dùng hình bát giác để làm dấu phân biệt tứ hóa lưu niên, còn chúng ta có thể tùy chọn dùng hình hoặc kí hiệu khác nào đó để phân biệt cũng được), bởi vì mệnh bàn quá nhỏ cho nên đem Lộc và Kị của Thiên Cơ với Thái Âm viết sang hai bên trái phải, sau khi cộng thêm vào thì càng nhìn ra rõ ràng mâu thuẫn Lộc Khoa Kị ở trên tuyến Quan Lộc – Phu Thê này. Rất nhiều người sẽ vì cái này mà không biết rõ là pahir giải thích hiện tượng này như thế nào. Trước tiên, cung Mệnh là trạng thái nội tâm của “Ta”, hóa Lộc Quyền Khoa Kị của tiên thiên cùng đại hạn của “Ta” đều ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, biểu thị bản thân rất có lòng có ý thức trách nhiệm với sự nghiệp, nhưng mà Thiên Đồng hóa Quyền tại Thiên Di chủ về muốn thể hiện để giành được sự tôn trọng hoặc được coi trọng lại có một viên Cự Môn hóa Kị tinh làm cho những lời thủ thỉ hoặc lời đồn chuyện nhảm gây tổn hại đến danh tiếng khiến “Ta” canh cánh trong lòng sự nghi ngờ, đối với bản thân có áp lực rất lớn. Cho nên đây là hiện tượng “mong muốn được thể hiện mà đồng sự lại ngầm hãm hại mà dẫn đến tinh thần gặp áp lực khiến sự tình thêm phức tạp”,

Hiện tại hóa Lộc Quyền Khoa Kị của lưu niên cũng phi nhập vào trong tam phương mệnh bàn tiên thiên; Thiên Cơ hóa Lộc của lưu niên ở Phu Thê, Thái Âm hóa Kị thì ở Quan Lộc, bàn cục xuất hiện “Lộc – Kị giao xung” làm cho “tinh thần áp lực khốn nhiễu” đã nói phía trước cộng thêm chất xúc tác từ Thái Âm hóa Kị càng làm cho lực ảnh hưởng tăng mạnh thêm khiến cho “Ta” không chịu nổi mà phá lên. Lúc này sẽ xin thầy thuốc giúp đỡ, như thế trong lưu niên bàn cục có thể nhìn ra cái chất xúc tác này từ đâu đến đâu không? Đương nhiên có thể, chẳng phải Tử Vi Đẩu Số muốn “Xu cát tị hung” giúp người đó sao, đương nhiên phải tìm được “nguồn khởi điểm tai họa” mới có thể nhắm đến mục tiêu cải sửa, không phải là xin giúp đỡ “Khai vận giới” hay “Đổi vận thạch” một cách mù quáng là có thể có hiệu quả! (LC chú: khai vận giới với đổi vận thạch ở đây theo từ gốc thì ý chỉ những lời răn cấm, sự phòng bị chưa hẳn đã khai mở được vận, đeo vòng đá chưa chắc đã chuyển được vận hoàn toàn) Trước tiên căn cứ vào tâm lý học mà nói, căn cứ vào thống kê cho thấy một cá nhân bị hai loại stress cũng một lúc biểu hiện thường rất thống khổ và thường rơi vào trạng thái suy sụp, còn nếu như mà chịu tới ba loại áp lực khiến stress thì sẽ không cách nào chịu đựng được mà dẫn đến sụp đổ. Như ở ví dụ này thì mệnh tạo phải chịu hai loại áp lực: áp lực công việc và áp lực trong quan hệ nhân tế với những người cùng trang lứa, lúc này rất cần có sức mạnh từ bên ngoài tới trợ giúp để vượt qua cửa ải khó khăn. Thế nhưng Thái Âm hóa Kị lại đóng vai trò như “làm một cọng rơm cuối cùng để nghiền nát lạc đà”, làm cho y suy sụp; Thái Âm là nữ nhân mà đóng ở Quan Lộc tức xung đến Phu Thê, còn mệnh tạo lại là nam nhân nên đây là hiện tượng bạn bè trai gái dễ biệt ly. Vốn dĩ bạn gái cũng đã cổ vũ tinh thần để chống chọi với kỳ vọng khá cao, cho nên trong công việc khi gặp phải các loại áp lực vẫn còn có người để trút bầu tâm sự nên cũng được an ủi giảm bớt phần nào áp lực trầm trọng ấy. Bởi vậy, Thiên Cơ hóa Lộc nhập Phu Thê này biểu thị cái năm này đối với bạn gái đặc biệt tốt, có lòng muốn bạn gái thành đối tượng để kết hôn nhưng lại gặp phải kết quả trái ngược, ở vào loại tình cảnh này có mấy người không suy sụp đâu chứ!

Sở dĩ, thêm tứ hóa lưu niên càng làm cho mức “cụ thể hóa” ánh tượng “nhân sự vật” càng thêm rõ ràng, khiến chúng ta càng có thể nắm được điểm mấu chốt sự kiện phát sinh, rồi sau đó mới có thể căn cứ đó để cải thiện mệnh vận mà không phải là loạn cải vận một lần, cho nên đối với những tuyên bố có thể “Sửa vận, khai vận” gì đó thực khó có thể tán đồng.

Không tìm được điểm mấu chốt ở đâu có thể nào sửa vận, nó cũng giống như bệnh ung thư dùng hóa liệu cũng như thuốc đạn bắn chim, đem tế bào tốt xấu đều giết hết, giết được các bệnh tật mắc phải thì bản thân cũng hấp hối, điều tốt hơn là sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu mới nhất để có hiệu quả.

Sau khi ra sách có một số độc giả đi tìm hỏi mệnh lý, có vị bác sĩ phu nhân có đến hỏi vận đồ của chồng như thế nào? Vừa nhìn đã nói phải cẩn thận khoảng dịp Tết nguyên đán sức khỏe thân thể dễ xảy ra vấn đề, cũng đặc biệt dặn dò phải đi cùng ở bên cạnh anh ấy. Đối phương lại đáp lời rằng chồng cô ấy là bác sĩ ngày thường rất chú trọng chăm sóc thân thể, chắc sẽ không sao đâu! Nhưng ngó trái ngó phải còn chưa có vừa ý, thế là có viết rõ tháng một của năm cần chú sức khỏe ấy lên mệnh bàn, nào ngờ trước Tết nguyên tiêu năm ấy có nhận được điện thoại và nói rằng đã xảy ra chuyện. May thay còn có cô ấy đi cùng, vừa nhìn thấy không ổn liền nhanh chóng tự mình lái xe đưa đến bác sĩ. Nếu không, giống như bộ trưởng chưa kịp nhậm chức đã khuất bóng, có cứu cũng đã quá muộn. Mà tại sao lại phải nhắc nhở “cô ấy” bất luận thế nào đều phải đi cùng bên cạnh anh ấy, chính là trên mệnh bàn nhìn ra kiếp số của hắn do người nào đó đến giải trừ mà đặc biệt nhắc nhở, mà cô ấy cũng có thể loại bỏ khó khăn khi ở bên cạnh mà nguy cơ được hóa giải.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để thuyết minh!

Mệnh tạo này cung Mệnh tọa Vũ Khúc, Thiên Phủ, Hỏa Tinh gặp Thất Sát ở đối cung hình thành “Vũ Khúc, Thất Sát, Hỏa Tinh” là cách cục “nhân tài bị kiếp”, tựa hồ rất bất lợi về tiền tài, nhưng giả như có lòng thiện tâm đem tiền quyên góp đi cứu giúp người, bản thân trở nên nghèo khó thì có là tiền tài bị cướp không? Liệu có thể phá giải ác cách “nhân tài bị kiếp” này hay không, lúc ở đại học hắn có thi đỗ công chức thì nó có liên quan đến Cự Môn Quyền tọa ở cung Quan Lộc ở đại hạn thứ hai làm cho hắn đọc sách học tập có thành hay không?

Trước tiên, bắt đầu phân tích từ mệnh cách bản mệnh:

Nếu đã biết hắn “quyên góp số tiền đáng kể” chúng ta có thể thông qua “nghịch hướng công trình” để truy tung manh mối hiển hiện trong mệnh bàn, loại dấu vết manh mối này không ngoài sự tồn tại quỹ tích của “tứ hóa phi tinh” với “tổ hợp tinh tính”, cẩn thận tỉ mỉ phối hợp với nhau nhất định có thể lần theo dấu vết tìm ra bí mật ẩn tàng.

Phương pháp suy đoán của bằng hữu ở những môn phái khác cũng có thể muốn tính toán sự khác biệt trước tiên, tuy trong đó có sự tương đồng nhưng cũng có khác biệt.

Mệnh bàn có 12 cung, hành vi quyên hiến là phải xem ở cung vị nào đây? Cho nên tất cần phải lý giải thấu triệt suy đoán mà 12 cung chủ chưởng mới có thể tìm ra cung vị tương ứng. Nói chung, hành vi “quyên hiến” cho công chúng không chỉ định là khán “Phúc Đức” hoặc “Nô Bộc”, nếu lấy tiền cho “người trong nhà” thì do cung cần tới đại biểu, như đem cho con cái thì khán cung Tử Nữ.

Hành vi phụng hiến không vụ lợi loại này của mệnh tạo, thì có quan hệ không nhỏ đến cung Phúc Đức. Tham Lang vốn chủ dục vọng, nhập Phúc Đức chắc là yêu tiền tài hơn nữa là người thích hưởng thụ, thế nhưng lại gặp Địa Không, hóa giải bớt dục vọng của Tham Lang mà chuyển hóa thành ý tưởng của tình yêu lớn “thương xót cho người, muốn trợ giúp người khác”. Có rất nhiều tu đạo nhân sĩ đều là Tham Lang hóa Kị, cho nên trong Toàn Thư nói không có sai, không phải là mê hoa yêu rượu thì là phá đãng tổ nghiệp, một mai sau khi hóa Kị lại thành “nghiên cứu các học thuật thần bí”. Bởi vậy Tham Lang hóa Kị ở Phúc Đức thì vì Phúc Đức là cung đại biểu về tinh thần mà Hóa Kị lại có hàm ý thiếu khuyết, sự “khuyết thiếu về trạng thái tinh thần” có thể giải thích hàm ý là “tinh thần ở trạng thái hư không hoặc vô ngã”. Bởi vì trống rỗng nên lại cần có món ăn tinh thần tới bù đắp, hoặc cần phải có tôn giáo tới gia trì, thì cõi lòng mới sẽ không rơi vào tình thế không nơi nương tựa phiêu bạt bất lực. Do đó, một khi có tín ngưỡng tôn giáo sẽ ăn nhập rất sâu, chiếm một phần không nhỏ trong lĩnh vực sinh hoạt tinh thần, nên đây có thể coi là nguyên do ngày sau quyên hiến số tiền không nhỏ.

Tiếp tục nhìn tứ hóa của cung Phúc Đức, thì Liêm Trinh hóa Lộc nhập Tài Bạch.

Phá Quân hóa Quyền nhập Phu Thê, Vũ Khúc hóa Khoa nhập cung Mệnh, Thái Dương hóa Kị nhập Phụ Mẫu, trong đó thì hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa không có nhập Mệnh hay chiếu Mệnh, cho nên cung Phúc Đức đối với mệnh tạo mà nói đây là cung vị trọng điểm hắn rất quan tâm.

Mà cung Tài Bạch tọa [Liêm Trinh, Thiên Diêu, Địa Kiếp] , có hai sao một chủ tư pháp một chủ đào hoa, cho nên nếu làm công việc về giấy tờ đất đai lại phù hợp với đặc tính của Liêm Trinh, mà Liêm Trinh cũng có ý “tham tranh” nhưng lại gặp phải Địa Kiếp cùng với Địa Không của cung Phúc Đức chiếu hội mà dẫn tới thái độ về tiền tài sẽ không có sự so đo tính toán chi li tiền bạc. Trong Tử Vi chư tinh thì Không Kiếp nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức đại biểu mệnh tạo có tuệ căn tôn giáo, tư tưởng tương đối gần với “trống không, siêu hình” của nhà Phật hoặc tư tưởng Đạo gia. Cho nên một khi ảnh hưởng chiếu hội được tăng cường không chỉ đặc tính của Liêm Trinh, Tham Lang tiêu biến mà trái lại sẽ với trách trời thương dân, trong lòng ôm ấp từ bi muốn dùng tài vật để sắp xếp nên đã đem tiền của mình mà đi cứu tế người khác. Cái này phù hợp với biểu hiện về đặc tính của Địa Không, Địa Kiếp ở tuyến Phúc Đức – Tài Bạch.

Tiếp tục nhìn cung Điền Trạch tọa Cự Môn Quyền, biểu thị hắn rất lo cho gia đình, cũng cho thấy hắn trong điền trạch rất có quyền lực hoặc thành tích. Mà công việc làm đại diện liên quan đến giấy tờ buôn bán đất đai này, vị trí then chốt là bởi mua bán đôi bên tạo được sự tin tưởng lẫn nhau, cũng chính vì tạo được sự tin tưởng trong mua bán giữa đôi bên mà giao phó cho hắn quyền lực. Cái này cũng có liên quan đến Thiên Cơ, bởi Thiên Cơ chủ huynh đệ, chủ nhân vật ngang vai cùng trang lứa nên Thiên Cơ hóa Quyền có thể dẫn dụ làm “vì giành được sự tín nhiệm nên được giao cho quyền lực nhằm thi hành thực hiện công việc”. Cự Môn là khẩu thiệt, cũng chính là phối hợp giao tiếp, cho nên tổng hợp lại thì mệnh tạo rất thích hợp đảm nhiệm công việc làm đại diện.

Phân tích quan hệ tứ hóa tiên thiên:

Theo lý hẳn là đi phân tích từng cung từng cung, để tiết kiệm số trang chỉ đi phân tích các cung vị có liên quan. Ở ví dụ này cung “Lập tượng” bởi vì là quyên hiến số tiền tích cóp được nên hẳn là ở cung Tài Bạch, cung Tài Bạch tiên thiên có Thiên can là Canh, phi xuất tứ hóa phân bố như sau:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ Mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Phụ mẫu
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Xin hỏi cung Phụ Mẫu là cung gì? Không nên quên rằng nó là cung Tài Bạch của cung Nô Bộc, hiện tại Tài Bạch của ta hóa Lộc với hóa Khoa nhập túi tiền Nô Bộc, là tiền tài của ta tiến nhập Tài Bạch của bạn bè. Mà hóa Lộc đại biểu nhiều, hóa Khoa đại biểu chủ động, cho nên việc “chủ động quyên ra một số tiền lớn” đã tạo nên hiện tượng này. (LC chú: hiện tượng ở đây chính là chỉ tiền của y chảy vào túi giao hữu thông qua việc quyên góp tiền)

Tại sao lại là quyên góp từ thiện cho cơ sở tôn giáo chứ? Thái Dương và Thái Âm đều chủ chiếu sáng bốn phương, trong thiên hạ cũng phải cần có ánh sáng với nhiệt để sinh trưởng sinh sôi nảy nở, cho nên là một loại sự tình hoặc hoàn cảnh “chiếu khắp chúng sinh”. Mà cung

Phụ Mẫu cũng là có thể quản chế hoặc ước thúc việc trái việc phải hoặc hoàn cảnh của chúng ta, như cơ quan cảnh sát, thầy cô giáo… mà tôn giáo chùa miếu cũng có thể nói là đơn vị loại này. Từ hai nhóm nhân tố tinh diệu với cung vị này tổ hợp khởi lai thì có thể đem nhân sự vật “cụ thể hình tượng hóa” chính là “tôn giáo từ thiện đoàn thể”, cho nên tiên thiên bàn cục cũng có thùy tượng sẽ có hiện tượng “đem một số tiền đáng kể đi quyên góp từ thiện cho tôn giáo đoàn thể”, đem sự kiện tuy nhỏ nhưng mà hiển hiện ra cụ thể.

Còn như Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh, loại hiện tượng này là có thành tựu về tiền tài, biểu thị ngày sau sẽ tương đối có thành tựu về tiền tài ví dụ như đảm nhiệm kế toán trưởng quản lý tài vụ … Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ biểu hiện quan hệ qua lại về tiền tài với huynh đệ không được tốt, không có tiền tài qua lại.

tuổi tiến nhập đại hạn Nhâm Tuất, cung Mệnh đại hạn có [Phá Quân Lộc] tọa, không đồng cung với chính tinh khác, Thiên can của cung Mệnh đại hạn là Nhâm, làm cho:

  • Thiên Lương tinh của cung Nô Bộc hóa Lộc – đây là thân cận với bằng hữu, có hàm ý sẽ đem tiền tài trợ giúp bằng hữu, cũng có hàm ý như “gom góp tài lợi cá nhân cùng với những người khác”.
  • Tử Vi tinh của cung Quan Lộc hóa Quyền – muốn có sự khác biệt trong sự nghiệp của mình, vốn đại hạn là sẽ tích cực, sẽ nỗ lực ở sự nghiệp, hướng đến mục tiêu của chính mình để phấn đấu.
  • Tả Phụ tinh của cung Huynh Đệ hóa Khoa – ở chung cùng với huynh đệ ở đại hạn này sẽ có sự khích lệ giúp đỡ động viên tinh thần lẫn nhau, làm việc cùng nhau cho kỳ thi, có những chủ đề phổ biến có thể cùng nhau thảo luận học tập mà làm cho tình cảm trở nên thân thiết hơn.
  • Vũ Khúc tinh của cung Mệnh hóa Kị – chúng ta gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị nhập cung Mệnh”, cung Mệnh là cung Phúc Đức của đại hạn Nhâm Tuất, Vũ Khúc là tài tinh, khi mà hóa Kị thì tiền tài do Vũ Khúc chủ chưởng cũng liền có “tổn thất”. Hơn nữa trong cung Mệnh còn có tài tinh khác là Lộc Tồn, hai sao tài tinh đụng phải Vũ Khúc hóa Kị lại còn có “Dương Đà giáp Kị”, đối cung của Phúc Đức đại hạn cũng là Tài Bạch đại hạn bị Vũ Khúc hóa Kị gây ảnh hưởng và cái này được coi là “xung”, gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị xung Tài Bạch đại hạn”, vì thế tiền tài sẽ có tổn thất. Bởi vì do cung Mệnh hóa Kị nhập Phúc Đức mà dẫn tới, cho nên là vì tín ngưỡng tôn giáo mà cam tâm tình nguyện bỏ ra, như: quyên góp tiền dầu thơm hoặc quyên góp cho giáo hội một phần mười thu nhập, nó có bản chất như vậy. Bởi vậyđối với mệnh tạo mà nói đó không phải là tổn thất mà là “đắc lợi” về mặt tinh thần cho cuộc sống. Do vậy ta dùng dấu móc ngoặc cho hai chữ tổn thất nhằm biểu thị đó là quan điểm của chúng ta về thế tục.

Phân tích quan hệ tứ hóa hậu thiên:

Thiên can cung Tài Bạch đại hạn là Mậu, phi xuất tứ hóa như sau:

  • Tham Lang hóa Lộc nhập Tài Bạch
  • Thái Âm hóa Quyền nhập Phụ Mẫu
  • Hữu Bật hóa Khoa nhập Điền Trạch
  • Thiên Cơ hóa Kị nhập Điền Trạch

Thiên Cơ hóa Kị tại cung Điền Trạch cũng chính là cung Mệnh năm Mão, hơn nữa Thiên Đồng Kị của Tài Bạch tiên thiên phi xuất ở Tài Bạch của năm Mão. (LC chú: ở đây ý chỉ Can của cung Tài nguyên cục là Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị ở cung Hợi, cung này là cung Tài của năm Mão) Cho nên, Kị tinh của Tài Bạch tiên thiên và đại hạn phi xuất đã hình thành góc độ tam hợp ở năm Mão, cái này tương tự “Tam hợp Kị” mà ta đã nói trong chương “Đàm luận thời gian ứng nghiệm sự kiện” trong cuốn “Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích” trước đó, cho nên qua năm tới sẽ có biến động về tiền tài. (LC chú: phần Tam hợp Kị độc giả có thể tham khảo chương số 24 quyển Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích đã được dịch Việt ngữ public trên trang Tuvi.cohoc.net cùng một số fanpage huyền học khác)

Lưu niên năm 27 tuổi

Cung Mệnh lưu niên ở Mão, có Thiên can là Ất làm cho:

  • Thiên Cơ hóa Lộc cung Mệnh lưu niên (cung Điền Trạch) : tượng này là “tự hóa Lộc”, là hàm ý của “Lộc xuất”, cũng chính là sự biểu thị “tiền tài bỏ ra”. Mà cung Mệnh lưu niên lại tọa Cự Môn Quyền, hàm ý của Quyền là “chủ động, hoán đổi hành động”, vì thế hắn sẽ tự mình chủ trương đem tài lộc bỏ ra, mà bỏ ra không phải là bị lừa hay bị gạt, hay là lòng không chịu tình không muốn. Cho nên năm nay bản thân đã chi ra một số tiền đáng kể trong một tình huống tự quyết.
  • Thiên Lương hóa Quyền của cung Nô Bộc: Quyền mang hàm ý có thành tựu, quản chế, nên đây là chiều hướng “ta sẽ đi kết bạn”. Mà đại hạn tứ hóa lại có tượng “đem tài lộc mang tới cho giao hữu”, cho nên tượng sở thuộc hiển hiện của tứ hóa cung Mệnh của đại hạn cùng với lưu niên cho thấy rất rõ ràng là “đem tiền tài đi kết giao bằng hữu”. Chẳng trách sẽ đem nhiều tiền của tích cóp được chi ra, mà cung Nô Bộc có Thiên

Lương tinh tọa, sao Thiên Lương là quý nhân tinh, chủ chưởng khả năng “phùng hung hóa cát”, quyên góp cho cơ quan từ thiện chính là muốn để cho những hộ gia đình có thu nhập thấp phải chịu khổ chịu khó khăn sẽ nhận được trợ lực “gặp dữ hóa lành” giúp họ thoát ly biển khổ. Kết hợp cả tính chất của sao cùng với tứ hóa sẽ giúp cho chúng ta càng giải thích đầy đủ được ý nghĩa của tượng xuất hiện trong đó.

  • Tử Vi hóa Khoa của cung Quan Lộc: Khoa chủ chưởng “khảo thí, công danh”, tiến nhập Quan Lộc mà nói, tham gia các kì kiểm tra sát hạch trong nước nhất định có thể tên đề bảng vàng, mà đại hạn lại hóa Tử Vi Quyền đến cung Quan Lộc. Hóa Khoa, hóa Quyền cả hai tăng cường, một là nỗ lực phấn đấu, một là vận thi cát tường, quả nhiên y sau khi trải qua một năm nỗ lực học tập đã tham gia và đỗ kỳ thi cao cấp. Trước khi đi làm đã đem tiền tích góp nhiều năm quyên góp cho cơ quan tổ chức từ thiện để hành thiện.
  • Thái Âm hóa Kị của cung Phụ Mẫu: Kị chủ khốn đốn, không thuận, tiến nhập cung Phụ Mẫu cũng chủ phụ mẫu có hạn tượng như này, nhưng may thay còn có Thái Âm Khoa bảo hộ, mặc dù có không thuận nhưng không đến nỗi khổ sở. Đương nhiên khi thi đỗ được rồi sẽ y theo chỉ lệnh phân công công tác của thượng cấp mà đi đến tỉnh khác làm việc, có lúc rời xa cha mẹ. Dĩ nhiên đối với cha mẹ mà nói sẽ có chút không muốn và khổ sở, thế nhưng chuyện thi đỗ có thể coi là “quang tông diệu tổ” cho nên với cha mẹ mà nói tuy có thương cảm nhưng trong đó lại có chút vui mừng thậm chí kiêu ngạo nữa! Đó là lý do mà “Kị” gặp Khoa năm sinh có hàm ý như này. Ở đây cũng đồng thời cải chính một chút sự ngộ nhận của một số người về “Khoa Kị không Kị”. Cái gọi là “Khoa Kị không Kị” không phải là “Hóa Kị” sở chủ điềm xấu chuyện xấu, vì là có quan hệ của Hóa Khoa tiêu trừ mất đi, mà là lưỡng tượng tốt xấu cùng tồn tại khiến cho trong kết quả yếu tố tốt chiếm nhiều hơn bù đắp cho tượng của cái xấu. Ví dụ như mệnh lệ này thì hiện tượng đó chính là may mắn thi đỗ nhưng lại được cấp trên điều phối đi làm việc ở nơi xa khiến cho cha mẹ thương cảm”.

*Tổng Kết:

Tiên thiên Tài Bạch tứ hóa “thùy tượng” – quyên ra một số tiền lớn đến Tài Bạch của bằng hữu, hơn nữa cùng Tài Bạch đại hạn ở năm Mão làm bàn cục xuất hiện “Tam hợp Kị”, đã hình thành điều kiện quan trọng thông qua đại hạn mà “thành hình”. Cho nên chỉ đợi thời cơ thích ứng để “thành sự” mà thôi, mà năm Mão là “thời cơ thích hợp”, nhưng tại sao lại là năm Mão vậy? Bởi vì Tài Bạch của tiên thiên hóa Kị ở Tài Bạch của năm Mão, đại hạn hóa Kị tại cung Mệnh năm Mão vì thế năm Mão thành sự.

Vì sao còn phải xem nhập thêm “cung Mệnh” nữa chứ? Đừng quên rằng cung Mệnh là nguyên tắc chung, là đầu mối then chốt trong biến hóa của vận đồ, nó liên kết tới mười một cung khác. Cho nên phải để một cung trong đó lập tượng, tất nhiên là nó lấy một cung chiếu xạ đến mười một cung khác, sao tọa trong cung Mệnh cũng đồng thời đóng vai mười một loại tượng, phải tùy theo cung vị mà người phân tích mà hoán tượng mới có thể tương ứng với tượng nhân sự vật phức tạp.

Trải qua ba giai đoạn “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” từng tầng từng tầng chắt lọc lựa chọn từng bước đem “Sự kiện” từ hình tượng mông lung mà từ từ rõ ràng minh xác thực hóa, thông qua mối quan hệ xuyến liên giữa “Tứ hóa” với “Tinh tính” làm cho quan hệ giữa “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” được liên kết khởi lai, thì có thể từ trong “Cung vị”, “Tinh tính” và “Tượng” trong mệnh bàn cung cấp cho thông tin ở trong đó. Từ đó có thể chắt lọc lấy ý nghĩa ẩn chứa bên trong mà có thể dùng những từ nó sát với “ý tượng sinh hoạt” trong sinh hoạt đời thường mà giải thích cho người hỏi mệnh hiểu rõ.

Bởi vậy, một chuyện phải trải qua thùy tượng “Bản mệnh”, thành hình ở “Đại hạn” cho đến thành sự ở “Lưu niên”, ba cái giai đoạn này Phi tinh phái dùng “Thiên bàn”, “Địa bàn”, “Nhân bàn” để gọi tên chúng, cái này cùng với hiện tượng “tâm linh khác” không có quan hệ gì, không nên bị ngộ đạo; mà suy diễn Thiên Địa Nhân bàn thì Thiên can tứ hóa xuyên suốt toàn cục cho nên là phải thuần thục cách dùng tứ hóa mới có thể nắm được sự bí ẩn về Tử Vi Đẩu Số của Phi tinh phái.

Mà từ trong mệnh bàn suy đoán hình tượng của sự vật phải thấu đáo nhuần nhuyễn tính chất của sao mới có thể phân giải dùng những từ ngữ chuẩn xác giúp cho người hỏi mệnh có thể hiểu ngầm trong lòng! Công phu này nếu không có ý tượng sâu sắc đối với sinh hoạt thường ngày thì rất khó nói hoặc phân giải kỹ càng. Đương nhiên, còn có sự từng trải và kinh nghiệm trong sinh hoạt của người giải bàn cũng rất có quan hệ, nếu như người không biết hoặc là chưa mở mang được kiến thức cũng sẽ không cách nào nói ra được câu cú đầy huyền cơ: “ngươi một khi dọn nhà nhất định sẽ kiếm được tiền”.

Tin rằng thông qua giải thích bản án lệ (LC chú: bản án lệ ở đây ý tác giả chỉ về trường hợp ví dụ thực tế được phân tích ở phía trên), đối với quan hệ và cách dùng giữa “Cung vị, Tinh tính, Mệnh hạn niên hóa tượng” mà có thể hoàn chình khái niệm sơ bộ. Tính chất của sao đối với Tứ hóa Phi tinh phái mà nói thực sự là mắt xích trọng yếu, chỉ là sự vận dụng của chúng ta về tính chất của sao có sự bất đồng với Tam hợp phái, nó chỉ khác nhau ở thủ pháp vận dụng mà thôi!

Góc Độ Quan Hệ Của Vận Đồ Mệnh Hạn Với Hóa Kị

Hóa Kị có thể nói là một viên sao rất trọng yếu trong tứ hóa, từ trên danh từ mà khán thì Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Khoa đều là hóa tinh tốt, mà chỉ có một viên hóa luôn không tốt. Dường như trong tứ hóa tỉ lệ phân chia tốt với xấu cũng không có đều nhau, hóa tinh cát lợi có ba viên mà hóa tinh không cát chỉ có một viên mà thôi, có đúng như vậy hay không? Không phải, sau khi xúc tác diễn hóa một viên sao nào đó cũng sẽ biến đổi bản chất tốt lành của Lộc, Quyền, Khoa mà viên tinh then chốt này chính là Hóa Kị.

Ngẫm lại trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có rất nhiều chuyện, có đúng là có rất nhiều loại hiện tượng này không?

  • Vừa mói bắt đầu gây dựng sự nghiệp thì nghiệp vụ đáp ứng không xuể, làm ăn tốt vô cùng, buôn bán lời một chút tiền, nhưng cuối cùng lại thua lỗ một khoản mà còn không có đường lùi.
  • Hoặc lúc mới bắt đầu nghiệp vụ cũng không được tốt lắm nhưng càng làm càng thuận lợi, sự nghiệp ngày càng lớn.

Một là trước cát sau hung, còn một là trước hung sau cát, rốt cuộc là thuộc về loại tình trạng nào thì phải phân tích từ trạng thái phân bố tứ hóa. Tình hình phân bố tứ hóa phải xem xét

mấu chốt ở “thời” của bản mệnh với hạn vận, cũng là phải quan sát trạng thái phân bố tứ hóa của cung nào đó của bản mệnh và đại hạn cùng một cung sở thuộc phi xuất, xem góc độ giữa chúng có hình thành một trong bốn loại trạng thái “Xung”, “Hội”, “Nhập” hoặc “Hợp” hay không để phán đoán cát hung. Phía trước đề cập qua, trong tứ hóa thì “Hóa Kị” càng có vai trò then chốt trong sự biến hóa của cát hung, cho nên chương này sẽ lấy góc độ hình thành của “Kị” tinh của cung vị “Bản mệnh” và “Đại hạn” phi hóa xuất trên mệnh bàn để phân tích ý nghĩa cát hung.

Muốn đàm luận về Hóa Kị tinh không thể quên hiện tượng “Kị nhập” và “Kị xuất”, cái này đều là quy tắc cơ bản vận dụng Hóa Kị, sáng tỏ “Nhập” và “Xuất” là yếu lĩnh cơ bản trong vận dụng tứ hóa. Hiện tượng cát hung của hai cái này hiển hiện là khác nhau, cho nên lúc đụng phải “tứ hóa” thì trước tiên cần nắm rõ đó là hiện tượng của “Nhập” hay là “Xuất”, đối với “Hóa Kị” mà nói thì:

  • Kị nhập có hàm ý là “Thu liễm”, sự vật có thể tập trung mà không phân tán, cho nên đối với cái sự vật đó có thể nắm giữ được hoặc buông bỏ điều đó, cho nên ta có thể “kiểm soát sở hữu”. Nếu như cung Phúc Đức có tượng này thì tinh thần tập trung thần thái sáng láng; nếu là cung Tài Bạch thì tiền tài vận dụng thoải mái hoặc là tài nguyên có tượng tụ hội, hàm ý “thu được”, “đạt được” cho nên tiền tài có thể kiếm được.
  • Kị xuất có hàm ý là “Phát tán”, sự vật phân tán, có hiện tượng nắm giữ không được bắt không xong, người có thì tinh thần rệu rã, nên bài vở học tập không tốt; có một số thì tiền tài không nắm không cầm được để xoay vòng cho làm ăn, không sử dụng thoải mái được, nên hàm ý chính là “Mất đi”, “Tổn thất”. Còn để giải thích và vận dụng từ ngữ cho chuẩn xác hơn thì phải tùy theo sự biến hóa của cung vị mà dùng cho thích hợp.

Chúng ta dùng hình 1 để giải thích sự khác biệt về “Kị nhập” và “Kị xuất” của Hóa Kị tinh giữa bản mệnh với cung vị đại hạn. Nhưng ý nghĩa của cát hung lại cần phải nhắm vào sự khác biệt của sự vật mà có sự khác nhau, không thể hết thảy đều lấy hai cách phân chia giản đơn “Kị nhập” là cát, “Kị xuất” là hung để giải thích, đây là nhận thức cơ bản thiết yếu. Chúng ta luận mệnh thường đơn giản lấy “Nhập” hoặc “Xuất” để luận sự tình, này là không tốt rất dễ khiến cho người hỏi mệnh nghe được ngôn từ sợ hãi bởi vì các hiện tượng trong cuộc sống có định nghĩa quy phạm luân lý xã hội, cái gì là hợp pháp, cái gì là không hợp pháp. Cho nên là lấy hợp pháp là cát, lấy phi pháp là hung để phán đoán, nhưng cũng có chút phi pháp không phải là hung, chẳng hạn như, giả như cung Phu Thê xuất hiện “Kị nhập” mệnh cục là hiện tượng “sống chung với nhau” thì loại tình huống này coi là “cát” hay là “hung” đây? Tuy là quan hệ hôn nhân không hợp pháp nhưng không có trở ngại bởi gia đình ngầm đồng ý. Còn có rất nhiều tình huống tương tự khác như thế nữa, tùy theo các quốc gia khác nhau hoặc là cùng quốc gia nhưng thời gian khác nhau, pháp luật hoặc quan điểm xã hội có hiện tượng điều chình phát sinh, những cái không hợp pháp trước đây nay đã được xã hội tiếp nhận, ví dụ như đồng tính luyến ái. Bởi vậy chỉ có thể lấy hiện tượng “Kị nhập” là “Thu liễm”, “Kị xuất” là “Phát tán” để giải thích, tiếp đó dùng tính chất sao ở cung vị khác nhau cùng hoàn cảnh trạng thái hiện thực để phân biệt đó là thuộc về “Cát” hay là thuộc về “Hung”.

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị phi nhập Tài Bạch (tức Kị nhập Tài Bạch), đây là Kị nhập, khi lưu niên đi tới cung Tý, Mão thì chủ đắc tài, sẽ có thu hoạch tiền tài, mức độ nhiều hay ít thì xem tổ hợp tinh tú.

ví dụ Kị nhập

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị nhập Phúc Đức (tức Kị xung Tài Bạch), đây là Kị xuất, khi lưu niên đi tới cung Dần, Thân thì chủ thất thoát tiền tài, mức độ tổn thất tiền tài nhiều ít thì cần xem tổ hợp tinh tú.

Sẽ có bốn loại tình huống “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” mà Đại hạn bàn cục xuất hiện ở Tiên thiên mệnh cục, mà cung cùng loại ở đại hạn cũng có quan hệ “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” với cung cùng loại của bản mệnh, tổng cộng có bao nhiêu loại tổ hợp độc giả có thể tự mình tham khảo thêm. Cho nên lợi ích của một viên Hóa Kị tinh từ “Bản mệnh với Đại hạn” và “Đại hạn với Bản mệnh” có thể thấy quan hệ diễn hóa ra giữa chúng rất phức tạp, nên đối với người mới học vừa nhìn thấy cũng cảm thấy đau đầu, vì thế cần đơn giản hóa quan hệ đó thành “Kị nhập” và “Kị xuất” để đàm luận về “Hóa Kị” tinh.

Trước tiên, nếu như Tiên thiên mệnh bàn xuất hiện quan hệ “Kị xuất” đối với Đại hạn bàn cục, mà Đại hạn bàn cục lại hình thành quan hệ “Kị nhập” đối với Tiên thiên mệnh bàn, vậy lúc này nên giải thích hiện tượng “Kị nhập” như thế nào? Rốt cuộc là “Thu liễm” hay là “Phát tán” đây?

Loại tình huống này cũng có hàm ý phát tán, cũng có người trong bản mệnh bàn cục có “Kị xuất”, trong cuộc sống mệnh vận tương đối bất lợi, thường thường nắm giữ cơ hội không tốt, thậm chí cơ hội đến mà còn mù mịt không tự chủ được dẫn đến hiện tượng cơ hội đến mà trôi mất uổng phí. Cũng bởi vì đương sự không tự chủ, trái lại rất có khả năng “chẳng chỗ nào được, cũng chẳng mất chỗ nào”, tỉnh tỉnh mê mê mà sống qua ngày, những lời này có thể coi là những lời thỏa đáng thích hợp nhất dùng để giải thích cho mệnh cục có “Kị xuất”! Nhưng mà khi đương sự đã cao tuổi sau khi nhìn lại cuộc đời hoặc những chuyện đã xảy ra, cẩn thận nhớ lại các chi tiết thì sẽ phát hiện cơ hội để mất từ phía họ. Bởi vậy người có bàn cục loại này, người viết kiến nghị trau dồi tăng mạnh độ nhạy cảm làm sao từ trong dấu vết phát giác ra cơ hội chất chứa trong đó mà nắm bắt lấy nó.

Người viết có một đồng sự phụ trách giáo dục đào tạo, thường xuyên nhận được điện thoại hỏi xem có khóa học nào không, trong đó có một số chương trình dạy học chưa từng được thiết lập, hắn nhận được hồi đáp có phần khiêm nhường rằng không có. Sau khi cúp điện thoại cũng không có hoạt động gì tiếp tục hoặc dẫn phát ý tưởng nào đó, hắn cứ làm như chuyện chưa từng xảy ra, đương nhiên những biểu hiện cho thấy không được tốt và nên đổi chuyển sang người khác thì hơn.

Thế rồi ta cũng có quan hệ với đồng sự khác, gặp phải tình huống tương tự, thì vẫn hỏi đối phương làm nghề nghiệp nào? Tại sao muốn khóa học này? Trong giới nghề nghiệp thì ai là học giả có địa vị, ai là người nghiên cứu? Từ đó mới có thể khai mở ra được nhiều chương trình học trước đó chưa có, thành tích đương nhiên cũng được nâng cao lên nhiều. Người phía trước là mệnh cục có “Kị xuất”, không hiểu được nắm được cơ hội, làm cho nguồn khóa học với nguồn khách hàng đều cuốn trôi đi mất, cho nên làm rất mệt mỏi, khiến cho không cách nào hoàn thành được mục tiêu tăng trưởng trong năm năm mà công ty đề ra. Chính điều này đã làm cho người viết muốn nghiên cứu mệnh cục và quan hệ dùng người trong cơ cấu tổ chức công ty.

Bởi vì phục vụ đơn vị là cơ quan cố vấn doanh nghiệp lớn trong nước, khi công cụ quản lý truyền thống không cách nào giải quyết được vấn đề kinh doanh của công ty thì cũng hướng ra phía ngoài nhờ giúp đỡ một số phương án giải quyết lĩnh vực ấy. Ví dụ như công cục tâm lý học nhằm phân tích tính chất đặc biệt trong nhân cách, đem con người phân chia ra các hình thái khác nhau như chim khổng tước, lão hổ (ý chỉ kẻ tham ô), chim gõ kiến … phối hợp với các đặc tính của các ngành các tổ chức như nhân sự, tài vụ, chế tạo … mà đưa ra các điều chỉnh về nhân sự, cũng có thể giải quyết tranh chấp giữa các khâu làm cho tổ chức vận hành được thông thuận, từ đó giải quyết vấn đề quản lý. Cũng từng đưa vào học thuyết “Tập quán lĩnh vực” nhằm tham khảo làm sao kích phát tiềm năng của con người, rồi lại đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng về tuổi tác thì hình thức tư duy công việc cũng theo đó mà có sự biến đổi phù hợp với thói quen của con người, diễn hóa hành vi mô thức vì thế mà truy ngược căn nguyên nhằm làm sao có được sự cải cách thay đổi về mô thức tư duy trong tinh thần tiến tới làm cho tâm trí được hoạt bát để ứng phó được với biến đổi lớn do vấn đề tuổi tác mang đến. Đương nhiên người viết đảm nhiệm chủ quản bộ phận cũng cố gắng tiếp thu những kiến thức liên quan, cũng suy nghĩ sâu sắc về sở học “Tử Vi Đẩu Số” của mình phải làm sao để có thể kết hợp đặc điểm của tổ chức cùng với sách lược lựa chọn nguồn nhân lực nhằm làm cho tổ chức vận hành được thông thuận linh hoạt, năng lực sản xuất được nâng cao. Đương nhiên xí nghiệp thì càng kiếm được tiền, dĩ nhiên là không thể tùy thích làm rối loạn công ty, trái lại còn làm nhiều vấn đề lớn xuất hiện thêm, cho nên trải qua nghiệm chứng tìm tòi khoảng bảy tám năm, có lòng tin nói rằng nó chắc chắn tốt hơn các công cụ kể trên.

Loại tình huống Kị xuất này, lúc mà đại hạn “Kị nhập” bản mệnh thì sẽ đem hiện tượng bản mệnh “Kị xuất” đại hạn càng thêm cường hóa. Bởi vậy cái cung mà tượng nhân sự vật chủ chưởng sẽ có hiện tượng “xói mòn, tổn thất, tiêu mất”, nên lúc giải thích phải đặc biệt chú ý loại hiện tượng này.

Loại hiện tượng này giống như là hiện tượng lúc mới vào sòng bạc thì người ta cho ngươi chút ngon ngọt, càng về sau lại đau đớn, cái số thắng được lúc đầu về sau cũng mất, hoặc như là vừa mới bắt đầu kiếm được chút tiền liền mở rộng đầu tư dẫn đến kết quả tiền còn chưa kiếm được thì tiền kiếm được lúc trước đó đều tổn thất một số tiền bạc lớn, này là loại hiện tượng sụt giảm nhiều, có thể nói hình thái vận đồ là “trước sướng sau khổ”, “trước dễ sau khó”.

Giả như, tiên hậu thiên bàn cục đều là “Kị xuất”, không cần nói, Hết trag111

nhất định là chiều hướng “tổn thất”, cho dù nỗ lực ra sao cố gắng thế nào thì vẫn khổ tâm không đạt được mà còn lãng phí khí lực, vẫn là bị mất đi, đây là cách cục đặc biệt không tốt. Nhưng mà có thời điểm bắt đầu lại từ đầu tuy đều không có được ngày vui, nhưng thói quen còn có thể cam lòng như lúc ban đầu, dù không như hình thái tứ hóa thuật ở phía trước, nhưng nó cũng làm cho người ta có thể rơi từ trên mây xuống dưới. Tuy loại khổ sở này với người khác khó có thể chịu đựng được, tuy không là cát nhưng chí ít nỗi thống khổ cũng được giảm tương đối thấp rồi.

Ví dụ như có người sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên cũng không nỗ lực dốc sức làm việc, suốt đời đều nghèo khổ qua ngày, hắn trái lại có thể “sống thanh bần đạo hạnh” dù bần hần vẫn tự tại, không màng danh lợi ngày sau, nhưng với hắn cảm thấy đó cũng không phải là gì xấu cả, bởi vì thói quen.

Dường  như bản mệnh bàn cục Hóa Kị còn có một loại tình huống cũng là thuộc về hàm của Kị xuất, như hình ví dụ dưới đây, cung Tài Bạch can Bính làm cho Liêm Trinh ở cung Phúc Đức hóa Kị, cung Phúc Đức là đối cung của cung Tài Bạch, nó giống như một đường thẳng đến cung vị đối diện, đặc biệt xưng là “Hóa xuất Kị”, kỳ thực hàm ý chính là cung Tài Bạch hóa

“Kị nhập” cung Phúc Đức. Cho nên tình huống đem Hóa Kị từ bản cung sở thuộc đến cung đối, toàn bộ gọi là Hóa xuất Kị, một cung nào đó có tình huống hóa Kị xuất thì cái cung sở chủ sự vật đều có hàm ý trôi đi mất, nhưng mà trôi đi chưa chắc đã là mất. Thí dụ như Tài Bạch hóa Kị nhập Điền Trạch chiều hướng là mua nhà cửa hoặc sản xuất, đối với Tài Bạch mà nói đó là “trôi đi”, đối với Điền Trạch mà nói đó là “nhận được”, chỉ là đem “động sản” chuyển hoán thành “bất động sản” mà thôi chứ “tổng tài sản” nhìn chung không có tổn thất cho nên sự xói mòn trôi đi này không lấy không cát luận, chỉ là hiện tượng “mua nhà để làm ăn sản xuất”. Giả như đổi một cung vị rơi xuống khác, ví dụ Tài Bạch hóa Kị nhập Nô Bộc, là Tài Bạch của ta trôi đến tay của bằng hữu, đương nhiên là ta tổn thất, lúc này lại lấy không cát để luận giải. Vì vậy sự được mất trong đó cần dựa theo vấn đề mà phân giải, không thể câu nệ rập khuôn theo văn tự từ nghĩa, mà là cần khán quan hệ giữa cung vị Hóa Kị được khởi phi và cung vị mà Hóa Kị rơi xuống thì mới có thể phân biệt cát hung. Lúc giải thích mệnh bàn thì cũng không thể bỏ qua tình huống như vậy.

Can Bính của cung Tài Bạch làm Liêm Trinh hóa Kị phi nhập Phúc Đức, gọi là Tài Bạch hóa xuất Kị, cũng là “Kị xuất” đại biểu tiền tài có chiều hướng trôi đi, chủ về tiền tài có tổn thất.

Trở lại khán hình 2, cung Tài Bạch hóa Kị đến Phúc Đức, cung Phúc Đức là cung vị hưởng thụ, vừa có tiền liền tìm cách thụ hưởng, có một số người ngay khi có một chút tiền rất thích dùng cho hưởng thụ, đối với người có tiền mà nói cũng không cảm thấy đau, ngược lại là loại hưởng thụ, đối với bọn họ mà nói không phải là tượng “bất cát”. Mặt khác, nếu là người kinh tế không dư dả, dùng tiền hưởng thụ sẽ đau lòng, nhưng không thụ hưởng cũng khổ, đứng giữa hai cái cũng không biết làm sao cho khéo, đương nhiên cái này đối với họ mà nói loại mong muốn nhưng bị dằn vặt này chính là “bất cát”. Cho nên loại mệnh cục này nên đi làm văn phòng hưởng lương, ta cũng kiến nghị họ nên có dự trữ, cho dù là cất giữ ký gửi hay là mua vàng đều có thể, bắt buộc bản thân dự trữ, mà một số ông chủ hoặc người có tiền thì sao? Chỉ cần lúc làm ông chủ không mang tiền đi tiêu hoang là tốt rồi, ví dụ như những nơi phong hoa tuyết nguyệt vừa nhìn thấy khách hàng tới cửa đều gọi “ông chủ” này, “ông chủ” kia,

ung dung phục vụ cho lâng lâng, và một số người đang mất rất nhiều tiền hoặc bị lừa gạt khi thưởng thức loại hình hưởng thụ vô ích này. Ví dụ loại như thế này rất nhiều, cho nên người có tiền mà có loại mệnh cục này nên cảnh giác loại hình hưởng thụ hư ảo này.

Đại hạn bàn

Hóa Kị của đại hạn bàn cục sẽ cùng tứ hoá năm sinh và tứ hóa của Bản mệnh bàn cục sản sinh tác dụng mà khiến cho có chút biến hóa làm cho hiệu ứng hóa được tăng cường hoặc yếu đi. Góc độ hình thành của Hóa Kị bản mệnh và Hóa Kị đại hạn đều có “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” … những cái này đều sẽ vì cường hóa tác dụng của Kị tinh mà dẫn khởi hiệu ứng cát hung. Giả như không có hình thành các góc độ đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” thì cũng sẽ không sản sinh cường hóa tác dụng của Kị tinh khiến cho sự kiện phát sinh. Tuy nói là như thế, nhưng mà những khốn đốn hoặc ngăn trở “nhỏ” sẽ vẫn có, bởi vì uy lực của một viên tinh tương đối nhỏ, vẫn chưa tới mức khiến cho người ta đau lòng lưu lại ấn tượng sâu sắc. Vì thế người thường cũng sẽ không quá lưu tâm đến nó, nhưng với đồng hữu có lòng học tập mệnh lý thì lại lưu tâm suy đoán lĩnh hội, còn là có thể cảm nhận được uy lực hiệu ứng của “đơn Kị”.

Muốn ứng dụng tứ hóa luận mệnh thì trước tiên phải có quan niệm về “có tác dụng trong thời gian định tính” của tứ hóa, tứ hóa của bản mệnh sẽ phát sinh hiệu ứng trong suốt cuộc đời, tứ hóa của đại hạn chỉ có phát sinh lực tác dụng trong đại hạn đó, nếu qua khỏi đại hạn thì cũng mất đi lực tác dụng ấy. Tương tự đối với lưu niên cũng chỉ có phát sinh tác dụng trong năm đó, một khi qua cái năm đó thì lực ảnh hưởng của tứ hóa lưu niên cũng mất.

Ví dụ như mệnh lệ sinh năm Tân Mão này, cung Phu Thê có Can là Kỷ làm Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền, Văn Khúc hóa Kị nhập cung Mệnh, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Mệnh đại biểu phu thê bất lợi đối với ta, viên tinh này hiệu lực vẫn tồn tại, nó có làm cho đương sự cảm thấy được hay không? Chưa chắc đã cảm thấy được bởi vì nó chỉ là tác dụng loáng thoáng mà thôi, nếu không có sát tinh phối hợp, giống như là chẳng cảm nhận được gì, nó cần đại hạn phối hợp để dẫn phát hung tính của nó, đại hạn phải như thế nào để phối hợp dẫn phát đây? Lúc này sẽ quan sát Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn có hình thành góc độ đặc thù nào đó với Hóa Kị tinh của cung Phu Thê bản mệnh ở trong cung Mệnh hay không, nếu có sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung; còn nếu không có hình thành các góc độ đặc thù thì cũng sẽ không có xuất hiện phản ứng cát hung.

Giả như bàn cục của ví dụ này, đại hạn đi ngược chiều đồng hồ, lúc cung Mệnh đại hạn tiến nhập cung Tử Nữ thì cung Tật Ách [Bính Thân] liền trở thành cung Phu Thê của đại hạn, Can cung là Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Tài Bạch ở Dậu, mà cung Phu Thê tiên thiên phi Văn Khúc Kị nhập cung Mệnh ở Sửu, mà Tị Sửu là tam hợp, cho nên Văn Khúc hóa Kị của cung Sửu cùng với Liêm Trinh hóa Kị của cung Dậu hình thành “Tam hợp Kị” Tị Dậu Sửu. Lúc này Hóa Kị của cung Phu Thê của đại hạn với tiên thiên sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung tương đối mãnh liệt, bởi vì là Hóa Kị tinh ngầm dấy lên, nên là hiện ra phản ứng có tính hung.

Mọi người có thể sẽ hỏi rằng, cung Mệnh với cung Tài Bạch chẳng phải đều là ngã cung hay sao? Tại sao tha cung hóa nhập ngã cung lại là hung, muốn trả lời vấn đề này mọi người trước tiên phải hiểu nguyên nhân dẫn tới thất bại hôn nhân là cái nào, thất nghiệp không có tiền tài thu nhập liệu vợ chồng có tranh cãi ầm ĩ thậm chí ly hôn hay không? Tiền tài do cung Tài Bạch chủ chưởng mà, hơn nữa mọi người cũng gọi cung Phu Thê là cung vị đối đãi của vợ chồng mà! Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch, chính là ám chỉ quan hệ đối đaiã của vợ chồng không được tốt đẹp lắm, nguyên nhân dẫn tới không êm thấm là do liên quan tới tiền bạc, cho nên mặc dù là “tha cung hóa nhập ngã cung” cũng không luận cát được. Trước đây từng nghe người ta nói rằng “Kị nhập” là đạt được, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Tài Bạch hàm ý chỉ “sau khi kết hôn kiếm được tiền hoặc được tiền tài nhờ phối ngẫu”, đại khái cũng có thể là vì như vậy, kết quả sau kết hôn mới phát hiện phối ngẫu chỉ là tốt đẹp ở bề ngoài thôi, không có chút tiền là quan hệ đối đãi của vợ chồng lại xảy ra vấn đề. Đây chính là hiện tượng “chờ mong càng cao thất vọng càng sâu”, với người thứ ba mà nói không chừng phối ngẫu hắn đúng là có tiền thật, do đó kiểu phương thức phi hóa “Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch” này nếu không có chút tài sản làm căn cơ có lẽ không nên mơ mộng “Điếu kim quy”, “Đương thừa long khoái tế” (LC chú: ý hai câu này chỉ không nên mơ mộng kiểu câu rùa đá, ngồi ngai rồng tuyển rể hiền), một khi gặp phải biến động về tiền bạc, thường thường hôn nhân dễ bắt đầu xảy ra điềm xấu. Nói đến đây nghĩ đến có người thường nói : Đẩu Số dễ học khó tinh thông, mấu chốt nằm chính ở chỗ không phân rõ được về các tình huống rủi ro của con người, tưởng là quy tắc của Tử Vi Đẩu Số nhất thể sử dụng, không cần phân lục thân cung hoặc các cung vật chất như tiền tài, điền sản là có khác nhau, cho nên mới dẫn đến dễ phán đoán lầm. Vì thế khi giải đoán cát với hung cần suy tính sự khác nhau về tính chất của cung vị mà có những chỉnh sửa cho hợp lý.

Còn như phải suy tính thế nào để biết năm nào sẽ phát sinh chuyện? Thì từng năm từng năm mà tra xem ứng nghiệm ở lưu niên nào, trọng điểm suy đoán có mấy điểm cần nắm như dưới đây:

Năm nào cung Mệnh lưu niên bị Hóa Kị của góc độ đặc thù xung đến? Hoặc cung Mệnh lưu niên có Hóa Kị của góc độ đặc thù tọa?

Năm nào cung Mệnh lưu niên có sát tinh tụ tập thành đàn?

Năm nào cung Phu Thê lưu niên có sát tinh hội tụ thành đàn?

Năm nào lưu niên tiến nhập vị trí trong tam phương có Hóa Kị tinh của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh, lúc này lấy Hóa Kị tinh tọa Phu Thê bản mệnh là nghiêm trọng nhất, lưu niên bị xung đến là kế đó, tiếp tục quan sát tổ hợp sao của cung Phu Thê năm này có sát tinh tụ tập thành đàn hay không?

Liền có thể biết được một năm nào sẽ xảy ra chuyện, giả như suy đoán ra được lưu niên xảy ra chuyện nhưng mà cái năm ấy đã thoát ra khỏi phạm vi của đại hạn thì cái ảnh hưởng của Kị tinh do góc độ đặc thù cũng sẽ theo đại hạn mà di chuyển tiêu biến, làm cho hung tính cũng sẽ không sản sinh ở lưu niên ấy.

Căn cứ bí quyết thuật phía trước chúng ta tiến tới cân nhắc xem xét xem năm nào phát sinh chuyện ở thí dụ này:

  • Năm 35 tuổi, vừa khéo trùng điệp với cung Mệnh nguyên cục, mà cung Mệnh lưu niên có Văn Khúc Kị của cung Phu Thê hóa đến tọa, tam phương còn có Liêm Trinh Kị của cung Phu Thê đại hạn hội nhập hình thành góc độ đặc thù là tam hợp. Hơn nữa cung

Phu Thê đại hạn phi một viên Liêm Trinh Kị tiến nhập cung Tài Bạch, cung Tài Bạch là cung vị đối đãi của Phu Thê, dùng để so sánh quan hệ đối đãi tốt xấu của vợ chồng trong đó. Bởi vậy năm này phu thê đối đãi sẽ có “hung tướng” xuất hiện, mức độ nghiêm trọng thì như thế nào đây? Bởi vì cung Phu Thê nguyên cục hóa Vũ Khúc Lộc, Tham Lang Quyền nhập cung Mệnh (cung Mệnh lưu niên), Lộc chủ tình duyên, Quyền chủ ước thúc, đại biểu năm này tuy là có xung đột nhưng tình cảm vợ chồng vẫn còn sâu, không đến mức nghiêm trọng không thèm nể mặt nhau.

Tiếp tục khán năm 36 tuổi: tuy rằng cung Phu Thê lưu niên có Thiên Đồng tự hóa Kị,

Lưu niên bàn xem năm phát sinh chuyện

nhưng mà còn có Thái Âm tự hóa Khoa, Khoa có khả năng hóa giải Kị . Cung Mệnh lưu niên tọa Lộc Quyền, lại không cùng Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh hình thành góc độ tam hợp, nên là không đến nỗi sinh sự.

Năm 37 tuổi thì sao? Cung Mệnh lưu niên bị Liêm Trinh hóa Kị của cung Phu Thê xung đến, mà cung Phu Thê lưu niên lại có Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh, mà cung Phu Thê lưu niên tụa hóa Văn Xương Kị, năm này sự tình tương đối nghiêm trọng. Tự hóa Kị cóhàm ý “xong hết mọi chuyện, cùng lắm thì mặc kệ, không đếm xỉa đến nữa”, năm này là có chút dòng suy nghĩ xung kích muốn giải quyết triệt để, cho nên là một năm rất nghiêm trọng. Lại tiếp tục kiểm tra từng năm từng năm thì có thể phát hiện năm 41 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này cũng rất có khả năng, nhưng là năm nào sẽ xảy ra chuyện? Sẽ truy ngược từng năm so sánh xem giữa các năm có thể xảy ra chuyện thì năm nào phát sinh sự nghiêm trọng nhất thì lấy đó là năm xảy ra chuyện, tỷ dụ như ví dụ này thì năm 37 tuổi là nghiêm trọng nhất, cho nên năm này quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng phải đặc biệt cẩn thận kẻo sinh biến.

Vậy còn các lưu niên sau năm 45 tuổi thì sao? Bởi vì tuổi tác khi ấy đã chuyển sang đại hạn kế tiếp (45 ~ 54 tuổi), cho nên nhất định phải trước khán Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn đó, xem hình thành góc độ cát hung với Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh như thế nào; rồi tiếp đến cân nhắc cát hung lưu niên, nếu không có hình thành góc độ đặc thù gì thì cát hung lưu niên chỉ là tiểu thị phi, tranh cãi nhỏ mà thôi, quan hệ đối đãi giữa vợ chồng ở mệnh cục tiên thiên sẽ không sản sinh ảnh hưởng.

Bởi vậy, Hóa Kị của Mệnh với Hạn ngoại trừ phải hình thành góc độ vật lý đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu”sẽ sản sinh tác dụng cường hóa lực của Hóa Kị tinh để làm cho sự kiện phát sinh ra thì lúc giải thích cần phải so sánh quan hệ mà cung vị sở chủ ý tượng và nhân tình sự cố, nhằm sử dụng từ ngữ phù hợp với tình hình cát hung, không thể chỉ có khái niệm mang tính chung chung như “tha cung hóa nhập ngã cung là cát” hay là “ngã cung hóa nhập tha cung là hung” để giải thích cát hung mà cung nhân sự hoặc vật chất sở chủ, đây là quan niệm cơ bản mà người mới học cần phải nắm rõ.

Cũng bởi là đàm luận vấn đề góc độ Hóa Kị mệnh hạn hình thành, cho nên không bàn vấn đề cách cục với tinh tính của mệnh với đại hạn, thế nhưng lúc ứng dụng thực tế thì hai cái này là tham số tham khảo rất trọng yếu mới sẽ không bỏ sót.

Muốn suy đoán lưu niên cần luyện tập nhiều hơn, nghiên cứu nhiều ví dụ thực tế mới có thể vận dụng được thuần thục, nhưng cũng như phía trước đã nói, vẫn cần cẩn thận kiên trì suy xét đánh giá từng năm.

*Tiểu Hạn –Dùng Để Tham Khảo

Có người hỏi: “Có nói tới đại hạn vì sao không có đàm luận tiểu hạn vậy?” Đây là vấn đề thường nhìn thấy, chúng ta có thể đem sự kiện chia làm hai loại là “nội phát” và “ngoại lai”. Ví dụ như tai nạn xe cộ do người khác lái xe tới đụng vào là thuộc sự kiện của “ngoại lai”, nhưng mà bản thân say rượu lái xe mà phát sinh tai nạn xe cộ hoặc là tai nạn xe cộ ở trên đường cao tốc do uống rượu say là thuộc sự kiện có tính “nội phát”. Hai loại sự kiện như này dấu hiệu hiện lên trên mệnh bàn có tương đồng hay không? Chúng ta thường hay gặp người khác hỏi “Năm nay tiểu hạn tốt không?” Tiểu hạn là kết quả của các hành động khác nhau mà bản thân đã thực hiện trước đó, hiển tượng thành sự kiện, đây là kết quả của nghiệp chướng mà nên, đương nhiên có xấu có tốt rồi! Giống như hiện tượng tai nạn xe cộ được mô tả phía trên, mà “lưu niên” thì là tác động ngoại lai để sự kiện tạo thành, ví dụ như tượng loại tai nạn xe cộ đầu tiên đã thuật ở trên thì chỉ sợ bản thân có thể tránh nó và biết sẽ tai nạn ở nơi nào không? Cho nên, những người theo cách luận tiểu hạn ủng hộ loại lập luận này và vẫn chủ trương tiểu hạn cũng có công hiệu sử dụng.

Người mới học có thể khảo nghiệm nhiều mặt xem các luận điểm có được thiết lập hay không, thu thập nhiều các trường hợp cụ thể để xác minh nghiệm chứng xem có thể thiết lập “luận pháp tiểu hạn” hay là không.

Cung Mệnh lưu niên đang ở đâu vậy? Như năm nay là năm Ất Sửu thì cung Mệnh lưu niên ở cung Sửu, giản đơn minh bạch, thế còn “tiểu hạn” thì ở đâu? Là theo quy tắc dưới đây từ “Địa Chi của năm sinh” để quyết định, khởi pháp như sau:

  • Năm Dần, Ngọ, Tuất: lấy “Thìn” khởi 1 tuổi
  • Năm Thân, Tý, Thìn: lấy “Tuất” khởi 1 tuổi
  • Năm Hợi, Mão, Mùi: lấy “Sửu” khởi 1 tuổi
  • Năm Tị, Dậu, Sửu: lấy “Mùi” khởi 1 tuổi1

Khẩu quyết khởi tiểu hạn:

Tiểu hạn nhất niên nhất độ phùng; Nam thuận nữ nghịch bất tương đồng

Dần Ngọ Tuất nhân Thìn Thượng khởi; Thân Tý Thìn nhân tự Tuất cung

Tỵ Dậu Sửu nhân Mùi cung thủy; Hợi Mão Mùi nhân khởi Sửu cung

Nghĩa là:

Tiểu hạn mỗi năm chuyển một cung; Nam thuận nữ nghịch chẳng giống nhau

Năm Dần Ngọ Tuất : Thìn thứ nhất ; Năm Thân Tý Thìn : Tuất làm đầu

Năm Tỵ Dậu Sửu : Mùi đếm trước ; Năm Hợi Mão Mùi : từ Sửu cung

Tiểu hạn là một trong ba cung quan trọng dùng để xem vận hạn hàng năm (2 cung khác là Đại hạn và Lưu niên đại vận) mà Nam phái thường sử dụng.

Quan Lộc đại hạn

Sau đó, tiếp tục phân chia nam nữ, giới tính nam thuận kim đồng hồ chuyển, như người nam mà sinh năm Dần thì 2 tuổi là Tị, 3 tuổi là Ngọ; giới tính nữ nghịch kim đồng hồ chuyển, như nữ nhân sinh năm Dần thì 2 tuổi ở Sửu, 3 tuổi ở Tý.

Như ví dụ trên, nam sinh năm Mão, tiểu hạn từ cung Sửu khởi 1 tuổi, thuận kim đồng hồ chuyển động, cho nên đem số tuổi tiểu hạn của Tử Nữ đại hạn đánh dấu ở trên mệnh bàn, mọi người có thể đối chiếu với lưu niên bàn. (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, cần hiểu đây là tác giả nói đại hạn đang ở cung Tử Nữ nguyên cục)

Còn như làm sao sử dụng tiểu hạn đây? Có thể nói giản đơn như sau:

  • Trước tiên, đem hạn Lộc Tồn, hạn Kình Dương, hạn Đà La bài nhập mệnh bàn, ví dụ như mệnh tạo ở ví dụ này cung Mệnh đại hạn ở cung Tử nữ, mà Can cung là Mậu thì Lộc Tồn nhập Tị cung, Kình Dương nhập Ngọ cung, Đà La nhập Thìn cung (trong mệnh bàn dùng khung vuông ghi chú rõ rồi – LC chú: tác giả dùng khung vuông ghi chú nhưng chúng ta dùng kí hiệu nào đánh dấu thì tùy mỗi người).
  • Tiếp tục đem đại hạn chuyển hoán bắt đầu lại từ đầu theo Ngũ hổ độn, đem cung Can điền nhập các cung, ví dụ như Mậu hạn thì Thiên can là Canh, một lần nữa lấy Can Mậu của cung Mệnh đại hạn dùng Ngũ hổ độn Dần thủ. Bởi vậy Dần thủ Thiên can là Giáp, y theo thứ tự đem Thiên can điền nhập vào các cung, (trong mệnh bàn có dùng ghi chú bằng khung vuông), đây là phương thức rất đặc thù phải nhớ kĩ sau khi đại hạn chuyển hoán mới sử dụng Thiên can Dần thủ mới để phi tứ hóa.

Đại hạn bàn nhưng dùng Can năm sinh khởi Thiên can của Ngũ hổ độn, còn Tiểu hạn thì sao? Thì một lần nữa sử dụng Thiên can các cung khởi Ngũ hổ độn, từ chỗ rơi cung vị khi phi tứ hóa tiến nhập đại hạn mệnh bàn xem có hình thành các góc độ đặc thù gì không? Rồi quyết định mức độ cát hung hiện tượng sự vật.

Còn về việc phải dùng cung vị nào để phi tứ hóa? Trong rất nhiều sách thường chỉ viết dùng cung Mệnh đại hạn hoặc cung Mệnh tiểu hạn để phi tứ hóa mà thôi, thế nhưng chúng ta mỗi ngày đối mặt với rất nhiều các loại sự việc khác nhau như là gia đình, sựn nghiệp, vợ chồng, con cái … từng khía cạnh đều có các hiện tượng với mức độ cát hung khác nhau, lẽ nào đều là chỉ lấy mỗi cái cung Mệnh ấy đại biểu toàn bộ? Cho nên là không thể nào, cần phải phân ra các sự vật khác nhau để định ra các cung chủ chưởng sự vật khác nhau nhằm phi tứ hóa để tìm cát hung mới đúng.

Bởi vậy, lúc xem cung chủ sự của đại hạn phi tứ hóa có cùng hình thành các góc độ hiệu ứng cát hung với cung chủ sự của tiểu hạn hay không, tới phán đoán cát hung,

Tứ hóa của cung Phu Thê đại hạn phi xuất thì dùng hình tứ giác vuông điền nhập vào trong mệnh bàn:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Huynh Đệ
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Đại hạn Phu Thê hóa Thái Dương Lộc ở Quan Lộc đại hạn là hiện tượng “Lộc xuất”, biểu thị duyên phận vợ chồng có sự xa cách, mà Thái Âm Khoa và Thiên Đồng Kị xung đến Tài Bạch của đại hạn cho thấy mối quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng kém đi, tình cảm trở nên không nồng ấm, đương nhiên quan hệ hôn nhân sẽ dễ sinh biến hóa, là năm nào đây?

Kết quả vừa nhìn, cung Mệnh đại hạn bị sát tinh Kình Dương, Đà La từ tam phương tới hội tụ gây trắc trở, cung vị đối đãi của đại hạn lại bị Thiên Đồng Kị xung kích. Tiểu hạn năm 37 tuổi tọa vào đúng vị trí Kị của Phu Thê tiên thiên bay tới, mà cung Phu Thê tiểu hạn năm 39 tuổi có Văn Khúc Kị tinh của Phu Thê tiên thiên hóa nhập, hai cái niên hạn này đều phải chú ý. Tiếp tục sẽ dùng Phu Thê của tiểu hạn để phi bố tứ hóa xem xét (dùng Thiên can Dần thủ mới khởi), cung Phu Thê tiểu hạn năm 37 tuổi ở Hợi có Can là Quý : Tham Lang hóa Kị nhập cung Mệnh, bởi vậy có thể thấy năm này quan hệ đối đãi giữa vợ chồng có chuyển biến xấu. Năm 39 tuổi thì cung Phu Thê tiểu hạn ở Sửu có Can là Ất : Thái Âm hóa Kị, mà Thái Âm lại chủ phái nữ, chủ vợ hoặc con gái, hiện tại người này là nam mệnh luận hôn nhân đương nhiên là lấy chuyện vợ con để xem. Nếu Thái Âm tinh hóa Kị, quan hệ với vợ tất nhiên chuyển biến xấu, cho nên năm 39 tuổi quan hệ vợ chồng thay đổi theo hướng xấu, hơn nữa Thái Âm hóa Kị thì vợ không muốn nhân nhường nữa, không im hơi lặng tiếng hay uyển chuyển để tìm cầu toàn mà sẽ làm cho phu thê rùm beng. Hơn nữa đồng thời còn có Kình Dương và Đà La của đại hạn càng tăng sự soi xét, liệu nó có đến mức nối giáo cho giặc không, như ví dụ này thì may là không có hình thành góc độ đặc thù ở cung Mệnh với cung Phu Thê của niên tuế, nên là hung lực gây họa không quá lớn.

Bởi vậy, tiểu hạn là cách luận có thể phụ trợ cho lưu niên, khi hai cái này đều hiển hiện hiện tượng nào đó một cách đột hiển thì cái năm này phải đặc biệt coi chừng.

Còn có một số người không phải là dùng tứ hóa mà là dùng “lưu niên tướng tiền chư tinh” để suy đoán sự vật sự việc của lưu niên, có thực có chuyện này hay không? Ta chưa từng thực nghiệm, mọi người có thể đi nghiệm chứng khảo nghiệm, lúc rảnh rỗi có thể viết chuyên thư tới thảo luận, bởi vì chỉ thấy có người nói điểm chút tới mà chưa thấy ai phán đoán suy luận sự kiện tỉ mỉ kỹ càng bằng “lưu niên tướng tiền chư tinh” cả. Vì thế ta suy đoán đây là “hư chiêu” dẫn dụ người vào phương hướng nghiên cứu lầm lối, nếu ta suy đoán sai xin được hoan nghênh chỉ điểm ra chỗ sai.

Cá nhân có cần dùng tiểu hạn như thói quen không, bởi vì y theo trình tự suy lý “Tại Thiên thùy tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự”, nếu lưu niên bàn hoặc tiểu hạn bàn là mắt xích cuối cùng, thừa thụ thùy tượng của tiên thiên mệnh bàn với đại hạn bàn để sự vật thành hình thì hẳn là tượng sự vật cũng sẽ có sự tương đồng. Bởi thế cá nhân người viết để đơn giản hóa trình tự, tránh cho phải điền nhập quá nhiều thứ làm rối hình lá số, không biết làm sao để nắm bắt mà nói cho nên là chỉ dùng lưu niên mà thôi.

(Tử vi mệnh vận phân tích thực lệ – Từ Tăng Sinh. Linh Chi biên dịch)

Căn Nguyên Sự Thay Đổi Biến Hóa

Vạn Tượng Của Tinh Diệu

Có rất nhiều bằng hữu hỏi về vấn đề tinh diệu, cho rằng tứ hóa phi tinh phái đối với tinh diệu tựa hồ không quá coi trọng, đây là nhận xét cực kỳ sai lầm; nếu tứ hóa là dụng thần của Tử Vi Đẩu Số thì như vậy tinh diệu có thể nói là thần tượng, không phải thần tượng thế dụng thần cũng không có cách nào nương tựa, cho nên tinh diệu là công phu nhập môn để học tốt Tử Vi Đẩu Số. Thế nhưng đối với ý nghĩa và giải thích các tinh diệu, các lưu phái không có cùng thuyết pháp, làm cho người chưa kết luận được, người mới học lại càng phức tạp.

Trên thực tế, chỉ với hơn ba mươi sao muốn phản ánh muôn vàn tượng sự vật của nhân sinh trong cuộc sống thật sự đó là quá trình rất phức tạp; với người toán mệnh thì khi nhìn vào các kí hiệu trên mệnh bàn để suy luận ra các sự kiện mà muốn giải thích như thế nào cho phù hợp với hiện tượng nhân sự thực tế thì sẽ phải luôn cân nhắc, tỉ mỉ diễn hóa mới có thể đi đến sát với thực tế hiện tượng, mà việc cân nhắc diễn biến này trong quá trình suy tính có rất nhiều nhân tố, trong đó có tính chất của sao là cơ sở rất trọng yếu trong luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số.

Tinh diệu trong cơ cấu Tử Vi Đẩu Số đảm nhiệm hiển hiện công hiệu của [hình tượng nhân sự vật], nó phải theo sự biến hóa của cung vị mà thay đổi hình tượng của nó, tinh tú đồng cung cũng sẽ làm tăng tình tiết hình tượng nhân sự vật đó, mà diễn hóa hiệu quả sinh ra có sự mạnh yếu. Do đó, đem tinh tú chuyển hóa thành [hình tượng nhân sự vật] là một sự cần thiết trong quá trình suy tính nhiều phương diện.

Ví dụ như: Thái Dương rơi vào cung Mệnh và cung Điền Trạch thì hình tượng đại biểu không có giống nhau. Khi ở cung Mệnh nó chỉ về tướng mạo, cá tính, ngoại hình của người, giải thích các đặc trưng của người. Khi nhập cung Điền Trạch thì giải thích các cảnh vật có liệ quan đến điền trạch, Thái Dương chính là chỉ các cảnh vật như trạm xăng dầu, đài phát thanh, trạm biến áp, cục viễn thông … cho nên hình tượng nhân sự vật mà tinh diệu sở thuộc đại biểu nó tùy theo sự biến động của cung vị mà chuyển hóa.

Bởi vì tinh diệu có số lượng ít mà nhân thế thì lại hàng ngàn hàng vạn sắc màu khác nhau, cho nên cần có sự kết hợp phụ trợ của những phụ tinh sát diệu khác mà hiển hiện hoặc chuyển hóa ra rất nhiều hình tượng nhân sự vật khác nhau, những hình tượng nhân sự vật này có thể căn cứ tình hình:

  • Vấn đề được hỏi của người hỏi: tìm ra cung vị tương ứng có chuyển biến, bởi vì mười hai cung vị đại biểu hàng ngàn hàng vạn hiện tượng nhân sự, có một số vấn đề sự tượng thực tế không phải là ngày thường gặp phải nên ở khía cạnh lập hướng cũng phải luôn có sự cân nhắc xem xét mới có thể xác định. Sau khi lập hướng, tiếp tục căn cứ tình hình cung vị, sao, tứ hóa để phân biệt hình tượng sự kiện.
  • Suy xét cung vị với tổ hợp sao tọa để diễn hóa: tập trung vào quan hệ phi hóa nhập xung chiếu hợp của tứ hóa bản mệnh, đại hạn một cách rõ ràng để tìm ra điểm xảy ra vấn đề, chủ động đưa ra giải thích.

Muốn phân giải chính xác hình tượng sự vật, thực tế không phải là một xúc có thể đụng, phải trường kì gom góp tích lũy kinh nghiệm và sự từng trải việc đời việc người; cũng phải nắm rõ các quy tắc của mệnh lý, mới có thể vận dụng tốt nhất, nắm giữ trong lòng, người đạo hạnh Đẩu Số cao thâm thường hay có thể một lời nói rõ ra được nỗi băn khoăn của người hỏi mệnh, đạo lý cũng là ở chỗ này.

Người mới học phải hao tốn rất nhiều thời gian để tìm tòi hình tượng sự vật của tinh diệu, thế nhưng trước hết phải học tốt cách vận dụng tứ hóa, không phải là từ trong mười hai cung lấy ra một cung vị nào đó hoặc sao nào đó là có thể phân giải ra hình tượng sự vật. Có thể lấy ra được cung vị lập hướng chính xác thì có thể sử dụng khả năng thống kê phân loại mạnh mẽ của máy vi tính, đem các mệnh lệ vốn có các sự kiện tương đồng quy nạp cùng một chỗ, trải qua học hỏi luyện tập thông thạo có tính hệ thống, đem kết hợp hình tượng nhân sự vật được đại biểu bởi các tinh tú, thì có thể nắm bắt tốt được hình tượng sự vật mà tinh tú hàm ẩn, tiến tới tích lũy chính xác quy tắc suy lý.

Tinh diệu tùy vào các nhân tố như lạc nhập vào cung vị địa chi khác nhau, cung nhân sự khác nhau, hóa tinh khác nhau, tổ hợp tinh tú trong cung khác nhau, chúng đối với tính chất của sao đều làm xuất hiện “thay đổi”, tính chất sao

biến đổi cũng không có giống nhau, được gọi là bốn loại hình thái biến hóa của tinh diệu, cách gọi theo thứ tự là “Chất hóa”, “Loại hóa”, “Dị hóa” và “Hóa khí”, phân loại tên gọi chính xác là “Tinh diệu tứ hóa” và “Thiên can tứ hóa”.

Cái Gì Gọi Là “Chất Hóa Của Sao”

Trong quan hệ của tinh diệu và Địa chi, thì Địa chi có thể ví như là thổ nhưỡng, còn Tinh diệu được coi là hạt giống, hạt giống đó có thể rơi vào các thổ nhưỡng khác nhau, cho nên hạt giống rơi vào thổ nhưỡng thích hợp là có thể lớn lên cao lại khỏe mạnh; còn nếu rơi vào thổ nhưỡng cằn cỗi có hại thì lớn lên nhỏ mà thấp, thậm chí còn có tính độc. Cho nên, Địa chi là chính thể, Tinh diệu là khách thể, đây là điều phải được xác định trước tiên khi phán đoán tinh diệu lạc nhập cung vị sản sinh tác dụng “chất hóa”.

Cường Độ Tinh Diệu Thay Đổi Về Chất

Tinh diệu lạc nhập các cung thì vì ngũ hành của Địa chi sở tại khác nhau, sẽ cùng với ngũ hành của Tinh diệu sản sinh tác dụng tương hỗ mà dẫn khởi chuyển biến về bản chất, mà loại biến hóa này làm cho có sự tăng giảm “tuyến tính” xuất hiện, không phải là chuyển biến thành một loại hiện tượng “đột biến” về tính chất. Bản thân tinh diệu cũng có ngũ hành thuộc tính, mà lạc nhập Địa chi cũng có ngũ hành thuộc tính, ngũ hành của Địa chi và ngũ hành của Sao sẽ sản sinh [tác dụng ngũ hành sinh khắc] mà làm cho tính chất của Tinh diệu có tác dụng được “Cường hóa hoặc Nhược hóa”, dạng đặc tính xuất hiện này được gọi chung là “Miếu hãm lợi vượng”, hiện tượng này được gọi là “Chất hóa”. Trên cơ bản thì mỗi một viên sao đều có hai loại tính chất đặc biệt “Diện hướng”, ví dụ như Thiên Đồng y theo cổ văn nói là “chủ là người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tâm từ thẳng thắn, văn mặc tinh thông, có ý chí”. Đây là đặc tính tích cực, nếu mở rộng đến mặt trái thì cũng có đặc tính “thoái lui, nhu nhược, vô vi, bàn suông, lười nhác”, loại cải biến “Chất hóa” này chính là hiện tượng khiến cho tính chất tích cực và tính chất tiêu cực của tinh diệu được cường hóa hoặc nhược hóa, cũng không thể cho thấy tình hình là cát hay là hung, ví dụ như có người cá tính thì lại thích “thanh bần nhạc đạo, thích ứng trong mọi tình cảnh, tri túc thường nhạc” vui vẻ điềm đạm không mành danh lợi, đối với những người “tranh quyền đoạt lợi, ham hưởng thụ, liều mạng kiếm tiền” đó là điều không hiểu được nhưng đối với đương sự mà nói thì đây là hưởng thụ với phúc báo lớn nhất rồi. Cho nên “Chất hóa” của sao chính là hiện tượng làm cho tính chất mặt tích cực hoặc mặt trái của tinh diệu được tăng lên hay yếu đi, người viết dùng “mặt trái” để hình dung một phía tính chất đặc biệt khác chứ không có hàm ý phủ định, giống như dạng cách gọi điện dương với điện âm hoàn toàn không mang hàm ý cát hung gì.

Bởi thế tinh diệu sau khi trải qua ảnh hưởng “Chất hóa” làm cho tính chất của tinh diệu có thể mạnh thêm hoặc yếu bớt đi, cổ nhân lấy “Miếu hãm lợi vượng” để gọi tên, độc giả có thể đối chiếu tham khảo thêm từ bảng biểu ở trên. Chỉ cần là tinh diệu cư ở các cung trên bản mệnh bàn thì nó có hiệu lực sản sinh hiệu quả cả đời, còn những tinh diệu này nếu là cư ở cung vị đại hạn thì cũng có thể xuất hiện hiện tượng ở trong hạn đó, cũng đều cần xem xét những thay đổi trong bản chất của tinh diệu sau khi bị ảnh hưởng bởi “chất hóa của miếu hãm lợi vượng”.

Sự biến đổi về bản chất của tinh diệu cùng với sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết. Bởi vậy, có thể thấy ngũ hành của cung vị Địa chi và ngũ hành của tinh diệu có quan hệ như thế nào thì cũng biết được định đính “miếu vượng lợi hãm” của tinh diệu như thế , cũng làm thoải mái hơn trong nắm bắt ý nghĩa của chính tinh khi nhập cung, cũng không cần phải nhớ cứng ngắc theo bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu.

Giả như ngũ hành của Địa chi sinh cho ngũ hành của Tinh diệu thì sẽ làm tăng mạnh tính chất tinh diệu, tính chất tốt sẽ được cường hóa, tính chất không tốt tương tự cũng sẽ được liệt hóa mà không phải là tăng mạnh tính chất tốt của tinh diệu.

Ngũ hành Địa chi khắc ngũ hành Tinh diệu thì tính chất của tinh diệu cũng sẽ bị suy yếu, tính chất tốt bị suy giảm, tính chất xấu cũng yếu nhược đi.

Nếu như ngũ hành Tinh diệu sinh cho ngũ hành của Địa chi: bởi vì phải hao phí tinh thần đến sinh cung Địa chi, có sát tinh đồng cung dễ phải tự lo không xong.

Ngũ hành Tinh diệu khắc ngũ hành Địa chi: bết bát hơn, hao tổn tác dụng của tinh diệu, càng sợ có sát tinh nhảy vào, chuyển hóa làm tính chất không tốt có đất phát triển, đây là biến dị của tinh diệu. Tượng, gọi giản đơn là “Dị hóa”, về sau bàn tiếp.

  • Âm, dương tương sinh là hay nhất: âm sinh dương hoặc dương sinh âm, như cung Dần là Giáp Mộc sinh cho Âm Hỏa của Liêm Trinh hoặc Quý Thủy của Phá Quân khi tiến nhập Dương Kim của cung Thân … chính là lấy ngũ hành của cung vị sinh cho ngũ hành của tinh diệu. Giả như ngũ hành tinh diệu tới sinh ngũ hành cung vị thì không có hiệu lực gì, ví dụ như Thủy của Phá Quân lạc nhập tới sinh cho Mộc ở cung Dần thì không phải là tốt, bởi vì chủ khách có khác biệt cho nên Phá Quân nhập cung Dần chỉ là “Đắc địa” mà thôi.
    Thí dụ như: Thái Dương [dương Hỏa] rơi vào cung Mão [âm Mộc], môi trường âm Mộc càng làm cho khi Thái Dương bính Hỏa lạc nhập càng thêm tràn đầy cho nên tính chất tích cực của Thái Dương như chính trực, quang minh, bác ái, giúp người, rộng rãi … sẽ mười phần hiển hiện, bởi vậy người có cách “Nhật chiếu lôi môn” sẽ càng hiển hiện rỗ những tính chất đặc biệt này. Hoặc như Tham Lang [giáp Mộc] thì cung nào có thể tới sinh cho nó? Âm Thủy tới sinh cho [dương Mộc] của Tham Lang thì Tý vị có thuộc tính là âm Thủy, cho nên Mộc của Tham Lang rơi vào Tý vị là vượng, “Tham Lang là thần của họa phúc, chủ người tính cương uy mãnh cơ thâm mưu xa, tùy sóng theo sóng, yêu ghét khó định, cư miếu vượng, gặp Hỏa Tinh quan võ quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục” chính là chỉ Tham Lang Tý gặp Hỏa Tinh là có thể quan võ quyền quý. Bởi vậy, âm Thủy của Tý vị có thể làm tính chất tốt của Tham Lang phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, có thể thành đại cách cục tốt “Mã đầu đới tiễn, uy chấn biên cương”!
  • Dương sinh dương, âm sinh âm: tốt tiếp theo, ví như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Thân [dương Kim], được Kim sinh làm [dương Thủy] mạnh thêm cho nên tinhc chất tích cực của Thiên Đồng cũng có thể thích hợp mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản của Trung Dung đến xem thì có: các đặc tính như trong các quy tắc mọi thứ vẫn được ổn định, không quá cầu danh lợi, tri túc thường nhạc, tâm tính hào phóng rộng rãi… Mặt khác Thiên Đồng [Thủy] ở cung Dần [Mộc] bởi vì phải tổn hao công phu đi sinh Mộc của cung Dần mà tiêu hao năng lượng, nên đặc tính còn hơn Thiên Đồng ở cung Thân, tương đối lười nhác, không tích cực, bị động, thích hưởng thụ một chút … Bởi thế, con đường phát triển của đời người tương đối bị hạn chế, mà lấy đặc tính “Ấm phúc tụ không sợ tai ương” mà nói, khi Thiên Đồng tinh Thân vị có thể gặp hóa cát nếu so với tổ hợp ở Dần vị rõ ràng mạnh hơn, một cái có khả năng hóa giải nhẹ, một cái có khả năng hóa giải nhưng lại mạnh hơn. Cho nên Thiên Đồng lạc nhập cung Dần là “Lợi”, còn lạc nhập cung Thân là “Vượng”, tuy cùng là [Thiên Đồng, Thiên Lương đồng vị] nhưng tính chất vẫn có một chút khác biệt.
  • Âm khắc dương, dương khắc âm: hữu tình, tính chất mặt trái bị áp lực, mặt tích cực cũng bị áp chế, nên khi tính chất tích cực của tinh diệu hiển hiện thì cũng đồng thời xuất hiện cả tính chất mặt trái, loại hiện tượng đồng thời tồn tại như này lánh đi cũng không được mà nhường người ta cũng khó có được vui vẻ như ý. Ví dụ như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Mùi [Thổ] thì Thổ khắc Thủy [dương Thủy] cho nên tính chất tích cực của Thiên Đồng chịu áp lực, tính chất mặt trái cũng sẽ quá độ mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản Trung Dung đến xem, thì có: lười nhác, đa cảm và các hành vi cư xử rõ ràng, vì thế Thiên Đồng rơi vào Sửu Mùi cung, khi Thiên Đồng nhập mệnh hạn nói về cát hung có thuyết “Thiên Đồng nhập Sửu Mùi cung, không đắc địa”, không lấy cát luận, mà các hiện tượng được định hình trong cuộc sống chẳng hạn như là: “có nhiều tâm sự không thể nói với người ngoài, khi mặt đối mặt với mọi người thì lại miễn cưỡng vui cười, có nhiều chuyện không như ý khó có được niềm vui”. Hoặc như Thiên Tướng [dương Thủy] rơi vào cung Tị, Tị là đất vượng của [Hỏa], nên khi đem Thiên Tướng [Thủy] tinh vào đây thì tính chất tích cực của Thiên Tướng không có cách nào hiển hiện, thi triển không được, mà đặc tính mặt trái lại diễu võ dương oai, vốn dĩ là “ngôn ngữ trung thực, gặp chuyện không dối trá, gặp người có khó khăn trong lòng có trắc ẩn, gặp người ác trong lòng giận dữ cảm thấy bất bình”. Tuy rằng đều vẫn còn đó, nhưng lại phát sinh lệch đi, như tinh thần trọng nghĩa quá đà, giống như bang phái phân chia, hoặc không thức thời mà làm náo động khiến chính bản thân bị ảnh hưởng không tốt, đối với vận đồ cuộc sống cũng gặp trở ngại tương đối, hoặc thêm mệt nhọc không thuận lợi nữa, đây hoàn toàn là kết quả chính tinh lạc cung đưa đến.
  • Dương khắc dương, âm khắc âm: vô tình; rất không tốt, làm tính chất thiện lương của tinh diệu chuyển hóa cải biến triệt để, như: Thiên Đồng [dương Thủy] đóng ở cung Tị [dương Hỏa] sẽ làm cho dương Hỏa liệt dương Thủy vô tình, cũng làm tính chất của Thiên Đồng hoàn toàn cải biến, nguyên cớ trong Đẩu Số Toàn Thư nói “Đồng Lương Tị Hợi vị, nam đa lãng đãng nữ đa dâm” là tại sao chứ? Cũng là bởi vì dương Hỏa sẽ làm khô nóng dương Thủy của Thiên Đồng mà khiến cho tính chất mặt trái của Thiên Đồng hoàn toàn phát huy, trở thành lười biếng, có các hiện tượng cẩu thả, háo sắc, ham hưởng thụ, ủy mị không phấn chấn … Bởi vậy cổ nhân mới dành cho người Thiên Đồng ở Tị lời bình như thế.

Ngoại lệ: còn có một số hiện tượng ngoại lệ chẳng hạn như Thiên Cơ [Ất Mộc] rơi vào cung Sửu [Thổ], Thổ tới sinh Ất Mộc của Thiên Cơ hẳn là càng chương hiển tính chất tích cực của Thiên Cơ tinh chứ nhỉ! (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, có lẽ ý tác giả đang chỉ về cây tức Mộc được ở trồng trong đất tức Thổ nên đất làm cây tốt lên) Người nghĩ lầm, không phải là “Thổ sinh Mộc” mà là “Thổ sinh Kim” chứ, nhưng mà Mộc của Thiên Cơ ở trong Thổ tại sao ở bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu lại ghi trạng thái là “Lạc hãm”? Nguyên bởi bốn cung vị Thìn Tuất Sửu Mùi nó thừa tục trạng thái chuyển hoán của cung vị trước nó một cung mà bao hàm ngũ hành khí bên trong của cái cung vị trước ấy, như trong Sửu [Thổ] thì có hàm chứa [Thủy] khí của Tý vị cho nên loại Thổ này giống như “đất ao đầm” hoặc “cát lắng”, về căn bản nó không sinh nổi Mộc của Thiên Cơ, cho nên Mộc của Thiên Cơ khi nhập vào đây dễ tiêu thất nên là lạc hãm. Bởi vậy, tính chất mặt trái trong tính chất đặc biệt chung của Thiên Cơ tinh sẽ được cường hóa mà tính chất tích cực lại bị nhược hóa, Thiên Cơ vốn là tinh diệu thuộc thần trí rõ ràng, cơ trí nhạy bén khi lạc nhập vào đây thì thần kinh trở nên quá nhạy cảm, thần kinh suy nhược, đối với bất cứ chuyện gì hay cử chỉ của ai đó đều sẽ lấy mặt trái suy xét khiến cho bản thân dễ nghi thần nghi quỷ, hoặc là đặc biệt nhạy cảm đối với những sự vật có tính quái lạ, liệu có không? Thì là do tư duy thiếu mạch lạc, lối suy nghĩ rối rắm, không phân rõ nặng nhẹ, thân sơ viễn cận (LC chú: ý chỉ thân cận thì sơ sài mà xa xôi lại gần gũi); nếu là ở đất miếu vượng, ngư ở Ngọ vị không chỉ thần trí rõ ràng, suy nghĩ rõ ràng, trật tự mạch lạc, cơ trí minh mẫn, với nghiên cứu, thi cử hoặc đối nhân xử thế đều có giúp ích rất lớn, đương nhiên cũng dễ trở thành nhân vật trung lưu trong xã hội. Cho nên một số định nghĩa và suy nghĩ của chúng ta về sự miếu hãm của tinh diệu ở trong bảng biểu miếu hãm lợi vượng của tinh diệu còn có một số chỗ không khớp, cái này muốn dựa vào sự ghi nhớ thuộc lòng chẳng hạn như Thiên Cơ Mộc nhập cung Dậu Kim vị thì Ất Mộc của Thiên Cơ chẳng phải là bị Kim ở Dậu khắc chế hay sao chứ? Vậy phải là bị “Lạc hãm” chứ! Tại sao lại là “Vượng” vậy? Cái này không cách nào dùng quan hệ ngũ hành sinh khắc để giải thích được, chỉ có thể dùng định nghĩa về kim thí dụ như là dùng rìu đục để tạo hình cây cối, có thể đem gỗ mục tạo hình nghệ phẩm hoặc gia cụ có giá trị được nâng lên cao trên diện rộng nhằm biểu thị hàm ý cho sự nhập miếu thôi.

Cái Gì Gọi Là “Dị Hóa Của Sao”

Nếu có hai sao ở cùng một cung thì trước tiên cần xem xét quan hệ sinh khắc chế hóa của sao với cung, sau đó cân nhắc ảnh hưởng sinh khắc chế hóa của tinh diệu ở trong đó, thì có thể biết được sự tốt xấu của cung với tổ hợp sao lạc nhập.

Do ảnh hưởng quan hệ tương hỗ được tăng cường hay suy giảm của tổ hợp sao tọa trong cung lúc đó mà làm cho tính chất của sao có chuyển biến, là thông qua tác dụng vật lý, hóa học mà dẫn khởi, hai sao cùng lạc nhập một cung cũng không thể đơn giản lấy quan hệ ngũ hành sinh khắc gia giảm tác dụng ngay lập tức, có một số tổ hợp tinh diệu sẽ sản sinh một vài đột biến làm cho tính chất của sao có sự chuyển biến 180 độ, cái hiện tượng này được gọi là “Dị hóa của sao”.

Ví dụ như: Thái Âm vốn chủ ôn nhu, nhưng [Thái Âm Hỏa Linh đồng vị, ngược lại thành Thập ác] chính là tổ hợp dị hóa điển hình, cũng không phải là Thái Âm [Thủy] bị Hỏa Tinh [Hỏa] sở khắc, chỉ chủ ôn nhu kém vẻ mà thôi, mà là chuyển biến hoàn toàn thành: giỏi về tâm cơ, tính toán, hay đố kị, chanh chua, tính cách đôi lúc hơi vô lý, bởi thế tổ hợp hai sao trở lên phải chú ý tính chất “Dị hóa” nhằm chuyển hoán giải thích cho hợp lý, tổ hợp dị hóa mọi người có thể tìm được ở trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Như: “Thiên Đồng cung Tuất Hóa Kị, Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai”. Người sinh năm Đinh cung Mệnh tại Tuất có sao Thiên Đồng tọa, tình trạng Thiên Đồng là “bình thản”, nếu như Can cung là Canh thì làm cho sao Thiên Đồng trong cung tự Hóa Kị, mà Can năm sinh là Đinh thì làm cho Thiên Đồng trong cung Tuất thành Hóa Quyền, cung Thìn ở đối diện có Cự Môn Kị cũng đứng sóng đôi nhìn chằm chằm vào Thiên Đồng Quyền ở cung Mệnh, vốn dĩ thực lực của Quyền với Kị cứng rắn nhưng tự Hóa Kị lại làm phá hư hết, Thiên Đồng tinh vốn bình hòa nay khí thế yếu ớt vậy sao có thể luận là tốt được đây? Đây cũng là một loại “Dị hóa”, nhưng phải kết hợp cùng năm sinh với Can cung Tứ hóa để khán điểm kỳ lạ trong đó; loại người có mệnh cục như này thường thường “Nhược cực phản cường”, luôn cho thấy sự bền bỉ và tinh thần chiến đấu như siêu nhân luôn nỗ lực phấn đấu dù trong nghịch cảnh mà thu được thành công.

Sự cát tường hay ác của tinh diệu càng không thể chỉ nhìn vào mặt chữ để phán định, ví dụ như sao Thiên Lương (天梁星) không thể vì âm nó gần với “thiên lương” (天良 ) mà cho là rất hiền lành, trái lại thực tế có những lúc lại tỏ ra rất nghiêm nghị khiến cho người khác không thể

chịu đựng được, bởi vì nó là thống soái tinh lãnh đạo chúng nhân, phải công bằng mới có thể làm cho mọi người tin phục, cho dù con cái có phạm sai lầm cũng muốn xử trí cho nên có bao hàm ý cô khắc trong đó.

Vì vậy mỗi một sao đều có tính chất tích cực và tính chất mặt trái của nó, nếu như sát tinh ít thì sẽ biểu hiện mặt hiền lành tốt đẹp, nếu như Kị sát trùng trùng sẽ hiển lộ đặc tính bất lương. Lúc giải thích tính chất của sao không thể quên mỗi một sao thực tế đều tồn tại cùng lúc bên ngoài quang quang bên trong âm ám, mà diện hướng hiển lộ là gì? Tất cần phải xem xét bảng biểu miếu hãm lợi vượng với phụ tinh sát diệu đồng cung.

Cái Gì Gọi Là “Loại Hóa Của Sao”

Tinh diệu bởi vì các cung vị rơi vào, trong đó có một số là lục thân cung, một số cung vị có tính vật chất, cũng có một số cung vị có tính tinh thần, cho nên tính chất của sao nhất định cần tương ứng với cung vị khác nhau mà huyễn hóa ra hình tượng sự vật khác nhau để giải thích, này gọi là “Loại hóa”, cùng với hiện tượng nhân sự vật trong thực tế tương chiếu.

Vấn đề mà người hỏi mệnh đưa ra rất đa dạng hóa, tuyệt không phải mười hai cung với tinh diệu có thể bao quát hết được, ví dụ như: từng gặp có đánh mất một số tiền lớn mà đến hỏi có khả năng có thể tìm về được hay không, sư phụ nói cho họ biết có thể ở gần xung quanh chỗ tủ lạnh thử tìm một chút xem, quả nhiên là tìm được thật, xin hỏi tủ lạnh là viên sao nào đại biểu? Cái này đòi hỏi đến công năng của “Loại hóa”, lại có người hỏi người hướng dẫn giảng dạy cho họ không được tốt? Có thể làm cho ta thuận lợi tốt nghiệp được hay không? Xin hỏi là người hướng dẫn chỉ dạy thì là cung nào hoặc sao nào biểu hiện, vì thế trước tiên phải biết “Lập hướng” hoặc “Lập tượng” như thế nào, sau đó từ trong cung “Lập hướng” lấy ra tinh diệu tới loại hóa tìm được hình tượng sự vật nhằm giải thích cho người hỏi mệnh có thể hiểu được, cái này đương nhiên không phải là tùy tiện xem xét tưởng tượng tới loại hóa, mà cần phải thông qua thống kê thu nạp và phân tích tìm ra “Tinh diệu” cùng “Loại hóa” tương chiếu với vật hoặc sự tình đó. Ví dụ như rất nhiều người đều biết “Kình Dương” là đao giải phẫu, đây là loại hóa, thế nhưng lúc nào thì lấy “Loại hóa tượng” này để giải thích, ứng dụng thì nhất định phải căn cứ vào vấn đề mà người hỏi mệnh hỏi để từ trong mệnh bàn tìm ra cung vị “Lập hướng” rồi từ tổ hợp sao tọa trong cung tới “Loại hóa” thành sự vật sự việc trong thực tế để phân giải hình tượng sự vật sự việc. Cái này trong Tử Vi Đẩu Số là kỹ xảo cao cấp nhất, cũng là kỹ xảo trọng yếu rất hay thường dùng đến, công phu toán mệnh có linh hay không linh cũng phải xem xét đến điểm này.

Gần đây có gặp một vị độc hữu tương đối trẻ tuổi có “Bị người đe dọa, cướp lấy tiền của”, đến xin hỏi phải làm sao từ 12 cung trên mệnh bàn để xác định được cung vị nào xảy ra chuyện?

Có người thì nói nhìn xem có tổ hợp “nhân tài bị kiếp” là [Vũ Khúc Thất Sát Hỏa Tinh] hay không. Đúng! Đây là cách cục giựt tiền, nhưng cũng không phải là tổ hợp bị giựt tiền duy nhất, có một số là gặp phải đối tượng là lưu manh thái bảo ngẫu nhiên tìm tới gây án mà gặp phải, như vậy thì “Bị người khác giựt” với “Lưu manh thái bảo” thì rốt cuộc sao nào nó đại biểu là “Lưu manh thái bảo” chứ? Còn một số cũng có thể như là Dương Đà Hỏa Linh, còn có Thất Sát, Thái Âm Hỏa Linh tổ, Phá Quân, Thiên Đồng gặp Hỏa Tinh … Thật đúng là không dễ gì hiểu thấu đáo sự ảo diệu trong đó để tìm ra tổ hợp tinh diệu của lưu manh thái bảo, nhưng mà nếu biết chút bí quyết trong đó, là có thể “định” ra cung vị suy đoán cát hung, lúc này hiệu quả của Tử Vi Đẩu Số liền có thể được nâng cao rất lớn.

Tinh diệu chúng ta thường dùng tuy rằng chỉ có khoảng hơn ba mươi sao, phối hợp với 12 cung tới loại hóa cho ra được hình tượng sự vật cũng có 384 loại tổ hợp, thế nhưng tái phối hợp quá trình “thùy tượng – thành hình – thành sự” của Thiên Địa Nhân bàn còn có thể huyễn hóa ra càng nhiều hình tượng hơn. Bởi vậy, sự đam mê nghiền ngẫm của toán mệnh thường là mối quan hệ giữa suy nghĩ và suy nghĩ làm thế nào để phân loại thành những thứ phù hợp với tượng sự vật trong hình thái sinh hoạt thường ngày.

Khí Hóa Của Sao

Tinh diệu trải qua tác dụng của Thiên can tứ hóa, làm cho tính chất của sao biến đổi gọi là “Hóa khí”. Ví dụ như trong đàm luận cát hung khi Liêm Trinh nhập Mệnh hạn có: “Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, hóa thứ đào hoa, sát tù tinh, là chủ quan lộc ..”, nói đúng là Liêm Trinh sau khi “Hóa” có chứa tính chất đào hoa, trước khi không bị “Hóa” thì không có đào hoa hoặc có đào hoa nhưng loáng thoáng, rốt cuộc Liêm Trinh vì sao mà hóa vậy? Điểm mấu chốt nằm chính ở Thiên can, Thiên can Giáp làm cho Liêm Trinh hóa Lộc, Thiên can Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị, cả Giáp và Bính đều làm cho Liêm Trinh tinh “Hóa khí” mà huyễn hóa xuất hiện đào hoa nhiều lên. Nếu như cung Phu Thê chủ chưởng về tình cảm, Liêm Trinh hóa Kị là thiên hướng đầy đủ đào hoa nhục dục, bởi vậy dễ gặp họa vì tai tiếng tình dục hoặc quan phi, nên có nói là “sát tù tinh”, đây là tiếp cận vế đầu tiên; cũng là sau khi Liêm Trinh hóa Kị hiện tương mới có, sở dĩ Liêm Trinh hóa Kị trừ đào hoa ra còn sẽ có thể đụng phạm pháp luật, thậm chí không tốt còn bị phán tử hình, cho nên sao này sau khi hóa Kị ác tính rất là nghiêm trọng, nếu là nhân viên công vụ thì mệnh vận rất dễ gặp cảnh bị điều tra hoặc mất chức, nếu là người dân thường cũng rất có thể khẩu khí ẩn nhẫn không đủ mà phạm phải sai lầm lớn. Cho nên Liêm Trinh sau khi hóa Kị nói chung là hiện tượng khí hóa tương đối hung ác.

Mà Liêm Trinh hóa Lộc rất là có nhân duyên đào hoa, là thuộc về đào hoa thuần khiết đoan chính đứng đắn, không dẫn khởi hiện tượng quan phi hoặc thất trinh, trái lại là chính trực, người giữ gìn trật tự cương trực công chính, là người giám sát hoặc nhân viên chấp chưởng điều tra giám sát bên tư pháp. Cho nên hiện tượng “Hóa khí” nếu như là “Hóa Lộc” hoặc “Hóa quyền” hoặc “Hóa khoa” thì thường thuộc may mắn, một khi gặp phải khí hóa là “Hóa kị” sẽ làm cho mặt trái của “Tinh diệu” hiển hiện rất rõ, sao lại gọi là “Mặt trái” mà không gọi là “Ác tính” vậy? Nguyên bởi một số tinh diệu đặc tính mặt trái của nó không phải là ác, thí dụ như sao Thiên Đồng khi hóa Kị thì có hiện tượng hay lười nhác, ẩn nhẫn, không tích cực nhưng lại không làm ác, vì thế chỉ có thể gọi đặc tính “Mặt trái” của tinh diệu thôi. Cái hiện tượng “Hóa khí” này là căn cứ vào [Thiên can], xem người muốn suy đoán là tình cảm hay là sự nghiệp, thì lấy Can cung cung nhân sự tương ứng tới phi hóa, xem là sao nào hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Kị liền có thể huyễn hóa thành hiện tượng sự kiện, cho nên phải thuộc lòng thành thạo [Thiên can Tứ hóa biểu]. Còn có “Khí hóa” có tính chất tác dụng theo thời, khí hóa của đại hạn thì có hiệu quả tác dụng chủ quản trong mười năm, trải qua đại hạn đó thì mất đi hiệu lực, không giống như “Chất hóa” và “Dị hóa” không có hạn chế giới hạn về thời gian tác động, nó tác động đến cả đời giống như địa lôi mai phục trên con đường của nhân sinh, một khi đương sự đụng phải tức thời đã đến và đạp phải nó sẽ nổ tung.

Còn có “Hóa khí” có hiệu ứng tầng tầng tăng mạnh, Tứ hóa của Can cung cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên phi xuất lai sẽ từng tầng cường hóa tác lực, cát lực sẽ được tăng mạnh, hung lực cũng sẽ tăng cường. Bởi vì tác dụng của “Hóa khí” sẽ tùy Tứ hóa của cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hay lưu niên mà tăng giảm lực tác dụng, vì thế nó sẽ có “Thời kỳ phát tác” của nó, một khi tác dụng yếu bớt thì sẽ không phát sinh. Do đó, có thể dùng để kết luận thời kỳ phát tác của sự kiện, mà những cái như “Chất hóa”, “Dị hóa” lại không có được công năng này.

Cho nên một viên sao có bốn loại biến hóa diện hướng, các yếu tố liên quan đến việc tạo điều kiện cho sự thay đổi này đã được thuật ở trên, mong rằng độc giả suy nghĩ sâu xa được bí quyết ở trong đó, để có thể ứng dụng được thuận buồm xuôi gió.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để giải thích tình hình ứng dụng tinh diệu tứ hóa luận mệnh, những thứ khác không có quan hệ tới chủ đề này xin được tạm lược bớt đi.

Chủ nhân ví dụ này nói rằng:

Vào đầu năm năm 31 tuổi (năm Mậu Tý) người bạn trai qua lại với nhau đã được 12 năm rồi mà không hiểu tại sao lại mỗi người mỗi nơi, tình cảm sâu nặng, luôn lởn vởn trong đầu, ngày mùng 5 tết âm lịch thì tự sát, nhưng được Giáp tiên sinh cứu lên, trong những ngày tâm trạng xuống thấp Giáp tiên sinh vẫn luôn ở bên cạnh cổ vũ động viên giúp đỡ tôi, rồi có một ngày đột nhiên nói với tôi rằng: “Rất muốn được chăm sóc cô mọi lúc”.

Làm cho tôi có chút động lòng, nhưng hắn đã kết hôn, tuy rằng vợ chồng bọn họ lúc đó ở chung với nhau không êm thấm, lại vẫn có quan hệ hôn nhân bảo đảm, tôi không quan tâm nhiều danh phận nhưng lại rất sợ bị thương tổn lần nữa, không biết nên làm thế nào cho phải?

Những lời kể cặn kẽ mô tả quá trình tinh thần như mệnh lệ này cung cấp khá nhiều đầu đề nghiên cứu có thể dùng để tham khảo:

  • Vì sao cô ấy có đoạn tình cảm kéo dài được như vậy? Người bình thường thì nói chuyện khoảng ba năm là đã có kết quả rồi, là tinh diệu nào hoặc cái nhân tố gì trên mệnh bàn có thể cung cấp để cân nhắc xem xét sự biểu hiện của tượng này chứ?
  • Tinh diệu nào khiến cho đoạn tình cảm này tan vỡ nhanh vậy?
  • Vì sao tình cảm tan vỡ lại xuất hiện hành vi bản thân muốn kết thúc cuộc đời cơ chứ?
  • Vì sao khi tự sát lại có thể được giải cứu thoát khỏi hiểm nguy?
  • Tại sao sau khi được cứu vớt lại rơi vào lưới tình với người không hợp pháp vậy chứ?

Người viết chỉ là nhắc nhở mọi người nhằm vào mệnh lệ, phải từ trong lời tự thuật thông thường tìm ra bí kíp có thể nghiên cứu nhằm làm công lực của mình được nâng cao lên.

Trước tiên là nói về hiện tượng “Chất hóa”, cho nên trước đem tứ hóa năm sinh lược bớt đi, Thái Âm cư Hợi cung có thuyết “Dậu Tuất Hợi cung nhập miếu, Bính Đinh nhân tài quan cách, cát tinh chúng đại quý”, nhưng người này là người sinh năm Mậu, cũng không hợp tài quan cách, thế nhưng “Sao này thuộc Thủy, là chủ Điền Trạch cung, có phước lành, cung Mệnh có sao này tọa sáng lại có cát tụ tập, lấy hưởng phúc để luận”. Tuy rằng không hợp tài quan cách nhưng cũng có một phần được “hưởng phúc”, mà cung Hợi là Thủy vị, Thủy tinh nhập Thủy vị, thế Thủy càng vượng, “hưởng phúc” là đối với nam nhân thời cổ xưa mà nói vì thường nam nhân có tiền hay nạp thiếp. Nhưng mà thời hiện đại không như thế, huống chi là phụ nữ, vì thế Thủy vượng lại dẫn tới “tình cảm tràn động”, còn như “là người thông minh tuấn tú, tích cách đoan trang tao nhã thuần tường” cũng không cần luận nhiều đến bởi đây là chỉ đơn nhất Thái Âm tinh cư Hợi mà luận.

Thế nhưng còn có một sao quan trọng khác là Thiên Hình, vai trò không kém gì chủ tinh, ngũ hành thuộc Hỏa, [Hỏa] tinh nhập Thủy vị, đương nhiên bị giảm uy, “Thiên Hình thủ Mệnh Thân, không là tăng đạo, định chủ cô hình, không yểu thì nghèo”. Lại nói: “Hình cư Dần thượng tịnh Dậu Tuất, cánh lâm Mão vị tự quang vinh, tất ngộ văn tinh thành đại nghiệp,chưởng ác biên cương bách vạn binh”. Bởi vì là sao này chủ “vũ dũng, cô khắc”, nhưng mà không nhập vị trí miếu ở “Dần Mão Dậu Tuất” thì “vũ dũng” giảm đi mà “cô khắc” lại tăng lên, Thiên Hình kị nhất đồng cung với sao thuộc Thủy, huống chi còn lạc nhập Thủy vị! “Hỏa” tinh làm cho „Thủy” tinh bị giảm uy lực, lại còn bị cái mát của Thủy vị làm cho sức mạnh “vũ dũng” giảm đi. Cho nên tổ hợp Thái Âm với Thiên Hình sản sinh tác dụng “Dị hóa” mà có lời bình “Thiên Hình cư hãm địa được Nhật Nguyệt củng chiếu, cũng chủ phụ mẫu khí dưỡng, nhị tính duyên sinh, vi xướng tác tỳ, hoặc vi thiên phòng vi thiếp, chính thú phản nhi lợi phu tử” cùng với tính chất Thái Âm Hợi cũng có độ biến dị rất là lớn. Đương nhiên, chúng ta đem lời bình của cổ nhân áp dụng vào thời hiện đại thì cần có sự tu chỉnh cho thích hợp, thế nhưng nội hàm tinh thần trên cơ bản là bất biến. Vì thế mới có quá trình “Cùng với chồng người khác phát sinh cảm tình, muốn cùng chung với nhau bất kể danh phận” và “Hay là lấy làm vợ nhỏ” tương hợp.

Tiếp tục tới xem hành động “Khí hóa”, lúc này cần xem “Tứ hóa năm sinh” và “Tứ hóa Can cung”, cho nên trước tiên đem Tứ hóa năm sinh đới nhập.

Hóa Quyền tinh cư ở cung Mệnh: “Chưởng sinh sát chi thần, thủ Thân Mệnh, … hội Cự Môn Vũ Khúc, tất sự đại sự, chưởng ác binh phù, vi nhân cực cổ quái, đáo xử nhân dục kính; nữ nhân đắc chi, nội ngoại xưng ý”. Trên cơ bản, Hóa Quyền tinh cư Mệnh là người có cá tính kiên nghị, lòng tự trọng mạnh, cho nên “nơi nơi đều muốn người tôn trọng” nếu ngươi xem nhẹ hoặc đánh giá thấp lời của y, nhất định y không để ngươi yên. Thế nhưng, phía sau sự kiên cường ấy lại là yếu đuối, ngoài mặt nhìn như mạnh mẽ nhưng một khi gặp sự đả kích lớn phá đi lớp mặt nạ ấy thì y sẽ hiển hiện ra mặt yếu đuối, như nhất thời nghĩ không thông mà tự sát hoặc xung động mà làm chuyện ngốc nghếch … Bởi vì “Hóa Quyền” cũng có hàm ý hành động chấp trước, vừa nghĩ đến sẽ kiếm cách thực hiện, như nàng một khi gặp phải nam nhân yêu thích sẽ quyết một lòng theo hắn vài chục năm cũng không thay lòng đổi dạ.

Cho nên sợ nhất nó gặp phải chuyện xấu xung kích, bởi vì “Chất hóa và Dị hóa của Sao” đều hiển hiện tính chất “Mặt trái” của sao, tình cảm không như ý cũng rất dễ nghĩ đến “phá hủy bản thân”, huống hồ Can cung Phu Thê là Tân vừa lúc làm Văn Xương hóa Kị tới xung cung

Mệnh, làm cho Hóa Quyền tinh chuyển biến trở thành một loại năng lượng phá hủy bản thân, tại sao lại nói như vậy? Bởi vì lúc này Hóa Quyền tinh của cung Mệnh có hàm ý “sĩ diện chết”, cũng làm cho cô ấy miệng nuốt không trôi không buông bỏ được oán khí, mà “Thái Âm” của cung Mệnh cũng chỉ chính bản thân cô ấy, cung Mệnh bị xung rõ ràng là có sự bất lợi cho chính bản thân. Vì thế từ tượng “Khí hóa của Sao” đến xem, chỉ cần tình cảm (cung Phu Thê) không tốt sẽ dẫn phát mệnh tạo có ý nghĩ phá hủy bản thân mình, đó là một kết cấu mang hàm ý có tư duy lệch trong xử lý tình cảm ở cung Mệnh với cung Phu Thê.

Can cung Mệnh là Quý, làm Thái Âm tự hóa Khoa, có người nói Quý làm Thái Âm hóa Khoa mang tính đào hoa, quả thật không sai, thảo nào làm cho thương yêu “chồng của người phụ nữ khác”, nhưng cũng không thể quên nó cũng có tác dụng “gặp dữ hóa lành” cho nên khi tự sát được người khác giải cứu. Hơn nữa, Hóa Khoa tinh cũng có tác dụng “cứu giải” Hóa Quyền tinh làm giảm sự căng thẳng tăng hứng thú thư giãn; bởi thế sẽ đi tìm kiếm giải đáp, bất kể là mệnh lý, tôn giáo, hay là tâm lý học mà không phải là hỏi không rõ ràng lại chui đầu vào trong ngõ cụt. Bởi vậy, lúc này Thái Âm tự hóa Khoa đối với bản thân cô ấy (Thái Âm) là “Khí hóa” tinh rất có lợi, làm cho suy nghĩ xử sự thiên lệch có thể được chuyển biến dần dần tốt lên.

Mà “Loại hóa” của Sao đâu? Phía trước đã có nói nhiều lần, loại hóa “Thái Âm” tinh của cung Mệnh là phái nữ, là mẹ, là con gái, bản tạo là nữ nhân, cho nên có thể nói đây chính là bản thân cô ấy, mà Thái Âm hoá Khoa rõ ràng có nghĩa là “Hóa khoa” của chính cô ấy đã giải cứu được “mối nguy hiểm” của cô ấy và mang lại hiện tượng “Hoặc là lấy làm vợ nhỏ”.

Bởi vậy, khi giải thích mệnh bàn của một người thì độ sáng của tinh diệu chiếm vai trò quan trọng, và độ sáng này có bao hàm những biến đổi ẩn tàng từng tầng khác nhau của tinh diệu, mới có thể hiển hiện sinh động như thật sự đa dạng sắc màu cuộc sống của người. Tinh diệu tuyệt không phải là “cung Mệnh tọa sao nào cá tính ra làm sao”, đặc tính như vậy quá giản đơn, đó chỉ là kiến thức nhập môn cho người mới học Tử Vi Đẩu Số thôi, còn muốn đi sâu nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số thì phải hiểu rõ được tinh diệu đại biểu rất đa dạng sắc màu của cuộc sống, tinh diệu nhất định phải được trao cho các đặc tính nhiều tầng thứ khác nhau hoặc chủng loại khác nhau thì như vậy mới có thể bám sát tượng nhân sự vật trong sinh hoạt của con người. Lúc phân giải mệnh bàn thì cũng mới có thể lấy các hành vi hoặc sự vật trong cuộc sống để thuyết minh, mà sẽ không giống cổ nhân phê mệnh tổng hợp: “Phá Quân nhập miếu thế như sông lớn, chuyên quyền nắm giữ chấn chỉnh tám phương, Thất Sát cạnh cạnh (LC chú: nguyên văn là lăng lăng

  • ý chỉ góc do hai mặt phẳng tạo nên, cả Thất Sát với Phá Quân và Tham Lang luôn tạo thành thế tam giác trên đồ hình mệnh bàn) chủ chính lệnh, Tham Lang chiếu hợp được tương trợ, rõ ràng có sự tương trợ mà không thiên lệch, văn võ đều tài năng có thể ở bên phò tá …”, hành văn có vẻ tuy tốt nhưng ý nghĩa lại dễ làm người khác hiểu sai ý, làm cho người khác như trong sương mù, có xem mà không hiểu được.

Lúc sử dụng Tinh diệu, liên quan đến “Bốn loại biến hoá”, đây cũng là một loại quan hệ của “Tứ hóa”, đây là học tập thiên phú tinh diệu tuyệt đối không nên sao lãng, bốn loại biến hóa

này có sự tương hỗ như Biểu với Lý, cho nên không thể chỉ luận một loại “Miếu hãm lợi vượng” hay là “Tổ hợp tinh diệu”, mà còn phải chú ý đến hiện tượng “Loại hóa” và “Khí hóa” mới có thể làm cho hình tượng nhân sự vật được hiển hiện một cách rõ ràng, mà học tập tính chất của sao chính là phải biết bốn loại biến hóa: Chất hóa, Dị hóa, Loại hóa và Khí hóa của Tinh diệu.

Thức Mở Đầu Tứ Hóa Phi Tinh

Có rất nhiều độc giả gửi thư hoặc điện báo ngỏ ý mua “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích”, nhưng khi nhìn thì thấy phương thức phi hóa với ý nghĩa của tứ hóa còn nhiều chỗ cần phân giải, cho nên hiện tại dùng phương thức minh họa từng bước từng bước để giải thích.

Tứ hóa tinh chia làm: tứ hóa năm sinh, tứ hóa của các cung, tứ hóa đại hạn, tứ hoá lưu niên … mỗi một tứ hóa có sự phân chia thành từng cấp chưởng quản các sự kiện của giai đoạn đó có hiển tượng hay không, cho nên trước tiên phải nắm rõ được phương thức khởi phi và độ dài ngắn thời gian lực tác dụng có hiệu quả của những tứ hóa này.

*Tứ Hóa Năm Sinh

Trước tiên từ “Tứ Hóa Năm Sinh” nói tới, giả thiết có một mệnh bàn nam mệnh như hình trên, người này sinh năm Giáp Tý, bởi vậy căn cứ Thiên can Giáp của “Giáp Tý”, tìm theo bảng thập can tứ hóa thì biết Thiên can Giáp là Liêm Trinh hóa Lộc, thì tìm được Liêm Trinh trong mệnh bàn ở cung Điền Trạch, thì đánh dấu ở chữ Liêm Trinh (có thể dùng khung hoặc vòng tròn đều được); Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân thì ở Phụ Mẫu, thì cũng đánh dấu ngay chỗ sao Phá Quân ở cung Phụ Mẫu; Vũ Khúc hóa Khoa ở Tật Ách, đánh dấu ngay dưới Vũ Khúc; Thái Dương hóa Kị , Thái Dương ở Tài Bạch, ngay phía dưới Thái Dương tinh đánh dấu lại. Chú ý tứ hóa và vị trí tinh diệu không thể hỗn loạn lệch chỗ với nhau, nếu không sẽ không rõ được là sao nào tham gia tứ hóa, hơn nữa sao khác nhau hóa tinh sẽ khác nhau nên ý nghĩa cũng sẽ có sự khác nhau, bởi vậy hóa tinh nên viết ở chính xác vị trí phía dưới của tinh diệu mới là tốt!

Như vậy là có thể biết “Tứ hóa năm sinh” phi nhập vào cung vị nào và sao nào xuất hiện biến hóa, bởi vậy chúng ta có thể nói:

  • Hóa Lộc năm sinh nhập Điền Trạch
  • Hóa Quyền năm sinh nhập Phụ Mẫu
  • Hóa Khoa năm sinh nhập Tật Ách
  • Hóa Kị năm sinh nhập Tài Bạch

Cung vị mà Tứ hóa năm sinh rơi vào, đối với cung vị và sao ở bên trong đó sẽ sản sinh tác dụng “Biến đổi về bản chất”, đặc tính tinh diệu sẽ bởi “Khí hóa” mà bay hơi phát xuất khí “Cát” hoặc “Hung”. Khi vận đồ có sự bay hơi đó sẽ xuất hiện biến hóa, tập trung hướng đến mệnh bàn ví dụ trên, căn cứ vào cung vị Tứ hóa năm sinh lạc nhập có thể giải thích là …

  • Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch: biểu thị mệnh tạo rất lo cho gia đình, quan tâm đến các chuyện lớn nhỏ trong nhà.
  • Phá Quân Quyền nhập Phụ Mẫu: đối với cha mẹ nói chuyện thái độ tương đối thẳng thắn, tương đối sĩ, có lúc hơi to tiếng, nếu không có sự tu sửa thêm rất dễ almf cho người khác cảm thấy mình đối với cha mẹ bậc bề trên không biết lớn nhỏ, không có lễ phép.
  • Vũ Khúc Khoa nhập Tật Ách: dung mạo khi lớn lên nhìn không mập không ốm, hình thể cân xứng, không dễ nhiễm dính bệnh dịch, một khi bị bệnh tật dễ gặp được thầy giỏi thuốc tốt.
  • Thái Dương Kị ở Tài Bạch: tâm tư đều đặt ở tiền tài, làm sao dư tiền? Làm sao tiết kiệm tiền? Làm sao kiếm tiền? Dùng tiền có biểu hiện hay tính toán chi li, dùng tiền không hào phóng, tính toán tỉ mỉ chút một.

Hóa tinh do Thiên can năm sinh phi xuất ra có lực ảnh hưởng lâu dài, đối với mệnh tạo đều sẽ sản sinh tác dụng cả đời, tuy rằng ngày sau giáo dưỡng có thể cải biến đặc tính của người, nhưng trong tiềm thức vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tứ hóa tiên thiên, biểu hiện ở hành vi cử chỉ, mô thức tư duy … trong sinh hoạt hàng ngày.

Cái này giống như là thuyết pháp căn bản thông thường dễ gặp, còn cần đi sâu tham khảo thêm nữa.

Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch:

Có Thiên Phủ với Thiên Diêu đồng cung, với cung Điền Trạch mà nói thì tổ hợp Liêm Trinh, Thiên Phủ là cát lợi. Thiên Phủ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, người hiện đại làm về nông tương đối ít đi, có thể nói rằng điền địa có hiệu quả kinh tế rất cao, khi thêm Hóa Lộc càng tăng thêm năng lực có thể có hoặc nắm giữ bất động sản, có thể thấy được bản thân mệnh tạo có một sự quan tâm mạnh mẽ trong đầu tư về bất động sản, nhưng nó cũng cho thấy tình cảm dành cho gia đình của bản thân mệnh tạo rất sâu đậm, hiển rất rõ, đây là lấy Lộc năm sinh nhập Điền Trạch để luận. Thiên Diêu cũng nhập Điền Trạch, Thiên Diêu là sự vật tốt đẹp, là vật điểm tô cho đẹp hoặc trang sức, đại biểu sự bố trí ở trong nhà tương đối lộng lẫy, hoa văn thiết kế có thể là mời những nhà thiết kế nổi tiếng về thiết kế cho, mua các sản phẩm kỹ nghệ hoặc sản phẩm trang trí về làm đẹp cho căn nhà.

Còn như có thể có nhiều điền trạch hay không hoặc là vì đầu tư bất động sản mà kiếm tiền, do liên quan tới hành động đầu tư và sự tốt xấu của tài vận, nên cần tham khảo thêm các cung vị khác, không phải là chỉ nhìn Điền Trạch mà thôi. Đây chỉ là hàm ý của Hóa Lộc năm sinh nhập cung Điền Trạch.

Mà Can cung Điền Trạch là Mậu:

  • Tham Lang hóa Lộc ở Nô Bộc: Tham Lang là giao tế xã giao, biểu thị rất thích tiếp đón khách vào nhà, thích được chiêu đãi giống như đàm luận cổ phiếu hoặc đầu tư vậy (Tham Lang Hỏa Tinh), mọi người đều được hưởng lợi từ nhau (Hóa Lộc).
  • Thái Âm hóa Quyền ở Quan Lộc: Thái Âm là chủ điền trạch, hóa Quyền là thành tựu, bởi vậy sé đem nhà cửa thu xếp cho sạch sẽ gọn gàng liên tục làm cho người khác vừa nhìn thì tôn sùng người chủ của nhà này, sẽ rất chú ý nhà, quản lý trông nom việc nhà như thế nào cho ổn thỏa, bản thân nghe xong cũng sẽ rất đắc ý (Hóa Quyền).
  • Hữu Bật hóa Khoa ở Thiên Di: Hữu Bật là tình người, ở Thiên Di biểu thị vì quan hệ gia đình nhà mình mà ở bên ngoài có danh dự tương đối tốt.
  • Thiên Cơ hóa Kị ở Phu Thê: Thiên Cơ có hàm ý chỉ biến động với suy tính, bởi vậy vợ chồng đôi bên rất dễ vì chuyện trong nhà mà tính toán chi li, dẫn tới tranh chấp hoặc ẩu đả, vì thế khiến cho bên kia dễ ngoại tình.

Bởi vậy tổng hợp lại các điều thuật ở trên, có người vì sĩ diện mà mời đồng sự hoặc bằng hữu tới nhà ăn uống nhậu nhẹt, bàn luận trên trời dưới bể nhằm chứng tỏ bản thân rất có thành tựu, nhưng lại đem vấn đề dọn dẹp sạch sẽ cho phối ngẫu xử lý, kết quả là quan hệ vợ chồng bất hòa, thậm chí ly hôn, cái này là tổ hợp tứ hóa thôi!

Phá Quân Quyền ở Phụ Mẫu:

Có Lộc Tồn, Linh Tinh đồng cung, Phụ Mẫu phiếm chỉ những người có thể quản thúc ta như thầy cô giáo, cơ quan chính phủ, chủ quản công ty, người có vai ngang với cha của ta … Vì là Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân vốn có tính làm trái, Hóa Quyền càng tăng thêm dạng đặc tính làm trái, không cùng lòng với mình nữa này lên, cho nên khi tiếp xúc nói chuyện với bề trên thì giọng nói hoặc khí thế như muốn đem đối phương đè xuống, bởi vậy dễ làm xung quanh cảm thấy trong từ ngữ như không có tôn ti, không phân biệt lớn nhỏ, nói một câu chặn một câu, dễ lời qua tiếng lại với bề trên dẫn tới tranh chấp. Bởi vậy quan hệ đối đãi giữa bản thân với phụ mẫu cũng không tốt, Phá Quân là tinh diệu vốn chủ làm trái ngược, ý thức bản thân rất mạnh, cho dù cha mẹ yêu cầu rất nghiêm túc, cũng dám đối trị, vì thế thỉnh thoảng xuất hiện xung đột giữa cha con hoặc mẹ con dẫn tới khó có thể dự liệu được kết quả ví dụ như là rời nhà trốn đi hoặc lầm

vào lạc lối, nhưng mà đó là cha mẹ đối với ta là “hà khắc, ngược đãi” hay là “tình yêu thương sâu đậm, trách nhiệm thiết thực” đây? Sẽ khán Tứ hóa của Can cung cung Phụ Mẫu, đơn cử ví dụ mà nói như rất nhiều đầu đảng lão đại xã hội đen đối với con cái của mình vẫn là “Chỉ giới tình thâm” (LC chú: ý chỉ tình thâm nhưng giá trị như tờ giấy), đối với con cái mà nói thì khả năng của cung Phụ mẫu chính là tình hình tề tụ của các trưởng bối bề trên. Thế nhưng tứ hóa của Can cung Phụ Mẫu cũng phi bố (LC chú: phi là phi hóa, bố là bài bố) đến trong tam phương của mệnh bàn, thì có thể phán đoán tình cảm của phụ thân đối với hắn rất là sâu đậm.

Nhưng nếu Hóa Lộc ở cung Thiên Di thì lại có chút khiếm khuyết, bởi vì cha mẹ sẽ không có nhiều biểu hiện quan tâm thương yêu con cái ra bên ngoài mà chỉ len lén quan tâm cho nên con cái sẽ không cảm thụ được sự thương yêu của cha mẹ mà có hồi báo, sẽ khán Tử nữ Mệnh cung cung Can tứ hóa (LC chú: dòng này dịch nguyên văn, không rõ ý tác giả chỉ về việc khán ở hành hạn hay đang nói ở trên nguyên cục, nếu nói ở nguyên cục thì có điểm không được khớp về Can cung, độc giả lưu ý), như ví dụ này “Phá Quân Quyền, Lộc Tồn, Linh Tinh” thì cha nhất định là người rất quả quyết táo bạo, độc đoán độc hành, nhưng con cái thì lại vẫn hay tranh luận với cha mình.

Nhưng Tứ hóa của Can cung – Bính:

  • Thiên Đồng hóa Lộc  – lạc nhập Thiên Di àchiếu cung Mệnh.
  • Thiên Cơ hóa Quyền  – lạc nhập Phu Thê à chiếu Quan Lộc
  • Văn Xương hóa Khoa – lạc nhập Nô Bộc
  • Liêm Trinh hóa Kị– lạc nhập Điền Trạch

Hóa Lộc Hóa Quyền phi nhập “chiếu” tam hợp của cung Mệnh, bởi vậy tuy rằng cha mẹ đối với mệnh tạo tương đối nghiêm khắc, nhưng mà xuất phát từ tâm thái trách nhiệm thương yêu thiết thực mà không phải là ngược đãi. Đương nhiên, quan hệ giữa mệnh tạo với cha mẹ về sau tương đối gần gũi thân thiết, sẽ không vì cha mẹ nghiêm khắc đối với mình mà có sự xa cách, cái này là hiện tượng cát lợi.

Vũ Khúc Khoa ở Tật Ách:

Hóa Khoa năm sinh tiến nhập vào trong cung Tật Ách, đại biểu thân thể cá nhân lớn lên tương đối cân xứng, không cao không lùn không mập cũng không ốm, hơn nữa không dễ mắc bệnh, cho dù sinh bệnh cũng có thể khám và chữa trị đúng lúc mà khỏi bệnh, thời khắc nguy hiểm trí mạng kề bên cũng có thể chuyển nguy thành an, đây chỉ là hiện tượng có “Hóa Khoa” ở Tật Ách. Còn như tổ hợp sao tọa ở trong cung cũng có ảnh hưởng, ở ví dụ này: Vũ Khúc Khoa, Vũ Khúc là khí quản, cũng bởi hóa khí thành Khoa cho nên khí quản không dễ mắc bệnh. Đồng

cung còn có Thiên Tướng, Văn Khúc đều thuộc tinh diệu cát lợi, bởi vậy không dễ bị mắc phải tật bệnh ác tính khó trị liệu.

Thế nhưng hệ thống tiết niệu sẽ tương đối kém, hiển hiện ra ngoài chính là thường xuyên đi tiểu hoặc tiểu khó, cảm giác giống như rất khó loại bỏ sạch sẽ, đôi lúc cứ giọt giọt khiến hổ thẹn, đây chính là nhược điểm về thể chất do tiên thiên mang tới.

Can cung Tật Ách là Nhâm:

Khiến cho sao Vũ Khúc trong cung Tật Ách hóa thành Kị, mới vừa có nói qua Vũ Khúc chỉ khí quản, hóa Kị đương nhiên khí quản sẽ nhược hóa, có hiện tượng dị ứng mũi hoặc thở hổn hển, nếu đã có Hóa Khoa bảo hộ thì có còn mắc những chứng bệnh như thế hay không? Đáp án của ta là – có, không cách nào tránh được, bởi vì Vũ Khúc Hóa Khoa đã bị Vũ Khúc Hóa Kị phá hủy, trái lại còn làm cho bệnh tình càng khó trị liệu, đây là quan hệ tứ hóa có hàm ý “kéo dài dây dưa”, cảnh ngộ tốt cũng không được mà xấu cũng không đến nỗi chết, với sự khống chế trong phạm vi có thể, lại tật bệnh đeo bám nhiều năm, tạo thành sự quấy nhiễu phức tạp đối với cuộc sống của mệnh tạo mà thôi.

Thái Dương Kị ở Tài Bạch:

Kị tinh năm sinh có hàm ý khiếm khuyết, thiếu khuyết hoặc mong cầu chưa đủ, ở Tài Bạch đương nhiên sẽ biểu hiện ra những tính chất đặc biệt này, tỷ như vì là không có tiền cũng rất keo kiệt, hoặc mong cầu nhưng không đủ mà liều mình kiếm tiền, nhưng cuối cùng vẫn cảm giác mình không có tiền, đây là hàm ý được gọi là “Thiếu nợ Kị” của Kị năm sinh, thiếu nợ ở “Tài Bạch” nên phải nỗ lực kiếm tiền để trả nợ, bởi vậy khiến cho bản thân tận lực kiệt sức. Tiếp tục nhìn đến tính chất của sao thì Thái Dương chủ bác ái, Thiên Lương là thiện cho nên tiền tài của bản thân thì cam tâm tình nguyện vì người mà hao tổn ở phương diện phụng sự hoặc làm việc thiện, là “mang tiền của mình đi giúp đỡ người khác”. Hơn nữa Thái Dương chủ nam nhân, là phu tinh, mà mệnh tạo lại là nam nhân, cho nên tiền tài bản thân kiếm được không nhiều lắm hoặc vì tiêu xài nhiều mà hết, khả năng chi phối vận dụng tiền tài của bản thân không nhiều, cũng có khả năng tiền tài của bản thân bị người thân là nam giới phá. Vì thế gặp phải người thân thuộc là nam giới tới vay tiền thì phải đặc biệt coi chừng, làm theo khả năng, không nên để tài lực bản thân bị thương tổn.

Tiếp tục tới nhìn tứ hóa của Can cung là Quý thì:

  • Phá Quân hóa Lộc nhập cung Phụ mẫu
  • Cự Môn hóa Quyền nhập cung Thiên Di
  • Thái Âm hóa Khoa nhập cung Quan Lộc
  • Tham Lang hóa Kị nhập cung Nô Bộc

Hóa Lộc, Quyền, Khoa cũng không có hình thành nên góc độ tam hợp cho nên tác dụng là nhỏ, sự trợ giúp đối với bản thân không lớn, mà Tài Bạch hóa Phá Quân Lộc nhập Phụ Mẫu, mà phụ mẫu là gì vậy? Đem Nô Bộc coi như cung Mệnh thì Phụ Mẫu chính là cung Tài Bạch của Nô Bộc, mà Tài Bạch của ta hóa Lộc tiến nhập Tài Bạch của Nô Bộc, hàm ý chính là “tiền tài của ta tiến nhập vào túi của bạn bè” mà Tham Lang hóa Kị lại ở Nô Bộc cũng có hàm ý là tiền tài bay đến chỗ bằng hữu, đem hai loại tứ hóa này tổng hợp lại để đồng thời khán, tại sao phải tổng hợp để khán? Bởi vì “Lộc tùy Kị tẩu”, tiền mang cho bằng hữu có đôi khi được hồi báo rất hậu hĩnh, thế nhưng ở ví dụ này thì phi hóa Lộc hóa Kị đều ở cung Nô Bộc và cung Tài Bạch của Nô Bộc, rất rõ ràng tiền tài đều đến phía bằng hữu, nếu dùng từ để giải thích phù hợp theo hiện tượng xã hội nay hàm ý chính là bị “Lừa đảo”. Bởi vậy, qua lại với bằng hữu có liên quan về tiền bạc phải đặc biệt coi chừng cẩn thận, tránh tường hợp tiền không có mà bằng hữu cũng mất. Vì thế có bằng hữu tới vay tiền thì nên thoái lui, hoặc là chỉ cho mượn chút ít thôi, tránh cho hao tổn tới mức quá nặng.

Phía trên đây là nói về quan hệ của tứ hóa năm sinh và tứ hóa cung vị tiên thiên, vận đồ đại hạn cũng sẽ cùng với tứ hóa cung vị tiên thiên và tứ hóa năm sinh hình thành góc độ “hiệu

ứng” sản sinh ra loại phản ứng nào đó, đây là biến hóa của “vận đồ”. Mệnh bàn tiên thiên là thùy tượng, là đặc điểm bẩm sinh, khi còn nhỏ thì tuân theo khuôn phép của trẻ nhỏ, sau khi lớn lên phần nhiều vẫn là tuân theo pháp luật, khi còn bé có thể bướng bỉnh gây sự, sau khi lớn lên đại để phần nhiều dễ vi phạm pháp luật hơn. Bất quá cũng không dám nói, cũng có một số ít chuyển biến, cho nên tiên thiên mệnh chính là quan sát mức biến hóa của vận đồ tương lai, ở Đẩu Số xưng là “thùy tượng”.

*Tứ Hóa Đại hạn:

Vận đồ chính là cung Mệnh đại hạn chuyển động mà 11 cung vị khác cũng theo đó mà chuyển dời mà hiện tượng khởi phục tiêu trưởng các hạng sự vật được sản sinh, cái này phải thông qua quan hệ giữa mệnh bàn đại hạn và mệnh bàn tiên thiên để quyết định trạng thái “khởi phục tiêu trưởng”, cho nên trước hết phải đem mệnh bàn tiên thiên y theo đại hạn chuyển dời thành đại hạn bàn cục, phải chuyển dời như thế nào chứ?

  • Quyết định là “âm nam dương nữ” hay là “dương nam âm nữ”, nếu âm nam dương nữ thì chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ, nếu dương nam âm nữ thì chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Xem Thiên can năm sinh là gì: các can Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là can dương, các can Ất Đinh Kỉ Tân Quý là can âm, ví dụ như người nam sinh năm Giáp Tý thì can trong đó là dương cho nên là dương nam và đại hạn sẽ theo chiều thuận của kim đồng hồ mà chuyển dời.
  • Quyết định thời điểm bắt đầu và kết thúc một đại hạn: xem mệnh bàn thuộc cục số nào, như ở ví dụ trước có nói là Thủy nhị cục, cho nên bắt đầu từ 2 tuổi, mỗi khi gặp 2 thì đổi đại hạn, như 2 ~ 11 tuổi là đại hạn thứ nhất, 12 ~ 21 tuổi là đại hạn thứ hai, 22 ~ 31 tuổi là đại hạn thứ ba … còn lại cứ loại suy thôi.

Như ở ví dụ người nam ở phía trước sinh năm Giáp Tý (1984) đến năm Mậu Tý 2008 là được 25 tuổi tính cả tuổi mụ, cho nên cung Mệnh đại hạn đã tiến vào cung Mão, bởi vậy đại hạn bàn cục thứ ba trở thành một mệnh bàn mới.

Để có thể vừa xem thấy ngay, giảm thiểu phức tạp, đại hạn mệnh bàn chỉ giữ lại ba cung là cung Mệnh đại hạn, Quan Lộc đại hạn và Tài Bạch đại hạn, còn lại toàn bộ bỏ bớt đi không viết, nhưng không phải không chọn dùng, như khán vận đồ tử nữ thì vẫn phải mượn dùng cung Tử Nữ đại hạn.

Tứ Hóa Của Các Cung Vị Đại Hạn Bàn:

Trước tiên nói rõ tứ hóa đại hạn bàn cục phải phối hợp với tứ hóa tiên thiên bàn cục, xem xét góc độ hình thành giữa chúng để quyết định cát hung. Vì hóa thì nhiều cho nên chỉ nói giản lược về hóa cung Mệnh, 11 cung vị khác có thể phỏng theo phương thức này, tham khảo sách này hoặc trong “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích” có tiết lộ về kỹ thuật và ví dụ luyện tập tương tự.

Đầu tiên, trước quan sát tình trạng tổ hợp tinh diệu của tam hợp cung Mệnh đại hạn, xem có hóa tinh năm sinh tiến nhập hay không, liền có thể nắm được đại khái tình hình đại hạn.

Như cách cục ở Mão hạn của ví dụ này: cung Mệnh đại hạn có Kình Dương tọa, đối cung có Thái Dương Kị, Thiên Lương, Kình Dương của cung Mệnh thì cũng cho thấy ở đại hạn này dễ gặp tai họa đến bất ngờ, lại gặp phải Thái Dương mà Thái Dương chủ nam cũng chủ quan lộc. Vì thế đại hạn này sự nghiệp tất sẽ dễ gặp chèn ép hoặc trắc trở hoặc dễ gặp phiền phức với quan trên dẫn đến không thuận lợi lên chức giành được trọng dụng; bản thân cũng phải cẩn thận chú ý kẻo thương tổn, cả hai sự việc lớn này đều sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự bình thuận của vận đồ đại hạn này. Đặc biệt Thái Dương vì là Kị tinh năm sinh cho nên mười năm vận đồ của đại hạn này đều sẽ bị ảnh hưởng,

Mệnh bàn Đại hạn

Đại cục một năm vận đồ tùy tổ hợp tinh diệu đại khái cũng có thể sáng tỏ được năm sáu

Trở lại lấy Thiên can Đinh cung Mệnh đại hạn phi tứ hóa:

  • Thái Âm hóa Lộc nhập Quan Lộc nguyên cục (Phúc Đức đại hạn)
  • Thiên Đồng hóa Quyền nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)
  • Thiên Cơ hóa Khoa nhập Phu Thê nguyên cục (Tài Bạch đại hạn)
  • Cự Môn hóa Kị nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)

Cung vị mà những hóa tinh này phi nhập là cung nào đó trên mệnh bàn tiên thiên lại là cung vị đại hạn sau chuyển dời, vậy phải lấy cái nào làm chuẩn?

Đương nhiên, phải lấy tiên thiên mệnh bàn làm chuẩn, nhưng có một số trường hợp đặc biệt lấy đại hạn bàn làm chuẩn, trước nhớ kĩ, “tứ hóa đại hạn phải hóa nhập tiên thiên mệnh bàn” mới tốt, đối tượng của “hóa nhập” này bao gồm bốn viên hóa tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kị. Chỉ có Lộc, Quyền hóa nhập tiên thiên mệnh bàn, khí thế tương đối ảo, không qua nổi bấp bênh thăng

trầm, một khi gặp phải suy bại thường thường những thứ sở hữu đều tổn hao, không có cách nào khác bảo tồn. Giả như chỉ có Lộc, Khoa hóa nhập mệnh bàn là “tiền văn nhã”, như dựa vào thanh danh của kỹ nghệ chuyên môn nào đó để kiếm tiền, hoặc là tác gia nổi danh … Mà hóa Quyền, Khoa nhập tiên thiên mệnh bàn, chính là dựa vào năng lực chuyên môn để kiếm tiền, nhưng khổ cực hơn so với tổ hợp Lộc, Khoa; với Lộc, Quyền, Khoa mà nói khi gặp phải ngăn trở xung kích thì vì có Khoa tinh bảo hộ cho nên có thể hóa giải nguy nan, vượt qua cửa ải khó khăn. Nếu là tài vận sẽ không đến nỗi phải bồi thường sạch trơn, túi trống rỗng như lúc đi tắm, chí ít còn có thể bảo tồn nguyên khí, chờ mong tương lai có cơ hội chuyển biến thừa cơ gây dựng lại.

Tại sao viết hai cái Lộc chồng lên nhau vậy? Bởi vì tứ hóa của cung Mệnh đại hạn và cung Mệnh tiên thiên vừa vặn trùng điệp ở một chỗ, vốn có tác dụng “gia thừa”, tốt xấu đều sẽ gấp bội, Hóa Kị của cung Mệnh tiên thiên và hậu thiên đều ở cung Thiên Di, hình thành “Kị xung cung Mệnh”, cũng chính là bàn cục có cách “Hóa Kị của cung Mệnh đại hạn tới xung cung Mệnh tiên thiên”, mà “cung Mệnh tiên thiên hóa Kị nhập cung Thiên Di” hình thành “Song Kị xung Mệnh”,

bởi vậy, một viên Kị tinh xung Mệnh có chút phiền phức nhưng còn có thể chịu đựng được, nhưng hai viên Kị xung Mệnh thì phải cẩn thận, rốt cuộc là phải cẩn thận “chuyện gì” đây chứ? Nếu là “xung cung Mệnh” đương nhiên có tương liên đến sinh mệnh của ta rồi, làm không tốt sẽ có nguy hiểm tới tính mệnh, mà cung Mệnh đại hạn là cung Phúc Đức tiên thiên, trong đó cung Phúc Đức nó chủ chưởng trạng thái tinh thần của cá nhân cho nên là bởi vì trạng thái tinh thần mà nguy hiểm tới tính mệnh, các vấn đề về trạng thái tinh thần ví dụ như tự sát, làm chuyện điên rồ, ma quỷ nhập thân, bệnh tâm thần … Như ở ví dụ này mệnh tạo là vì mắc chứng u buồn mà có khuynh hướng không biết thương xót bản thân mình, nhưng mà Hóa Lộc, Quyền, Khoa của mệnh tạo khá tốt đều tập trung ở tam phương mệnh cục vì thế có tác dụng gặp dữ hóa lành, hai lần định tìm đến tự tử đều được người phát hiện hoặc tìm người khác thổ lộ hết mà giải tỏa giác ngộ được.

Cho nên những cái khác như “Thiên Cơ hóa Khoa, Thái Âm hóa Lộc” hội chiếu ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, Thiên Đồng hóa Quyền ở Thiên Di đều ở trong tam phương tứ chính của cung Mệnh, đại biểu khí thế của cung mệnh còn rất cường vượng, vì thế mặc dù có Cự Môn Kị xung, vẫn có tác dụng bảo hộ, nếu như không có ba tam cát hóa tinh này nhập trong tam phương tứ chính cung Mệnh, như vậy người này cũng rất có khả năng “hồi khứ” rồi. (LC chú: hồi khứ ý chỉ sự quay trở về, trở lại, có thể có rồi mất, lên cao rồi rơi xuống …)

Mệnh lệ này tại sao lại mắc chứng u buồn vậy? Cái này phải xem hóa tinh, tới xung cung Mệnh chính là “Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị”, Thiên Đồng hóa Quyền là muốn “Có biểu hiện, không chịu thua kém, nơi nơi đều muốn cầu hoàn mỹ” còn Cự Môn hóa Kị chính là “Khẩu thiệt thị phi, lời đồn chuyện nhảm”, cho nên trong công tác đều rất nỗ lực chăm chú nhưng kết quả lại nghe được một số lời châm chọc chê cười, vì thế mới mắc chứng u buồn, trải qua trị liệu dược lý với tâm lý nhằm kiềm chế mới có thể từ từ hồi phục.

Như vậy góc độ hình thành của tứ hóa đại hạn ở ví dụ này ở mệnh bàn tiên thiên có phải là cách cục “Tam kỳ gia hội” hay không vậy? Cũng có thể coi là cách này, nhưng lại không có cách “Tam kỳ gia hội” của tiên thiên tới tương hỗ chiếu rọi, chỉ có đại hạn thành cách mà thôi, khó coi là “cát tường” được, chỉ bất quá làm cho y ở đại hạn này bình ổn một chút mà thôi, cho nên mắc chứng u buồn còn có thể đi đến bác sĩ khám và chữa bệnh, không phải đại hạn cung Mệnh độc tọa một viên sát tinh Kình Dương lắm khả năng sẽ áp dụng thủ đoạn phá hủy bản thân.

Bởi vậy, “Tứ hóa đại hạn phải chiếu xạ đến Mệnh bàn tiên thiên” xem có hình thành góc độ đặc thù :

  • Tam kỳ gia hội
  • Xung
  • Chiếu
  • Hội
  • Nhập

hay không, mới có thể xuất hiện hiệu ứng “Cát hung”, đương nhiên còn cần xem xét cân nhắc nhân tố “Tổ hợp tinh diệu” mới có thể, không được phép chỉ nhìn một nhân tố liền võ đoán quả quyết, người viết vẫn hay nhấn mạnh phải “tổng quan toàn cục” thì mới có thể “khái quát toàn cảnh”.

Người viết từng thấy trong một cuốn sách có nói rằng “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Đại hạn bàn cục” tới quan sát cát hung, này là sai lầm, đại hạn bàn là một bàn mượn dùng một đại hạn chuyển dời, toàn bộ đại hạn bàn cũng chuyển dời theo đó. Tiếp tục căn cứ quy tắc suy lý “Thiên địa nhân” bàn, đại hạn bàn trưng tượng đột hiển sẽ ứng nghiệm ở “Lưu nguyệt”, cho nên chuẩn xác mà nói thì phải là “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Lưu niên bàn cục” mới đúng. Quan sát đại hạn tứ hóa có hình thành góc độ hiệu ứng “Tam hợp, xung, chiếu, hội, nhập” có ở lưu niên bàn cục hay không, thì mới có thể suy đoán tiếp lưu nguyệt ứng nghiệm. Bởi vậy nếu không biết quan hệ ở trong đó, một cung có ba tầng ý nghĩa: cung tiên thiên bàn, cung đại hạn bàn, cung lưu niên bàn, nếu không nắm được quan hệ “Phụ thuộc” trong đó, cũng không biết phải tách xuất ra từng tầng để phán đoán suy luận cát hung.

Bởi vậy đại hạn là một trạm kiểm soát trọng yếu, nó muốn hướng lên tiên thiên tiếp nhận thùy tượng sự vật để sau đó giao cho lưu niên để hiển hiện tượng nhân sự vật của sự kiện.

Mệnh bàn Lưu niên

Nếu như trạm kiểm soát này mất liên lạc thì “Sự kiện” không cách nào có thể hình thành được, vì thế mỗi mười hai năm đi qua cái cung đó không nhất định sẽ phát sinh “sự kiện”. Mà là đại hạn đòi hỏi phối hợp mới có thể thành sự, đại hạn là một trạm chuyển tiếp dẫn dắt trọng yếu, khai triển công năng xe chỉ luồn kim làm cho sự kiện từ thùy tượng mà thành hình thành sự một mạch tương thừa, sự kiện mới phát sinh. Vì vậy, trọng điểm phải quan sát của tứ hóa của đại hạn bàn cục là:

  • Một: đại hạn và tiên thiên bàn cục có hình thành góc độ đặc thù gì không?
  • Hai: nếu như có hình thành một góc độ đặc thù của sự việc hạng mục nào đó mà có khả năng ứng nghiệm thì tra xem quan hệ của đại hạn bàn cục và lưu niên bàn cục để tìm ra năm ứng nghiệm.

*Lưu Niên:

Phi bố Lưu niên Tứ hóa Mệnh bàn

Như vậy thì “Lưu niên” lúc suy luận mệnh bàn thì nó có vai trò gì? Tứ hóa có hiệu lực và tác dụng gì không? Thông thường người ta khi toán mệnh thường hay phân giải cát hung lưu niên, căn cứ quy tắc suy luận Tử Vi Đẩu Số là từ “Tiên thiên mệnh bàn” để khởi điểm “Đại hạn mệnh bàn” làm trung gian dẫn dắt quan hệ “Xung chiếu hội nhập” làm chất xúc tác để dẫn phát sự kiện mà ứng nghiệm trong “Lưu niên bàn cục”. Cho nên lưu niên bàn là một “Thụ thể” tiếp nhận góc độ đặc thù hoặc sự diễn hóa tính chất của tinh diệu ở trên tiên thiên và đại hạn mệnh bàn mà làm cho sự kiện xuất hiện. Bởi vậy, giai đoạn lưu niên chủ yếu là quan sát góc độ hình thành của tứ hóa giữa tiên thiên với đại hạn bàn mà suy đoán lưu niên ứng nghiệm, do đó vai trò của lưu niên đã trở nên rất rõ ràng.

Tuy nhiên chưa chắc nó đã hoàn toàn là như vậy, bởi vì góc độ mà tứ hóa cấu thành của tiên thiên với đại hạn bàn nó không chỉ đơn giản có “Tam kỳ gia hội, xung, chiếu, hội, nhập” thôi, còn có một số không thể hoàn toàn quy nạp vào năm loại góc độ đặc thù này, lúc này cần ánh tượng của “Tứ hóa lưu niên” tới đột hiển sự kiện, lúc này cũng giống như Cung Can khởi phi tứ hóa của Cung “Lập tượng”, xem xem góc độ phân bố trên mệnh bàn có hình thành các góc độ với tiên thiên hoặc đại hạn hoặc tứ hóa đã thuật ở trên hay không nhằm quyết định xem hiện tượng là cát hay là hung.

Như ví dụ người sinh năm Giáp Tý thuật ở trên, năm 22 tuổi (năm Hợi) vừa lúc tiến nhập vào tuyến có Thiên Cơ hóa Khoa và Thái Âm hóa Lộc, cũng là tuyến Quan Lộc – Phu Thê, cái này nó đại biểu hàm ý gì? Biểu hiện trong lòng hắn muốn có thành tích về phương diện sẹ nghiệp, một loại tư duy muốn có biểu hiện; thế nhưng Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị

  • cung Thiên Di lại xung đến cung Mệnh, cũng là vị trí cung Phúc Đức của lưu niên năm 22 tuổi, mà Thiên Đồng và Cự Môn có hàm ý có sự tự mâu thuẫn. Hơn nữa cung Mệnh còn có Đà La tinh cũng là tinh diệu nhìn trước ngó sau, do dự không quyết, rất muốn thể hiện nhưng lại do dự, đó không phải là tự tìm khổ não hay sao? Bởi vậy tình huống như này dễ mắc chứng u buồn.
  • ví dụ này mà nói thì lưu niên Hợi chỉ là tiếp nhận kết quả của tiên thiên với đại hạn, mà ứng nghiệm ở năm Hợi, mà hoàn toàn không cần phải đi xem xét tứ hóa năm Hợi rốt cuộc là phân bố ở tiên thiên bàn cục hoặc lưu niên bàn cục.

Nếu muốn phi bố lưu niên Mệnh cung tứ hóa cũng có thể làm cho bàn cục thêm rõ ràng:

Dùng hình bát giác đóng khung ở chính chỗ tứ hóa lưu niên (LC chú: ở đây tác giả dùng hình bát giác để làm dấu phân biệt tứ hóa lưu niên, còn chúng ta có thể tùy chọn dùng hình hoặc kí hiệu khác nào đó để phân biệt cũng được), bởi vì mệnh bàn quá nhỏ cho nên đem Lộc và Kị của Thiên Cơ với Thái Âm viết sang hai bên trái phải, sau khi cộng thêm vào thì càng nhìn ra rõ ràng mâu thuẫn Lộc Khoa Kị ở trên tuyến Quan Lộc – Phu Thê này. Rất nhiều người sẽ vì cái này mà không biết rõ là pahir giải thích hiện tượng này như thế nào. Trước tiên, cung Mệnh là trạng thái nội tâm của “Ta”, hóa Lộc Quyền Khoa Kị của tiên thiên cùng đại hạn của “Ta” đều ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, biểu thị bản thân rất có lòng có ý thức trách nhiệm với sự nghiệp, nhưng mà Thiên Đồng hóa Quyền tại Thiên Di chủ về muốn thể hiện để giành được sự tôn trọng hoặc được coi trọng lại có một viên Cự Môn hóa Kị tinh làm cho những lời thủ thỉ hoặc lời đồn chuyện nhảm gây tổn hại đến danh tiếng khiến “Ta” canh cánh trong lòng sự nghi ngờ, đối với bản thân có áp lực rất lớn. Cho nên đây là hiện tượng “mong muốn được thể hiện mà đồng sự lại ngầm hãm hại mà dẫn đến tinh thần gặp áp lực khiến sự tình thêm phức tạp”,

Hiện tại hóa Lộc Quyền Khoa Kị của lưu niên cũng phi nhập vào trong tam phương mệnh bàn tiên thiên; Thiên Cơ hóa Lộc của lưu niên ở Phu Thê, Thái Âm hóa Kị thì ở Quan Lộc, bàn cục xuất hiện “Lộc – Kị giao xung” làm cho “tinh thần áp lực khốn nhiễu” đã nói phía trước cộng thêm chất xúc tác từ Thái Âm hóa Kị càng làm cho lực ảnh hưởng tăng mạnh thêm khiến cho “Ta” không chịu nổi mà phá lên. Lúc này sẽ xin thầy thuốc giúp đỡ, như thế trong lưu niên bàn cục có thể nhìn ra cái chất xúc tác này từ đâu đến đâu không? Đương nhiên có thể, chẳng phải Tử Vi Đẩu Số muốn “Xu cát tị hung” giúp người đó sao, đương nhiên phải tìm được “nguồn khởi điểm tai họa” mới có thể nhắm đến mục tiêu cải sửa, không phải là xin giúp đỡ “Khai vận giới” hay “Đổi vận thạch” một cách mù quáng là có thể có hiệu quả! (LC chú: khai vận giới với đổi vận thạch ở đây theo từ gốc thì ý chỉ những lời răn cấm, sự phòng bị chưa hẳn đã khai mở được vận, đeo vòng đá chưa chắc đã chuyển được vận hoàn toàn) Trước tiên căn cứ vào tâm lý học mà nói, căn cứ vào thống kê cho thấy một cá nhân bị hai loại stress cũng một lúc biểu hiện thường rất thống khổ và thường rơi vào trạng thái suy sụp, còn nếu như mà chịu tới ba loại áp lực khiến stress thì sẽ không cách nào chịu đựng được mà dẫn đến sụp đổ. Như ở ví dụ này thì mệnh tạo phải chịu hai loại áp lực: áp lực công việc và áp lực trong quan hệ nhân tế với những người cùng trang lứa, lúc này rất cần có sức mạnh từ bên ngoài tới trợ giúp để vượt qua cửa ải khó khăn. Thế nhưng Thái Âm hóa Kị lại đóng vai trò như “làm một cọng rơm cuối cùng để nghiền nát lạc đà”, làm cho y suy sụp; Thái Âm là nữ nhân mà đóng ở Quan Lộc tức xung đến Phu Thê, còn mệnh tạo lại là nam nhân nên đây là hiện tượng bạn bè trai gái dễ biệt ly. Vốn dĩ bạn gái cũng đã cổ vũ tinh thần để chống chọi với kỳ vọng khá cao, cho nên trong công việc khi gặp phải các loại áp lực vẫn còn có người để trút bầu tâm sự nên cũng được an ủi giảm bớt phần nào áp lực trầm trọng ấy. Bởi vậy, Thiên Cơ hóa Lộc nhập Phu Thê này biểu thị cái năm này đối với bạn gái đặc biệt tốt, có lòng muốn bạn gái thành đối tượng để kết hôn nhưng lại gặp phải kết quả trái ngược, ở vào loại tình cảnh này có mấy người không suy sụp đâu chứ!

Sở dĩ, thêm tứ hóa lưu niên càng làm cho mức “cụ thể hóa” ánh tượng “nhân sự vật” càng thêm rõ ràng, khiến chúng ta càng có thể nắm được điểm mấu chốt sự kiện phát sinh, rồi sau đó mới có thể căn cứ đó để cải thiện mệnh vận mà không phải là loạn cải vận một lần, cho nên đối với những tuyên bố có thể “Sửa vận, khai vận” gì đó thực khó có thể tán đồng.

Không tìm được điểm mấu chốt ở đâu có thể nào sửa vận, nó cũng giống như bệnh ung thư dùng hóa liệu cũng như thuốc đạn bắn chim, đem tế bào tốt xấu đều giết hết, giết được các bệnh tật mắc phải thì bản thân cũng hấp hối, điều tốt hơn là sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu mới nhất để có hiệu quả.

Sau khi ra sách có một số độc giả đi tìm hỏi mệnh lý, có vị bác sĩ phu nhân có đến hỏi vận đồ của chồng như thế nào? Vừa nhìn đã nói phải cẩn thận khoảng dịp Tết nguyên đán sức khỏe thân thể dễ xảy ra vấn đề, cũng đặc biệt dặn dò phải đi cùng ở bên cạnh anh ấy. Đối phương lại đáp lời rằng chồng cô ấy là bác sĩ ngày thường rất chú trọng chăm sóc thân thể, chắc sẽ không sao đâu! Nhưng ngó trái ngó phải còn chưa có vừa ý, thế là có viết rõ tháng một của năm cần chú sức khỏe ấy lên mệnh bàn, nào ngờ trước Tết nguyên tiêu năm ấy có nhận được điện thoại và nói rằng đã xảy ra chuyện. May thay còn có cô ấy đi cùng, vừa nhìn thấy không ổn liền nhanh chóng tự mình lái xe đưa đến bác sĩ. Nếu không, giống như bộ trưởng chưa kịp nhậm chức đã khuất bóng, có cứu cũng đã quá muộn. Mà tại sao lại phải nhắc nhở “cô ấy” bất luận thế nào đều phải đi cùng bên cạnh anh ấy, chính là trên mệnh bàn nhìn ra kiếp số của hắn do người nào đó đến giải trừ mà đặc biệt nhắc nhở, mà cô ấy cũng có thể loại bỏ khó khăn khi ở bên cạnh mà nguy cơ được hóa giải.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để thuyết minh!

Mệnh tạo này cung Mệnh tọa Vũ Khúc, Thiên Phủ, Hỏa Tinh gặp Thất Sát ở đối cung hình thành “Vũ Khúc, Thất Sát, Hỏa Tinh” là cách cục “nhân tài bị kiếp”, tựa hồ rất bất lợi về tiền tài, nhưng giả như có lòng thiện tâm đem tiền quyên góp đi cứu giúp người, bản thân trở nên nghèo khó thì có là tiền tài bị cướp không? Liệu có thể phá giải ác cách “nhân tài bị kiếp” này hay không, lúc ở đại học hắn có thi đỗ công chức thì nó có liên quan đến Cự Môn Quyền tọa ở cung Quan Lộc ở đại hạn thứ hai làm cho hắn đọc sách học tập có thành hay không?

Trước tiên, bắt đầu phân tích từ mệnh cách bản mệnh:

Nếu đã biết hắn “quyên góp số tiền đáng kể” chúng ta có thể thông qua “nghịch hướng công trình” để truy tung manh mối hiển hiện trong mệnh bàn, loại dấu vết manh mối này không ngoài sự tồn tại quỹ tích của “tứ hóa phi tinh” với “tổ hợp tinh tính”, cẩn thận tỉ mỉ phối hợp với nhau nhất định có thể lần theo dấu vết tìm ra bí mật ẩn tàng.

Phương pháp suy đoán của bằng hữu ở những môn phái khác cũng có thể muốn tính toán sự khác biệt trước tiên, tuy trong đó có sự tương đồng nhưng cũng có khác biệt.

Mệnh bàn có 12 cung, hành vi quyên hiến là phải xem ở cung vị nào đây? Cho nên tất cần phải lý giải thấu triệt suy đoán mà 12 cung chủ chưởng mới có thể tìm ra cung vị tương ứng. Nói chung, hành vi “quyên hiến” cho công chúng không chỉ định là khán “Phúc Đức” hoặc “Nô Bộc”, nếu lấy tiền cho “người trong nhà” thì do cung cần tới đại biểu, như đem cho con cái thì khán cung Tử Nữ.

Hành vi phụng hiến không vụ lợi loại này của mệnh tạo, thì có quan hệ không nhỏ đến cung Phúc Đức. Tham Lang vốn chủ dục vọng, nhập Phúc Đức chắc là yêu tiền tài hơn nữa là người thích hưởng thụ, thế nhưng lại gặp Địa Không, hóa giải bớt dục vọng của Tham Lang mà chuyển hóa thành ý tưởng của tình yêu lớn “thương xót cho người, muốn trợ giúp người khác”. Có rất nhiều tu đạo nhân sĩ đều là Tham Lang hóa Kị, cho nên trong Toàn Thư nói không có sai, không phải là mê hoa yêu rượu thì là phá đãng tổ nghiệp, một mai sau khi hóa Kị lại thành “nghiên cứu các học thuật thần bí”. Bởi vậy Tham Lang hóa Kị ở Phúc Đức thì vì Phúc Đức là cung đại biểu về tinh thần mà Hóa Kị lại có hàm ý thiếu khuyết, sự “khuyết thiếu về trạng thái tinh thần” có thể giải thích hàm ý là “tinh thần ở trạng thái hư không hoặc vô ngã”. Bởi vì trống rỗng nên lại cần có món ăn tinh thần tới bù đắp, hoặc cần phải có tôn giáo tới gia trì, thì cõi lòng mới sẽ không rơi vào tình thế không nơi nương tựa phiêu bạt bất lực. Do đó, một khi có tín ngưỡng tôn giáo sẽ ăn nhập rất sâu, chiếm một phần không nhỏ trong lĩnh vực sinh hoạt tinh thần, nên đây có thể coi là nguyên do ngày sau quyên hiến số tiền không nhỏ.

Tiếp tục nhìn tứ hóa của cung Phúc Đức, thì Liêm Trinh hóa Lộc nhập Tài Bạch.

Phá Quân hóa Quyền nhập Phu Thê, Vũ Khúc hóa Khoa nhập cung Mệnh, Thái Dương hóa Kị nhập Phụ Mẫu, trong đó thì hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa không có nhập Mệnh hay chiếu Mệnh, cho nên cung Phúc Đức đối với mệnh tạo mà nói đây là cung vị trọng điểm hắn rất quan tâm.

Mà cung Tài Bạch tọa [Liêm Trinh, Thiên Diêu, Địa Kiếp] , có hai sao một chủ tư pháp một chủ đào hoa, cho nên nếu làm công việc về giấy tờ đất đai lại phù hợp với đặc tính của Liêm Trinh, mà Liêm Trinh cũng có ý “tham tranh” nhưng lại gặp phải Địa Kiếp cùng với Địa Không của cung Phúc Đức chiếu hội mà dẫn tới thái độ về tiền tài sẽ không có sự so đo tính toán chi li tiền bạc. Trong Tử Vi chư tinh thì Không Kiếp nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức đại biểu mệnh tạo có tuệ căn tôn giáo, tư tưởng tương đối gần với “trống không, siêu hình” của nhà Phật hoặc tư tưởng Đạo gia. Cho nên một khi ảnh hưởng chiếu hội được tăng cường không chỉ đặc tính của Liêm Trinh, Tham Lang tiêu biến mà trái lại sẽ với trách trời thương dân, trong lòng ôm ấp từ bi muốn dùng tài vật để sắp xếp nên đã đem tiền của mình mà đi cứu tế người khác. Cái này phù hợp với biểu hiện về đặc tính của Địa Không, Địa Kiếp ở tuyến Phúc Đức – Tài Bạch.

Tiếp tục nhìn cung Điền Trạch tọa Cự Môn Quyền, biểu thị hắn rất lo cho gia đình, cũng cho thấy hắn trong điền trạch rất có quyền lực hoặc thành tích. Mà công việc làm đại diện liên quan đến giấy tờ buôn bán đất đai này, vị trí then chốt là bởi mua bán đôi bên tạo được sự tin tưởng lẫn nhau, cũng chính vì tạo được sự tin tưởng trong mua bán giữa đôi bên mà giao phó cho hắn quyền lực. Cái này cũng có liên quan đến Thiên Cơ, bởi Thiên Cơ chủ huynh đệ, chủ nhân vật ngang vai cùng trang lứa nên Thiên Cơ hóa Quyền có thể dẫn dụ làm “vì giành được sự tín nhiệm nên được giao cho quyền lực nhằm thi hành thực hiện công việc”. Cự Môn là khẩu thiệt, cũng chính là phối hợp giao tiếp, cho nên tổng hợp lại thì mệnh tạo rất thích hợp đảm nhiệm công việc làm đại diện.

Phân tích quan hệ tứ hóa tiên thiên:

Theo lý hẳn là đi phân tích từng cung từng cung, để tiết kiệm số trang chỉ đi phân tích các cung vị có liên quan. Ở ví dụ này cung “Lập tượng” bởi vì là quyên hiến số tiền tích cóp được nên hẳn là ở cung Tài Bạch, cung Tài Bạch tiên thiên có Thiên can là Canh, phi xuất tứ hóa phân bố như sau:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ Mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Phụ mẫu
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Xin hỏi cung Phụ Mẫu là cung gì? Không nên quên rằng nó là cung Tài Bạch của cung Nô Bộc, hiện tại Tài Bạch của ta hóa Lộc với hóa Khoa nhập túi tiền Nô Bộc, là tiền tài của ta tiến nhập Tài Bạch của bạn bè. Mà hóa Lộc đại biểu nhiều, hóa Khoa đại biểu chủ động, cho nên việc “chủ động quyên ra một số tiền lớn” đã tạo nên hiện tượng này. (LC chú: hiện tượng ở đây chính là chỉ tiền của y chảy vào túi giao hữu thông qua việc quyên góp tiền)

Tại sao lại là quyên góp từ thiện cho cơ sở tôn giáo chứ? Thái Dương và Thái Âm đều chủ chiếu sáng bốn phương, trong thiên hạ cũng phải cần có ánh sáng với nhiệt để sinh trưởng sinh sôi nảy nở, cho nên là một loại sự tình hoặc hoàn cảnh “chiếu khắp chúng sinh”. Mà cung

Phụ Mẫu cũng là có thể quản chế hoặc ước thúc việc trái việc phải hoặc hoàn cảnh của chúng ta, như cơ quan cảnh sát, thầy cô giáo… mà tôn giáo chùa miếu cũng có thể nói là đơn vị loại này. Từ hai nhóm nhân tố tinh diệu với cung vị này tổ hợp khởi lai thì có thể đem nhân sự vật “cụ thể hình tượng hóa” chính là “tôn giáo từ thiện đoàn thể”, cho nên tiên thiên bàn cục cũng có thùy tượng sẽ có hiện tượng “đem một số tiền đáng kể đi quyên góp từ thiện cho tôn giáo đoàn thể”, đem sự kiện tuy nhỏ nhưng mà hiển hiện ra cụ thể.

Còn như Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh, loại hiện tượng này là có thành tựu về tiền tài, biểu thị ngày sau sẽ tương đối có thành tựu về tiền tài ví dụ như đảm nhiệm kế toán trưởng quản lý tài vụ … Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ biểu hiện quan hệ qua lại về tiền tài với huynh đệ không được tốt, không có tiền tài qua lại.

tuổi tiến nhập đại hạn Nhâm Tuất, cung Mệnh đại hạn có [Phá Quân Lộc] tọa, không đồng cung với chính tinh khác, Thiên can của cung Mệnh đại hạn là Nhâm, làm cho:

  • Thiên Lương tinh của cung Nô Bộc hóa Lộc – đây là thân cận với bằng hữu, có hàm ý sẽ đem tiền tài trợ giúp bằng hữu, cũng có hàm ý như “gom góp tài lợi cá nhân cùng với những người khác”.
  • Tử Vi tinh của cung Quan Lộc hóa Quyền – muốn có sự khác biệt trong sự nghiệp của mình, vốn đại hạn là sẽ tích cực, sẽ nỗ lực ở sự nghiệp, hướng đến mục tiêu của chính mình để phấn đấu.
  • Tả Phụ tinh của cung Huynh Đệ hóa Khoa – ở chung cùng với huynh đệ ở đại hạn này sẽ có sự khích lệ giúp đỡ động viên tinh thần lẫn nhau, làm việc cùng nhau cho kỳ thi, có những chủ đề phổ biến có thể cùng nhau thảo luận học tập mà làm cho tình cảm trở nên thân thiết hơn.
  • Vũ Khúc tinh của cung Mệnh hóa Kị – chúng ta gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị nhập cung Mệnh”, cung Mệnh là cung Phúc Đức của đại hạn Nhâm Tuất, Vũ Khúc là tài tinh, khi mà hóa Kị thì tiền tài do Vũ Khúc chủ chưởng cũng liền có “tổn thất”. Hơn nữa trong cung Mệnh còn có tài tinh khác là Lộc Tồn, hai sao tài tinh đụng phải Vũ Khúc hóa Kị lại còn có “Dương Đà giáp Kị”, đối cung của Phúc Đức đại hạn cũng là Tài Bạch đại hạn bị Vũ Khúc hóa Kị gây ảnh hưởng và cái này được coi là “xung”, gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị xung Tài Bạch đại hạn”, vì thế tiền tài sẽ có tổn thất. Bởi vì do cung Mệnh hóa Kị nhập Phúc Đức mà dẫn tới, cho nên là vì tín ngưỡng tôn giáo mà cam tâm tình nguyện bỏ ra, như: quyên góp tiền dầu thơm hoặc quyên góp cho giáo hội một phần mười thu nhập, nó có bản chất như vậy. Bởi vậyđối với mệnh tạo mà nói đó không phải là tổn thất mà là “đắc lợi” về mặt tinh thần cho cuộc sống. Do vậy ta dùng dấu móc ngoặc cho hai chữ tổn thất nhằm biểu thị đó là quan điểm của chúng ta về thế tục.

Phân tích quan hệ tứ hóa hậu thiên:

Thiên can cung Tài Bạch đại hạn là Mậu, phi xuất tứ hóa như sau:

  • Tham Lang hóa Lộc nhập Tài Bạch
  • Thái Âm hóa Quyền nhập Phụ Mẫu
  • Hữu Bật hóa Khoa nhập Điền Trạch
  • Thiên Cơ hóa Kị nhập Điền Trạch

Thiên Cơ hóa Kị tại cung Điền Trạch cũng chính là cung Mệnh năm Mão, hơn nữa Thiên Đồng Kị của Tài Bạch tiên thiên phi xuất ở Tài Bạch của năm Mão. (LC chú: ở đây ý chỉ Can của cung Tài nguyên cục là Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị ở cung Hợi, cung này là cung Tài của năm Mão) Cho nên, Kị tinh của Tài Bạch tiên thiên và đại hạn phi xuất đã hình thành góc độ tam hợp ở năm Mão, cái này tương tự “Tam hợp Kị” mà ta đã nói trong chương “Đàm luận thời gian ứng nghiệm sự kiện” trong cuốn “Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích” trước đó, cho nên qua năm tới sẽ có biến động về tiền tài. (LC chú: phần Tam hợp Kị độc giả có thể tham khảo chương số 24 quyển Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích đã được dịch Việt ngữ public trên trang Tuvi.cohoc.net cùng một số fanpage huyền học khác)

Lưu niên năm 27 tuổi

Cung Mệnh lưu niên ở Mão, có Thiên can là Ất làm cho:

  • Thiên Cơ hóa Lộc cung Mệnh lưu niên (cung Điền Trạch) : tượng này là “tự hóa Lộc”, là hàm ý của “Lộc xuất”, cũng chính là sự biểu thị “tiền tài bỏ ra”. Mà cung Mệnh lưu niên lại tọa Cự Môn Quyền, hàm ý của Quyền là “chủ động, hoán đổi hành động”, vì thế hắn sẽ tự mình chủ trương đem tài lộc bỏ ra, mà bỏ ra không phải là bị lừa hay bị gạt, hay là lòng không chịu tình không muốn. Cho nên năm nay bản thân đã chi ra một số tiền đáng kể trong một tình huống tự quyết.
  • Thiên Lương hóa Quyền của cung Nô Bộc: Quyền mang hàm ý có thành tựu, quản chế, nên đây là chiều hướng “ta sẽ đi kết bạn”. Mà đại hạn tứ hóa lại có tượng “đem tài lộc mang tới cho giao hữu”, cho nên tượng sở thuộc hiển hiện của tứ hóa cung Mệnh của đại hạn cùng với lưu niên cho thấy rất rõ ràng là “đem tiền tài đi kết giao bằng hữu”. Chẳng trách sẽ đem nhiều tiền của tích cóp được chi ra, mà cung Nô Bộc có Thiên

Lương tinh tọa, sao Thiên Lương là quý nhân tinh, chủ chưởng khả năng “phùng hung hóa cát”, quyên góp cho cơ quan từ thiện chính là muốn để cho những hộ gia đình có thu nhập thấp phải chịu khổ chịu khó khăn sẽ nhận được trợ lực “gặp dữ hóa lành” giúp họ thoát ly biển khổ. Kết hợp cả tính chất của sao cùng với tứ hóa sẽ giúp cho chúng ta càng giải thích đầy đủ được ý nghĩa của tượng xuất hiện trong đó.

  • Tử Vi hóa Khoa của cung Quan Lộc: Khoa chủ chưởng “khảo thí, công danh”, tiến nhập Quan Lộc mà nói, tham gia các kì kiểm tra sát hạch trong nước nhất định có thể tên đề bảng vàng, mà đại hạn lại hóa Tử Vi Quyền đến cung Quan Lộc. Hóa Khoa, hóa Quyền cả hai tăng cường, một là nỗ lực phấn đấu, một là vận thi cát tường, quả nhiên y sau khi trải qua một năm nỗ lực học tập đã tham gia và đỗ kỳ thi cao cấp. Trước khi đi làm đã đem tiền tích góp nhiều năm quyên góp cho cơ quan tổ chức từ thiện để hành thiện.
  • Thái Âm hóa Kị của cung Phụ Mẫu: Kị chủ khốn đốn, không thuận, tiến nhập cung Phụ Mẫu cũng chủ phụ mẫu có hạn tượng như này, nhưng may thay còn có Thái Âm Khoa bảo hộ, mặc dù có không thuận nhưng không đến nỗi khổ sở. Đương nhiên khi thi đỗ được rồi sẽ y theo chỉ lệnh phân công công tác của thượng cấp mà đi đến tỉnh khác làm việc, có lúc rời xa cha mẹ. Dĩ nhiên đối với cha mẹ mà nói sẽ có chút không muốn và khổ sở, thế nhưng chuyện thi đỗ có thể coi là “quang tông diệu tổ” cho nên với cha mẹ mà nói tuy có thương cảm nhưng trong đó lại có chút vui mừng thậm chí kiêu ngạo nữa! Đó là lý do mà “Kị” gặp Khoa năm sinh có hàm ý như này. Ở đây cũng đồng thời cải chính một chút sự ngộ nhận của một số người về “Khoa Kị không Kị”. Cái gọi là “Khoa Kị không Kị” không phải là “Hóa Kị” sở chủ điềm xấu chuyện xấu, vì là có quan hệ của Hóa Khoa tiêu trừ mất đi, mà là lưỡng tượng tốt xấu cùng tồn tại khiến cho trong kết quả yếu tố tốt chiếm nhiều hơn bù đắp cho tượng của cái xấu. Ví dụ như mệnh lệ này thì hiện tượng đó chính là may mắn thi đỗ nhưng lại được cấp trên điều phối đi làm việc ở nơi xa khiến cho cha mẹ thương cảm”.

*Tổng Kết:

Tiên thiên Tài Bạch tứ hóa “thùy tượng” – quyên ra một số tiền lớn đến Tài Bạch của bằng hữu, hơn nữa cùng Tài Bạch đại hạn ở năm Mão làm bàn cục xuất hiện “Tam hợp Kị”, đã hình thành điều kiện quan trọng thông qua đại hạn mà “thành hình”. Cho nên chỉ đợi thời cơ thích ứng để “thành sự” mà thôi, mà năm Mão là “thời cơ thích hợp”, nhưng tại sao lại là năm Mão vậy? Bởi vì Tài Bạch của tiên thiên hóa Kị ở Tài Bạch của năm Mão, đại hạn hóa Kị tại cung Mệnh năm Mão vì thế năm Mão thành sự.

Vì sao còn phải xem nhập thêm “cung Mệnh” nữa chứ? Đừng quên rằng cung Mệnh là nguyên tắc chung, là đầu mối then chốt trong biến hóa của vận đồ, nó liên kết tới mười một cung khác. Cho nên phải để một cung trong đó lập tượng, tất nhiên là nó lấy một cung chiếu xạ đến mười một cung khác, sao tọa trong cung Mệnh cũng đồng thời đóng vai mười một loại tượng, phải tùy theo cung vị mà người phân tích mà hoán tượng mới có thể tương ứng với tượng nhân sự vật phức tạp.

Trải qua ba giai đoạn “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” từng tầng từng tầng chắt lọc lựa chọn từng bước đem “Sự kiện” từ hình tượng mông lung mà từ từ rõ ràng minh xác thực hóa, thông qua mối quan hệ xuyến liên giữa “Tứ hóa” với “Tinh tính” làm cho quan hệ giữa “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” được liên kết khởi lai, thì có thể từ trong “Cung vị”, “Tinh tính” và “Tượng” trong mệnh bàn cung cấp cho thông tin ở trong đó. Từ đó có thể chắt lọc lấy ý nghĩa ẩn chứa bên trong mà có thể dùng những từ nó sát với “ý tượng sinh hoạt” trong sinh hoạt đời thường mà giải thích cho người hỏi mệnh hiểu rõ.

Bởi vậy, một chuyện phải trải qua thùy tượng “Bản mệnh”, thành hình ở “Đại hạn” cho đến thành sự ở “Lưu niên”, ba cái giai đoạn này Phi tinh phái dùng “Thiên bàn”, “Địa bàn”, “Nhân bàn” để gọi tên chúng, cái này cùng với hiện tượng “tâm linh khác” không có quan hệ gì, không nên bị ngộ đạo; mà suy diễn Thiên Địa Nhân bàn thì Thiên can tứ hóa xuyên suốt toàn cục cho nên là phải thuần thục cách dùng tứ hóa mới có thể nắm được sự bí ẩn về Tử Vi Đẩu Số của Phi tinh phái.

Mà từ trong mệnh bàn suy đoán hình tượng của sự vật phải thấu đáo nhuần nhuyễn tính chất của sao mới có thể phân giải dùng những từ ngữ chuẩn xác giúp cho người hỏi mệnh có thể hiểu ngầm trong lòng! Công phu này nếu không có ý tượng sâu sắc đối với sinh hoạt thường ngày thì rất khó nói hoặc phân giải kỹ càng. Đương nhiên, còn có sự từng trải và kinh nghiệm trong sinh hoạt của người giải bàn cũng rất có quan hệ, nếu như người không biết hoặc là chưa mở mang được kiến thức cũng sẽ không cách nào nói ra được câu cú đầy huyền cơ: “ngươi một khi dọn nhà nhất định sẽ kiếm được tiền”.

Tin rằng thông qua giải thích bản án lệ (LC chú: bản án lệ ở đây ý tác giả chỉ về trường hợp ví dụ thực tế được phân tích ở phía trên), đối với quan hệ và cách dùng giữa “Cung vị, Tinh tính, Mệnh hạn niên hóa tượng” mà có thể hoàn chình khái niệm sơ bộ. Tính chất của sao đối với Tứ hóa Phi tinh phái mà nói thực sự là mắt xích trọng yếu, chỉ là sự vận dụng của chúng ta về tính chất của sao có sự bất đồng với Tam hợp phái, nó chỉ khác nhau ở thủ pháp vận dụng mà thôi!

Góc Độ Quan Hệ Của Vận Đồ Mệnh Hạn Với Hóa Kị

Hóa Kị có thể nói là một viên sao rất trọng yếu trong tứ hóa, từ trên danh từ mà khán thì Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Khoa đều là hóa tinh tốt, mà chỉ có một viên hóa luôn không tốt. Dường như trong tứ hóa tỉ lệ phân chia tốt với xấu cũng không có đều nhau, hóa tinh cát lợi có ba viên mà hóa tinh không cát chỉ có một viên mà thôi, có đúng như vậy hay không? Không phải, sau khi xúc tác diễn hóa một viên sao nào đó cũng sẽ biến đổi bản chất tốt lành của Lộc, Quyền, Khoa mà viên tinh then chốt này chính là Hóa Kị.

Ngẫm lại trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có rất nhiều chuyện, có đúng là có rất nhiều loại hiện tượng này không?

  • Vừa mói bắt đầu gây dựng sự nghiệp thì nghiệp vụ đáp ứng không xuể, làm ăn tốt vô cùng, buôn bán lời một chút tiền, nhưng cuối cùng lại thua lỗ một khoản mà còn không có đường lùi.
  • Hoặc lúc mới bắt đầu nghiệp vụ cũng không được tốt lắm nhưng càng làm càng thuận lợi, sự nghiệp ngày càng lớn.

Một là trước cát sau hung, còn một là trước hung sau cát, rốt cuộc là thuộc về loại tình trạng nào thì phải phân tích từ trạng thái phân bố tứ hóa. Tình hình phân bố tứ hóa phải xem xét

mấu chốt ở “thời” của bản mệnh với hạn vận, cũng là phải quan sát trạng thái phân bố tứ hóa của cung nào đó của bản mệnh và đại hạn cùng một cung sở thuộc phi xuất, xem góc độ giữa chúng có hình thành một trong bốn loại trạng thái “Xung”, “Hội”, “Nhập” hoặc “Hợp” hay không để phán đoán cát hung. Phía trước đề cập qua, trong tứ hóa thì “Hóa Kị” càng có vai trò then chốt trong sự biến hóa của cát hung, cho nên chương này sẽ lấy góc độ hình thành của “Kị” tinh của cung vị “Bản mệnh” và “Đại hạn” phi hóa xuất trên mệnh bàn để phân tích ý nghĩa cát hung.

Muốn đàm luận về Hóa Kị tinh không thể quên hiện tượng “Kị nhập” và “Kị xuất”, cái này đều là quy tắc cơ bản vận dụng Hóa Kị, sáng tỏ “Nhập” và “Xuất” là yếu lĩnh cơ bản trong vận dụng tứ hóa. Hiện tượng cát hung của hai cái này hiển hiện là khác nhau, cho nên lúc đụng phải “tứ hóa” thì trước tiên cần nắm rõ đó là hiện tượng của “Nhập” hay là “Xuất”, đối với “Hóa Kị” mà nói thì:

  • Kị nhập có hàm ý là “Thu liễm”, sự vật có thể tập trung mà không phân tán, cho nên đối với cái sự vật đó có thể nắm giữ được hoặc buông bỏ điều đó, cho nên ta có thể “kiểm soát sở hữu”. Nếu như cung Phúc Đức có tượng này thì tinh thần tập trung thần thái sáng láng; nếu là cung Tài Bạch thì tiền tài vận dụng thoải mái hoặc là tài nguyên có tượng tụ hội, hàm ý “thu được”, “đạt được” cho nên tiền tài có thể kiếm được.
  • Kị xuất có hàm ý là “Phát tán”, sự vật phân tán, có hiện tượng nắm giữ không được bắt không xong, người có thì tinh thần rệu rã, nên bài vở học tập không tốt; có một số thì tiền tài không nắm không cầm được để xoay vòng cho làm ăn, không sử dụng thoải mái được, nên hàm ý chính là “Mất đi”, “Tổn thất”. Còn để giải thích và vận dụng từ ngữ cho chuẩn xác hơn thì phải tùy theo sự biến hóa của cung vị mà dùng cho thích hợp.

Chúng ta dùng hình 1 để giải thích sự khác biệt về “Kị nhập” và “Kị xuất” của Hóa Kị tinh giữa bản mệnh với cung vị đại hạn. Nhưng ý nghĩa của cát hung lại cần phải nhắm vào sự khác biệt của sự vật mà có sự khác nhau, không thể hết thảy đều lấy hai cách phân chia giản đơn “Kị nhập” là cát, “Kị xuất” là hung để giải thích, đây là nhận thức cơ bản thiết yếu. Chúng ta luận mệnh thường đơn giản lấy “Nhập” hoặc “Xuất” để luận sự tình, này là không tốt rất dễ khiến cho người hỏi mệnh nghe được ngôn từ sợ hãi bởi vì các hiện tượng trong cuộc sống có định nghĩa quy phạm luân lý xã hội, cái gì là hợp pháp, cái gì là không hợp pháp. Cho nên là lấy hợp pháp là cát, lấy phi pháp là hung để phán đoán, nhưng cũng có chút phi pháp không phải là hung, chẳng hạn như, giả như cung Phu Thê xuất hiện “Kị nhập” mệnh cục là hiện tượng “sống chung với nhau” thì loại tình huống này coi là “cát” hay là “hung” đây? Tuy là quan hệ hôn nhân không hợp pháp nhưng không có trở ngại bởi gia đình ngầm đồng ý. Còn có rất nhiều tình huống tương tự khác như thế nữa, tùy theo các quốc gia khác nhau hoặc là cùng quốc gia nhưng thời gian khác nhau, pháp luật hoặc quan điểm xã hội có hiện tượng điều chình phát sinh, những cái không hợp pháp trước đây nay đã được xã hội tiếp nhận, ví dụ như đồng tính luyến ái. Bởi vậy chỉ có thể lấy hiện tượng “Kị nhập” là “Thu liễm”, “Kị xuất” là “Phát tán” để giải thích, tiếp đó dùng tính chất sao ở cung vị khác nhau cùng hoàn cảnh trạng thái hiện thực để phân biệt đó là thuộc về “Cát” hay là thuộc về “Hung”.

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị phi nhập Tài Bạch (tức Kị nhập Tài Bạch), đây là Kị nhập, khi lưu niên đi tới cung Tý, Mão thì chủ đắc tài, sẽ có thu hoạch tiền tài, mức độ nhiều hay ít thì xem tổ hợp tinh tú.

ví dụ Kị nhập

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị nhập Phúc Đức (tức Kị xung Tài Bạch), đây là Kị xuất, khi lưu niên đi tới cung Dần, Thân thì chủ thất thoát tiền tài, mức độ tổn thất tiền tài nhiều ít thì cần xem tổ hợp tinh tú.

Sẽ có bốn loại tình huống “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” mà Đại hạn bàn cục xuất hiện ở Tiên thiên mệnh cục, mà cung cùng loại ở đại hạn cũng có quan hệ “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” với cung cùng loại của bản mệnh, tổng cộng có bao nhiêu loại tổ hợp độc giả có thể tự mình tham khảo thêm. Cho nên lợi ích của một viên Hóa Kị tinh từ “Bản mệnh với Đại hạn” và “Đại hạn với Bản mệnh” có thể thấy quan hệ diễn hóa ra giữa chúng rất phức tạp, nên đối với người mới học vừa nhìn thấy cũng cảm thấy đau đầu, vì thế cần đơn giản hóa quan hệ đó thành “Kị nhập” và “Kị xuất” để đàm luận về “Hóa Kị” tinh.

Trước tiên, nếu như Tiên thiên mệnh bàn xuất hiện quan hệ “Kị xuất” đối với Đại hạn bàn cục, mà Đại hạn bàn cục lại hình thành quan hệ “Kị nhập” đối với Tiên thiên mệnh bàn, vậy lúc này nên giải thích hiện tượng “Kị nhập” như thế nào? Rốt cuộc là “Thu liễm” hay là “Phát tán” đây?

Loại tình huống này cũng có hàm ý phát tán, cũng có người trong bản mệnh bàn cục có “Kị xuất”, trong cuộc sống mệnh vận tương đối bất lợi, thường thường nắm giữ cơ hội không tốt, thậm chí cơ hội đến mà còn mù mịt không tự chủ được dẫn đến hiện tượng cơ hội đến mà trôi mất uổng phí. Cũng bởi vì đương sự không tự chủ, trái lại rất có khả năng “chẳng chỗ nào được, cũng chẳng mất chỗ nào”, tỉnh tỉnh mê mê mà sống qua ngày, những lời này có thể coi là những lời thỏa đáng thích hợp nhất dùng để giải thích cho mệnh cục có “Kị xuất”! Nhưng mà khi đương sự đã cao tuổi sau khi nhìn lại cuộc đời hoặc những chuyện đã xảy ra, cẩn thận nhớ lại các chi tiết thì sẽ phát hiện cơ hội để mất từ phía họ. Bởi vậy người có bàn cục loại này, người viết kiến nghị trau dồi tăng mạnh độ nhạy cảm làm sao từ trong dấu vết phát giác ra cơ hội chất chứa trong đó mà nắm bắt lấy nó.

Người viết có một đồng sự phụ trách giáo dục đào tạo, thường xuyên nhận được điện thoại hỏi xem có khóa học nào không, trong đó có một số chương trình dạy học chưa từng được thiết lập, hắn nhận được hồi đáp có phần khiêm nhường rằng không có. Sau khi cúp điện thoại cũng không có hoạt động gì tiếp tục hoặc dẫn phát ý tưởng nào đó, hắn cứ làm như chuyện chưa từng xảy ra, đương nhiên những biểu hiện cho thấy không được tốt và nên đổi chuyển sang người khác thì hơn.

Thế rồi ta cũng có quan hệ với đồng sự khác, gặp phải tình huống tương tự, thì vẫn hỏi đối phương làm nghề nghiệp nào? Tại sao muốn khóa học này? Trong giới nghề nghiệp thì ai là học giả có địa vị, ai là người nghiên cứu? Từ đó mới có thể khai mở ra được nhiều chương trình học trước đó chưa có, thành tích đương nhiên cũng được nâng cao lên nhiều. Người phía trước là mệnh cục có “Kị xuất”, không hiểu được nắm được cơ hội, làm cho nguồn khóa học với nguồn khách hàng đều cuốn trôi đi mất, cho nên làm rất mệt mỏi, khiến cho không cách nào hoàn thành được mục tiêu tăng trưởng trong năm năm mà công ty đề ra. Chính điều này đã làm cho người viết muốn nghiên cứu mệnh cục và quan hệ dùng người trong cơ cấu tổ chức công ty.

Bởi vì phục vụ đơn vị là cơ quan cố vấn doanh nghiệp lớn trong nước, khi công cụ quản lý truyền thống không cách nào giải quyết được vấn đề kinh doanh của công ty thì cũng hướng ra phía ngoài nhờ giúp đỡ một số phương án giải quyết lĩnh vực ấy. Ví dụ như công cục tâm lý học nhằm phân tích tính chất đặc biệt trong nhân cách, đem con người phân chia ra các hình thái khác nhau như chim khổng tước, lão hổ (ý chỉ kẻ tham ô), chim gõ kiến … phối hợp với các đặc tính của các ngành các tổ chức như nhân sự, tài vụ, chế tạo … mà đưa ra các điều chỉnh về nhân sự, cũng có thể giải quyết tranh chấp giữa các khâu làm cho tổ chức vận hành được thông thuận, từ đó giải quyết vấn đề quản lý. Cũng từng đưa vào học thuyết “Tập quán lĩnh vực” nhằm tham khảo làm sao kích phát tiềm năng của con người, rồi lại đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng về tuổi tác thì hình thức tư duy công việc cũng theo đó mà có sự biến đổi phù hợp với thói quen của con người, diễn hóa hành vi mô thức vì thế mà truy ngược căn nguyên nhằm làm sao có được sự cải cách thay đổi về mô thức tư duy trong tinh thần tiến tới làm cho tâm trí được hoạt bát để ứng phó được với biến đổi lớn do vấn đề tuổi tác mang đến. Đương nhiên người viết đảm nhiệm chủ quản bộ phận cũng cố gắng tiếp thu những kiến thức liên quan, cũng suy nghĩ sâu sắc về sở học “Tử Vi Đẩu Số” của mình phải làm sao để có thể kết hợp đặc điểm của tổ chức cùng với sách lược lựa chọn nguồn nhân lực nhằm làm cho tổ chức vận hành được thông thuận linh hoạt, năng lực sản xuất được nâng cao. Đương nhiên xí nghiệp thì càng kiếm được tiền, dĩ nhiên là không thể tùy thích làm rối loạn công ty, trái lại còn làm nhiều vấn đề lớn xuất hiện thêm, cho nên trải qua nghiệm chứng tìm tòi khoảng bảy tám năm, có lòng tin nói rằng nó chắc chắn tốt hơn các công cụ kể trên.

Loại tình huống Kị xuất này, lúc mà đại hạn “Kị nhập” bản mệnh thì sẽ đem hiện tượng bản mệnh “Kị xuất” đại hạn càng thêm cường hóa. Bởi vậy cái cung mà tượng nhân sự vật chủ chưởng sẽ có hiện tượng “xói mòn, tổn thất, tiêu mất”, nên lúc giải thích phải đặc biệt chú ý loại hiện tượng này.

Loại hiện tượng này giống như là hiện tượng lúc mới vào sòng bạc thì người ta cho ngươi chút ngon ngọt, càng về sau lại đau đớn, cái số thắng được lúc đầu về sau cũng mất, hoặc như là vừa mới bắt đầu kiếm được chút tiền liền mở rộng đầu tư dẫn đến kết quả tiền còn chưa kiếm được thì tiền kiếm được lúc trước đó đều tổn thất một số tiền bạc lớn, này là loại hiện tượng sụt giảm nhiều, có thể nói hình thái vận đồ là “trước sướng sau khổ”, “trước dễ sau khó”.

Giả như, tiên hậu thiên bàn cục đều là “Kị xuất”, không cần nói, Hết trag111

nhất định là chiều hướng “tổn thất”, cho dù nỗ lực ra sao cố gắng thế nào thì vẫn khổ tâm không đạt được mà còn lãng phí khí lực, vẫn là bị mất đi, đây là cách cục đặc biệt không tốt. Nhưng mà có thời điểm bắt đầu lại từ đầu tuy đều không có được ngày vui, nhưng thói quen còn có thể cam lòng như lúc ban đầu, dù không như hình thái tứ hóa thuật ở phía trước, nhưng nó cũng làm cho người ta có thể rơi từ trên mây xuống dưới. Tuy loại khổ sở này với người khác khó có thể chịu đựng được, tuy không là cát nhưng chí ít nỗi thống khổ cũng được giảm tương đối thấp rồi.

Ví dụ như có người sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên cũng không nỗ lực dốc sức làm việc, suốt đời đều nghèo khổ qua ngày, hắn trái lại có thể “sống thanh bần đạo hạnh” dù bần hần vẫn tự tại, không màng danh lợi ngày sau, nhưng với hắn cảm thấy đó cũng không phải là gì xấu cả, bởi vì thói quen.

Dường  như bản mệnh bàn cục Hóa Kị còn có một loại tình huống cũng là thuộc về hàm của Kị xuất, như hình ví dụ dưới đây, cung Tài Bạch can Bính làm cho Liêm Trinh ở cung Phúc Đức hóa Kị, cung Phúc Đức là đối cung của cung Tài Bạch, nó giống như một đường thẳng đến cung vị đối diện, đặc biệt xưng là “Hóa xuất Kị”, kỳ thực hàm ý chính là cung Tài Bạch hóa

“Kị nhập” cung Phúc Đức. Cho nên tình huống đem Hóa Kị từ bản cung sở thuộc đến cung đối, toàn bộ gọi là Hóa xuất Kị, một cung nào đó có tình huống hóa Kị xuất thì cái cung sở chủ sự vật đều có hàm ý trôi đi mất, nhưng mà trôi đi chưa chắc đã là mất. Thí dụ như Tài Bạch hóa Kị nhập Điền Trạch chiều hướng là mua nhà cửa hoặc sản xuất, đối với Tài Bạch mà nói đó là “trôi đi”, đối với Điền Trạch mà nói đó là “nhận được”, chỉ là đem “động sản” chuyển hoán thành “bất động sản” mà thôi chứ “tổng tài sản” nhìn chung không có tổn thất cho nên sự xói mòn trôi đi này không lấy không cát luận, chỉ là hiện tượng “mua nhà để làm ăn sản xuất”. Giả như đổi một cung vị rơi xuống khác, ví dụ Tài Bạch hóa Kị nhập Nô Bộc, là Tài Bạch của ta trôi đến tay của bằng hữu, đương nhiên là ta tổn thất, lúc này lại lấy không cát để luận giải. Vì vậy sự được mất trong đó cần dựa theo vấn đề mà phân giải, không thể câu nệ rập khuôn theo văn tự từ nghĩa, mà là cần khán quan hệ giữa cung vị Hóa Kị được khởi phi và cung vị mà Hóa Kị rơi xuống thì mới có thể phân biệt cát hung. Lúc giải thích mệnh bàn thì cũng không thể bỏ qua tình huống như vậy.

Can Bính của cung Tài Bạch làm Liêm Trinh hóa Kị phi nhập Phúc Đức, gọi là Tài Bạch hóa xuất Kị, cũng là “Kị xuất” đại biểu tiền tài có chiều hướng trôi đi, chủ về tiền tài có tổn thất.

Trở lại khán hình 2, cung Tài Bạch hóa Kị đến Phúc Đức, cung Phúc Đức là cung vị hưởng thụ, vừa có tiền liền tìm cách thụ hưởng, có một số người ngay khi có một chút tiền rất thích dùng cho hưởng thụ, đối với người có tiền mà nói cũng không cảm thấy đau, ngược lại là loại hưởng thụ, đối với bọn họ mà nói không phải là tượng “bất cát”. Mặt khác, nếu là người kinh tế không dư dả, dùng tiền hưởng thụ sẽ đau lòng, nhưng không thụ hưởng cũng khổ, đứng giữa hai cái cũng không biết làm sao cho khéo, đương nhiên cái này đối với họ mà nói loại mong muốn nhưng bị dằn vặt này chính là “bất cát”. Cho nên loại mệnh cục này nên đi làm văn phòng hưởng lương, ta cũng kiến nghị họ nên có dự trữ, cho dù là cất giữ ký gửi hay là mua vàng đều có thể, bắt buộc bản thân dự trữ, mà một số ông chủ hoặc người có tiền thì sao? Chỉ cần lúc làm ông chủ không mang tiền đi tiêu hoang là tốt rồi, ví dụ như những nơi phong hoa tuyết nguyệt vừa nhìn thấy khách hàng tới cửa đều gọi “ông chủ” này, “ông chủ” kia,

ung dung phục vụ cho lâng lâng, và một số người đang mất rất nhiều tiền hoặc bị lừa gạt khi thưởng thức loại hình hưởng thụ vô ích này. Ví dụ loại như thế này rất nhiều, cho nên người có tiền mà có loại mệnh cục này nên cảnh giác loại hình hưởng thụ hư ảo này.

Đại hạn bàn

Hóa Kị của đại hạn bàn cục sẽ cùng tứ hoá năm sinh và tứ hóa của Bản mệnh bàn cục sản sinh tác dụng mà khiến cho có chút biến hóa làm cho hiệu ứng hóa được tăng cường hoặc yếu đi. Góc độ hình thành của Hóa Kị bản mệnh và Hóa Kị đại hạn đều có “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” … những cái này đều sẽ vì cường hóa tác dụng của Kị tinh mà dẫn khởi hiệu ứng cát hung. Giả như không có hình thành các góc độ đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” thì cũng sẽ không sản sinh cường hóa tác dụng của Kị tinh khiến cho sự kiện phát sinh. Tuy nói là như thế, nhưng mà những khốn đốn hoặc ngăn trở “nhỏ” sẽ vẫn có, bởi vì uy lực của một viên tinh tương đối nhỏ, vẫn chưa tới mức khiến cho người ta đau lòng lưu lại ấn tượng sâu sắc. Vì thế người thường cũng sẽ không quá lưu tâm đến nó, nhưng với đồng hữu có lòng học tập mệnh lý thì lại lưu tâm suy đoán lĩnh hội, còn là có thể cảm nhận được uy lực hiệu ứng của “đơn Kị”.

Muốn ứng dụng tứ hóa luận mệnh thì trước tiên phải có quan niệm về “có tác dụng trong thời gian định tính” của tứ hóa, tứ hóa của bản mệnh sẽ phát sinh hiệu ứng trong suốt cuộc đời, tứ hóa của đại hạn chỉ có phát sinh lực tác dụng trong đại hạn đó, nếu qua khỏi đại hạn thì cũng mất đi lực tác dụng ấy. Tương tự đối với lưu niên cũng chỉ có phát sinh tác dụng trong năm đó, một khi qua cái năm đó thì lực ảnh hưởng của tứ hóa lưu niên cũng mất.

Ví dụ như mệnh lệ sinh năm Tân Mão này, cung Phu Thê có Can là Kỷ làm Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền, Văn Khúc hóa Kị nhập cung Mệnh, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Mệnh đại biểu phu thê bất lợi đối với ta, viên tinh này hiệu lực vẫn tồn tại, nó có làm cho đương sự cảm thấy được hay không? Chưa chắc đã cảm thấy được bởi vì nó chỉ là tác dụng loáng thoáng mà thôi, nếu không có sát tinh phối hợp, giống như là chẳng cảm nhận được gì, nó cần đại hạn phối hợp để dẫn phát hung tính của nó, đại hạn phải như thế nào để phối hợp dẫn phát đây? Lúc này sẽ quan sát Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn có hình thành góc độ đặc thù nào đó với Hóa Kị tinh của cung Phu Thê bản mệnh ở trong cung Mệnh hay không, nếu có sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung; còn nếu không có hình thành các góc độ đặc thù thì cũng sẽ không có xuất hiện phản ứng cát hung.

Giả như bàn cục của ví dụ này, đại hạn đi ngược chiều đồng hồ, lúc cung Mệnh đại hạn tiến nhập cung Tử Nữ thì cung Tật Ách [Bính Thân] liền trở thành cung Phu Thê của đại hạn, Can cung là Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Tài Bạch ở Dậu, mà cung Phu Thê tiên thiên phi Văn Khúc Kị nhập cung Mệnh ở Sửu, mà Tị Sửu là tam hợp, cho nên Văn Khúc hóa Kị của cung Sửu cùng với Liêm Trinh hóa Kị của cung Dậu hình thành “Tam hợp Kị” Tị Dậu Sửu. Lúc này Hóa Kị của cung Phu Thê của đại hạn với tiên thiên sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung tương đối mãnh liệt, bởi vì là Hóa Kị tinh ngầm dấy lên, nên là hiện ra phản ứng có tính hung.

Mọi người có thể sẽ hỏi rằng, cung Mệnh với cung Tài Bạch chẳng phải đều là ngã cung hay sao? Tại sao tha cung hóa nhập ngã cung lại là hung, muốn trả lời vấn đề này mọi người trước tiên phải hiểu nguyên nhân dẫn tới thất bại hôn nhân là cái nào, thất nghiệp không có tiền tài thu nhập liệu vợ chồng có tranh cãi ầm ĩ thậm chí ly hôn hay không? Tiền tài do cung Tài Bạch chủ chưởng mà, hơn nữa mọi người cũng gọi cung Phu Thê là cung vị đối đãi của vợ chồng mà! Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch, chính là ám chỉ quan hệ đối đaiã của vợ chồng không được tốt đẹp lắm, nguyên nhân dẫn tới không êm thấm là do liên quan tới tiền bạc, cho nên mặc dù là “tha cung hóa nhập ngã cung” cũng không luận cát được. Trước đây từng nghe người ta nói rằng “Kị nhập” là đạt được, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Tài Bạch hàm ý chỉ “sau khi kết hôn kiếm được tiền hoặc được tiền tài nhờ phối ngẫu”, đại khái cũng có thể là vì như vậy, kết quả sau kết hôn mới phát hiện phối ngẫu chỉ là tốt đẹp ở bề ngoài thôi, không có chút tiền là quan hệ đối đãi của vợ chồng lại xảy ra vấn đề. Đây chính là hiện tượng “chờ mong càng cao thất vọng càng sâu”, với người thứ ba mà nói không chừng phối ngẫu hắn đúng là có tiền thật, do đó kiểu phương thức phi hóa “Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch” này nếu không có chút tài sản làm căn cơ có lẽ không nên mơ mộng “Điếu kim quy”, “Đương thừa long khoái tế” (LC chú: ý hai câu này chỉ không nên mơ mộng kiểu câu rùa đá, ngồi ngai rồng tuyển rể hiền), một khi gặp phải biến động về tiền bạc, thường thường hôn nhân dễ bắt đầu xảy ra điềm xấu. Nói đến đây nghĩ đến có người thường nói : Đẩu Số dễ học khó tinh thông, mấu chốt nằm chính ở chỗ không phân rõ được về các tình huống rủi ro của con người, tưởng là quy tắc của Tử Vi Đẩu Số nhất thể sử dụng, không cần phân lục thân cung hoặc các cung vật chất như tiền tài, điền sản là có khác nhau, cho nên mới dẫn đến dễ phán đoán lầm. Vì thế khi giải đoán cát với hung cần suy tính sự khác nhau về tính chất của cung vị mà có những chỉnh sửa cho hợp lý.

Còn như phải suy tính thế nào để biết năm nào sẽ phát sinh chuyện? Thì từng năm từng năm mà tra xem ứng nghiệm ở lưu niên nào, trọng điểm suy đoán có mấy điểm cần nắm như dưới đây:

Năm nào cung Mệnh lưu niên bị Hóa Kị của góc độ đặc thù xung đến? Hoặc cung Mệnh lưu niên có Hóa Kị của góc độ đặc thù tọa?

Năm nào cung Mệnh lưu niên có sát tinh tụ tập thành đàn?

Năm nào cung Phu Thê lưu niên có sát tinh hội tụ thành đàn?

Năm nào lưu niên tiến nhập vị trí trong tam phương có Hóa Kị tinh của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh, lúc này lấy Hóa Kị tinh tọa Phu Thê bản mệnh là nghiêm trọng nhất, lưu niên bị xung đến là kế đó, tiếp tục quan sát tổ hợp sao của cung Phu Thê năm này có sát tinh tụ tập thành đàn hay không?

Liền có thể biết được một năm nào sẽ xảy ra chuyện, giả như suy đoán ra được lưu niên xảy ra chuyện nhưng mà cái năm ấy đã thoát ra khỏi phạm vi của đại hạn thì cái ảnh hưởng của Kị tinh do góc độ đặc thù cũng sẽ theo đại hạn mà di chuyển tiêu biến, làm cho hung tính cũng sẽ không sản sinh ở lưu niên ấy.

Căn cứ bí quyết thuật phía trước chúng ta tiến tới cân nhắc xem xét xem năm nào phát sinh chuyện ở thí dụ này:

  • Năm 35 tuổi, vừa khéo trùng điệp với cung Mệnh nguyên cục, mà cung Mệnh lưu niên có Văn Khúc Kị của cung Phu Thê hóa đến tọa, tam phương còn có Liêm Trinh Kị của cung Phu Thê đại hạn hội nhập hình thành góc độ đặc thù là tam hợp. Hơn nữa cung

Phu Thê đại hạn phi một viên Liêm Trinh Kị tiến nhập cung Tài Bạch, cung Tài Bạch là cung vị đối đãi của Phu Thê, dùng để so sánh quan hệ đối đãi tốt xấu của vợ chồng trong đó. Bởi vậy năm này phu thê đối đãi sẽ có “hung tướng” xuất hiện, mức độ nghiêm trọng thì như thế nào đây? Bởi vì cung Phu Thê nguyên cục hóa Vũ Khúc Lộc, Tham Lang Quyền nhập cung Mệnh (cung Mệnh lưu niên), Lộc chủ tình duyên, Quyền chủ ước thúc, đại biểu năm này tuy là có xung đột nhưng tình cảm vợ chồng vẫn còn sâu, không đến mức nghiêm trọng không thèm nể mặt nhau.

Tiếp tục khán năm 36 tuổi: tuy rằng cung Phu Thê lưu niên có Thiên Đồng tự hóa Kị,

Lưu niên bàn xem năm phát sinh chuyện

nhưng mà còn có Thái Âm tự hóa Khoa, Khoa có khả năng hóa giải Kị . Cung Mệnh lưu niên tọa Lộc Quyền, lại không cùng Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh hình thành góc độ tam hợp, nên là không đến nỗi sinh sự.

Năm 37 tuổi thì sao? Cung Mệnh lưu niên bị Liêm Trinh hóa Kị của cung Phu Thê xung đến, mà cung Phu Thê lưu niên lại có Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh, mà cung Phu Thê lưu niên tụa hóa Văn Xương Kị, năm này sự tình tương đối nghiêm trọng. Tự hóa Kị cóhàm ý “xong hết mọi chuyện, cùng lắm thì mặc kệ, không đếm xỉa đến nữa”, năm này là có chút dòng suy nghĩ xung kích muốn giải quyết triệt để, cho nên là một năm rất nghiêm trọng. Lại tiếp tục kiểm tra từng năm từng năm thì có thể phát hiện năm 41 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này cũng rất có khả năng, nhưng là năm nào sẽ xảy ra chuyện? Sẽ truy ngược từng năm so sánh xem giữa các năm có thể xảy ra chuyện thì năm nào phát sinh sự nghiêm trọng nhất thì lấy đó là năm xảy ra chuyện, tỷ dụ như ví dụ này thì năm 37 tuổi là nghiêm trọng nhất, cho nên năm này quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng phải đặc biệt cẩn thận kẻo sinh biến.

Vậy còn các lưu niên sau năm 45 tuổi thì sao? Bởi vì tuổi tác khi ấy đã chuyển sang đại hạn kế tiếp (45 ~ 54 tuổi), cho nên nhất định phải trước khán Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn đó, xem hình thành góc độ cát hung với Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh như thế nào; rồi tiếp đến cân nhắc cát hung lưu niên, nếu không có hình thành góc độ đặc thù gì thì cát hung lưu niên chỉ là tiểu thị phi, tranh cãi nhỏ mà thôi, quan hệ đối đãi giữa vợ chồng ở mệnh cục tiên thiên sẽ không sản sinh ảnh hưởng.

Bởi vậy, Hóa Kị của Mệnh với Hạn ngoại trừ phải hình thành góc độ vật lý đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu”sẽ sản sinh tác dụng cường hóa lực của Hóa Kị tinh để làm cho sự kiện phát sinh ra thì lúc giải thích cần phải so sánh quan hệ mà cung vị sở chủ ý tượng và nhân tình sự cố, nhằm sử dụng từ ngữ phù hợp với tình hình cát hung, không thể chỉ có khái niệm mang tính chung chung như “tha cung hóa nhập ngã cung là cát” hay là “ngã cung hóa nhập tha cung là hung” để giải thích cát hung mà cung nhân sự hoặc vật chất sở chủ, đây là quan niệm cơ bản mà người mới học cần phải nắm rõ.

Cũng bởi là đàm luận vấn đề góc độ Hóa Kị mệnh hạn hình thành, cho nên không bàn vấn đề cách cục với tinh tính của mệnh với đại hạn, thế nhưng lúc ứng dụng thực tế thì hai cái này là tham số tham khảo rất trọng yếu mới sẽ không bỏ sót.

Muốn suy đoán lưu niên cần luyện tập nhiều hơn, nghiên cứu nhiều ví dụ thực tế mới có thể vận dụng được thuần thục, nhưng cũng như phía trước đã nói, vẫn cần cẩn thận kiên trì suy xét đánh giá từng năm.

*Tiểu Hạn –Dùng Để Tham Khảo

Có người hỏi: “Có nói tới đại hạn vì sao không có đàm luận tiểu hạn vậy?” Đây là vấn đề thường nhìn thấy, chúng ta có thể đem sự kiện chia làm hai loại là “nội phát” và “ngoại lai”. Ví dụ như tai nạn xe cộ do người khác lái xe tới đụng vào là thuộc sự kiện của “ngoại lai”, nhưng mà bản thân say rượu lái xe mà phát sinh tai nạn xe cộ hoặc là tai nạn xe cộ ở trên đường cao tốc do uống rượu say là thuộc sự kiện có tính “nội phát”. Hai loại sự kiện như này dấu hiệu hiện lên trên mệnh bàn có tương đồng hay không? Chúng ta thường hay gặp người khác hỏi “Năm nay tiểu hạn tốt không?” Tiểu hạn là kết quả của các hành động khác nhau mà bản thân đã thực hiện trước đó, hiển tượng thành sự kiện, đây là kết quả của nghiệp chướng mà nên, đương nhiên có xấu có tốt rồi! Giống như hiện tượng tai nạn xe cộ được mô tả phía trên, mà “lưu niên” thì là tác động ngoại lai để sự kiện tạo thành, ví dụ như tượng loại tai nạn xe cộ đầu tiên đã thuật ở trên thì chỉ sợ bản thân có thể tránh nó và biết sẽ tai nạn ở nơi nào không? Cho nên, những người theo cách luận tiểu hạn ủng hộ loại lập luận này và vẫn chủ trương tiểu hạn cũng có công hiệu sử dụng.

Người mới học có thể khảo nghiệm nhiều mặt xem các luận điểm có được thiết lập hay không, thu thập nhiều các trường hợp cụ thể để xác minh nghiệm chứng xem có thể thiết lập “luận pháp tiểu hạn” hay là không.

Cung Mệnh lưu niên đang ở đâu vậy? Như năm nay là năm Ất Sửu thì cung Mệnh lưu niên ở cung Sửu, giản đơn minh bạch, thế còn “tiểu hạn” thì ở đâu? Là theo quy tắc dưới đây từ “Địa Chi của năm sinh” để quyết định, khởi pháp như sau:

  • Năm Dần, Ngọ, Tuất: lấy “Thìn” khởi 1 tuổi
  • Năm Thân, Tý, Thìn: lấy “Tuất” khởi 1 tuổi
  • Năm Hợi, Mão, Mùi: lấy “Sửu” khởi 1 tuổi
  • Năm Tị, Dậu, Sửu: lấy “Mùi” khởi 1 tuổi1

Khẩu quyết khởi tiểu hạn:

Tiểu hạn nhất niên nhất độ phùng; Nam thuận nữ nghịch bất tương đồng

Dần Ngọ Tuất nhân Thìn Thượng khởi; Thân Tý Thìn nhân tự Tuất cung

Tỵ Dậu Sửu nhân Mùi cung thủy; Hợi Mão Mùi nhân khởi Sửu cung

Nghĩa là:

Tiểu hạn mỗi năm chuyển một cung; Nam thuận nữ nghịch chẳng giống nhau

Năm Dần Ngọ Tuất : Thìn thứ nhất ; Năm Thân Tý Thìn : Tuất làm đầu

Năm Tỵ Dậu Sửu : Mùi đếm trước ; Năm Hợi Mão Mùi : từ Sửu cung

Tiểu hạn là một trong ba cung quan trọng dùng để xem vận hạn hàng năm (2 cung khác là Đại hạn và Lưu niên đại vận) mà Nam phái thường sử dụng.

Quan Lộc đại hạn

Sau đó, tiếp tục phân chia nam nữ, giới tính nam thuận kim đồng hồ chuyển, như người nam mà sinh năm Dần thì 2 tuổi là Tị, 3 tuổi là Ngọ; giới tính nữ nghịch kim đồng hồ chuyển, như nữ nhân sinh năm Dần thì 2 tuổi ở Sửu, 3 tuổi ở Tý.

Như ví dụ trên, nam sinh năm Mão, tiểu hạn từ cung Sửu khởi 1 tuổi, thuận kim đồng hồ chuyển động, cho nên đem số tuổi tiểu hạn của Tử Nữ đại hạn đánh dấu ở trên mệnh bàn, mọi người có thể đối chiếu với lưu niên bàn. (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, cần hiểu đây là tác giả nói đại hạn đang ở cung Tử Nữ nguyên cục)

Còn như làm sao sử dụng tiểu hạn đây? Có thể nói giản đơn như sau:

  • Trước tiên, đem hạn Lộc Tồn, hạn Kình Dương, hạn Đà La bài nhập mệnh bàn, ví dụ như mệnh tạo ở ví dụ này cung Mệnh đại hạn ở cung Tử nữ, mà Can cung là Mậu thì Lộc Tồn nhập Tị cung, Kình Dương nhập Ngọ cung, Đà La nhập Thìn cung (trong mệnh bàn dùng khung vuông ghi chú rõ rồi – LC chú: tác giả dùng khung vuông ghi chú nhưng chúng ta dùng kí hiệu nào đánh dấu thì tùy mỗi người).
  • Tiếp tục đem đại hạn chuyển hoán bắt đầu lại từ đầu theo Ngũ hổ độn, đem cung Can điền nhập các cung, ví dụ như Mậu hạn thì Thiên can là Canh, một lần nữa lấy Can Mậu của cung Mệnh đại hạn dùng Ngũ hổ độn Dần thủ. Bởi vậy Dần thủ Thiên can là Giáp, y theo thứ tự đem Thiên can điền nhập vào các cung, (trong mệnh bàn có dùng ghi chú bằng khung vuông), đây là phương thức rất đặc thù phải nhớ kĩ sau khi đại hạn chuyển hoán mới sử dụng Thiên can Dần thủ mới để phi tứ hóa.

Đại hạn bàn nhưng dùng Can năm sinh khởi Thiên can của Ngũ hổ độn, còn Tiểu hạn thì sao? Thì một lần nữa sử dụng Thiên can các cung khởi Ngũ hổ độn, từ chỗ rơi cung vị khi phi tứ hóa tiến nhập đại hạn mệnh bàn xem có hình thành các góc độ đặc thù gì không? Rồi quyết định mức độ cát hung hiện tượng sự vật.

Còn về việc phải dùng cung vị nào để phi tứ hóa? Trong rất nhiều sách thường chỉ viết dùng cung Mệnh đại hạn hoặc cung Mệnh tiểu hạn để phi tứ hóa mà thôi, thế nhưng chúng ta mỗi ngày đối mặt với rất nhiều các loại sự việc khác nhau như là gia đình, sựn nghiệp, vợ chồng, con cái … từng khía cạnh đều có các hiện tượng với mức độ cát hung khác nhau, lẽ nào đều là chỉ lấy mỗi cái cung Mệnh ấy đại biểu toàn bộ? Cho nên là không thể nào, cần phải phân ra các sự vật khác nhau để định ra các cung chủ chưởng sự vật khác nhau nhằm phi tứ hóa để tìm cát hung mới đúng.

Bởi vậy, lúc xem cung chủ sự của đại hạn phi tứ hóa có cùng hình thành các góc độ hiệu ứng cát hung với cung chủ sự của tiểu hạn hay không, tới phán đoán cát hung,

Tứ hóa của cung Phu Thê đại hạn phi xuất thì dùng hình tứ giác vuông điền nhập vào trong mệnh bàn:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Huynh Đệ
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Đại hạn Phu Thê hóa Thái Dương Lộc ở Quan Lộc đại hạn là hiện tượng “Lộc xuất”, biểu thị duyên phận vợ chồng có sự xa cách, mà Thái Âm Khoa và Thiên Đồng Kị xung đến Tài Bạch của đại hạn cho thấy mối quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng kém đi, tình cảm trở nên không nồng ấm, đương nhiên quan hệ hôn nhân sẽ dễ sinh biến hóa, là năm nào đây?

Kết quả vừa nhìn, cung Mệnh đại hạn bị sát tinh Kình Dương, Đà La từ tam phương tới hội tụ gây trắc trở, cung vị đối đãi của đại hạn lại bị Thiên Đồng Kị xung kích. Tiểu hạn năm 37 tuổi tọa vào đúng vị trí Kị của Phu Thê tiên thiên bay tới, mà cung Phu Thê tiểu hạn năm 39 tuổi có Văn Khúc Kị tinh của Phu Thê tiên thiên hóa nhập, hai cái niên hạn này đều phải chú ý. Tiếp tục sẽ dùng Phu Thê của tiểu hạn để phi bố tứ hóa xem xét (dùng Thiên can Dần thủ mới khởi), cung Phu Thê tiểu hạn năm 37 tuổi ở Hợi có Can là Quý : Tham Lang hóa Kị nhập cung Mệnh, bởi vậy có thể thấy năm này quan hệ đối đãi giữa vợ chồng có chuyển biến xấu. Năm 39 tuổi thì cung Phu Thê tiểu hạn ở Sửu có Can là Ất : Thái Âm hóa Kị, mà Thái Âm lại chủ phái nữ, chủ vợ hoặc con gái, hiện tại người này là nam mệnh luận hôn nhân đương nhiên là lấy chuyện vợ con để xem. Nếu Thái Âm tinh hóa Kị, quan hệ với vợ tất nhiên chuyển biến xấu, cho nên năm 39 tuổi quan hệ vợ chồng thay đổi theo hướng xấu, hơn nữa Thái Âm hóa Kị thì vợ không muốn nhân nhường nữa, không im hơi lặng tiếng hay uyển chuyển để tìm cầu toàn mà sẽ làm cho phu thê rùm beng. Hơn nữa đồng thời còn có Kình Dương và Đà La của đại hạn càng tăng sự soi xét, liệu nó có đến mức nối giáo cho giặc không, như ví dụ này thì may là không có hình thành góc độ đặc thù ở cung Mệnh với cung Phu Thê của niên tuế, nên là hung lực gây họa không quá lớn.

Bởi vậy, tiểu hạn là cách luận có thể phụ trợ cho lưu niên, khi hai cái này đều hiển hiện hiện tượng nào đó một cách đột hiển thì cái năm này phải đặc biệt coi chừng.

Còn có một số người không phải là dùng tứ hóa mà là dùng “lưu niên tướng tiền chư tinh” để suy đoán sự vật sự việc của lưu niên, có thực có chuyện này hay không? Ta chưa từng thực nghiệm, mọi người có thể đi nghiệm chứng khảo nghiệm, lúc rảnh rỗi có thể viết chuyên thư tới thảo luận, bởi vì chỉ thấy có người nói điểm chút tới mà chưa thấy ai phán đoán suy luận sự kiện tỉ mỉ kỹ càng bằng “lưu niên tướng tiền chư tinh” cả. Vì thế ta suy đoán đây là “hư chiêu” dẫn dụ người vào phương hướng nghiên cứu lầm lối, nếu ta suy đoán sai xin được hoan nghênh chỉ điểm ra chỗ sai.

Cá nhân có cần dùng tiểu hạn như thói quen không, bởi vì y theo trình tự suy lý “Tại Thiên thùy tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự”, nếu lưu niên bàn hoặc tiểu hạn bàn là mắt xích cuối cùng, thừa thụ thùy tượng của tiên thiên mệnh bàn với đại hạn bàn để sự vật thành hình thì hẳn là tượng sự vật cũng sẽ có sự tương đồng. Bởi thế cá nhân người viết để đơn giản hóa trình tự, tránh cho phải điền nhập quá nhiều thứ làm rối hình lá số, không biết làm sao để nắm bắt mà nói cho nên là chỉ dùng lưu niên mà thôi.

(Tử vi mệnh vận phân tích thực lệ – Từ Tăng Sinh. Linh Chi biên dịch)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tử vi đẩu số mệnh vận phân tích thực lệ thiên

Căn Nguyên Sự Thay Đổi Biến Hóa

Vạn Tượng Của Tinh Diệu

Có rất nhiều bằng hữu hỏi về vấn đề tinh diệu, cho rằng tứ hóa phi tinh phái đối với tinh diệu tựa hồ không quá coi trọng, đây là nhận xét cực kỳ sai lầm; nếu tứ hóa là dụng thần của Tử Vi Đẩu Số thì như vậy tinh diệu có thể nói là thần tượng, không phải thần tượng thế dụng thần cũng không có cách nào nương tựa, cho nên tinh diệu là công phu nhập môn để học tốt Tử Vi Đẩu Số. Thế nhưng đối với ý nghĩa và giải thích các tinh diệu, các lưu phái không có cùng thuyết pháp, làm cho người chưa kết luận được, người mới học lại càng phức tạp.

Trên thực tế, chỉ với hơn ba mươi sao muốn phản ánh muôn vàn tượng sự vật của nhân sinh trong cuộc sống thật sự đó là quá trình rất phức tạp; với người toán mệnh thì khi nhìn vào các kí hiệu trên mệnh bàn để suy luận ra các sự kiện mà muốn giải thích như thế nào cho phù hợp với hiện tượng nhân sự thực tế thì sẽ phải luôn cân nhắc, tỉ mỉ diễn hóa mới có thể đi đến sát với thực tế hiện tượng, mà việc cân nhắc diễn biến này trong quá trình suy tính có rất nhiều nhân tố, trong đó có tính chất của sao là cơ sở rất trọng yếu trong luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số.

Tinh diệu trong cơ cấu Tử Vi Đẩu Số đảm nhiệm hiển hiện công hiệu của [hình tượng nhân sự vật], nó phải theo sự biến hóa của cung vị mà thay đổi hình tượng của nó, tinh tú đồng cung cũng sẽ làm tăng tình tiết hình tượng nhân sự vật đó, mà diễn hóa hiệu quả sinh ra có sự mạnh yếu. Do đó, đem tinh tú chuyển hóa thành [hình tượng nhân sự vật] là một sự cần thiết trong quá trình suy tính nhiều phương diện.

Ví dụ như: Thái Dương rơi vào cung Mệnh và cung Điền Trạch thì hình tượng đại biểu không có giống nhau. Khi ở cung Mệnh nó chỉ về tướng mạo, cá tính, ngoại hình của người, giải thích các đặc trưng của người. Khi nhập cung Điền Trạch thì giải thích các cảnh vật có liệ quan đến điền trạch, Thái Dương chính là chỉ các cảnh vật như trạm xăng dầu, đài phát thanh, trạm biến áp, cục viễn thông … cho nên hình tượng nhân sự vật mà tinh diệu sở thuộc đại biểu nó tùy theo sự biến động của cung vị mà chuyển hóa.

Bởi vì tinh diệu có số lượng ít mà nhân thế thì lại hàng ngàn hàng vạn sắc màu khác nhau, cho nên cần có sự kết hợp phụ trợ của những phụ tinh sát diệu khác mà hiển hiện hoặc chuyển hóa ra rất nhiều hình tượng nhân sự vật khác nhau, những hình tượng nhân sự vật này có thể căn cứ tình hình:

  • Vấn đề được hỏi của người hỏi: tìm ra cung vị tương ứng có chuyển biến, bởi vì mười hai cung vị đại biểu hàng ngàn hàng vạn hiện tượng nhân sự, có một số vấn đề sự tượng thực tế không phải là ngày thường gặp phải nên ở khía cạnh lập hướng cũng phải luôn có sự cân nhắc xem xét mới có thể xác định. Sau khi lập hướng, tiếp tục căn cứ tình hình cung vị, sao, tứ hóa để phân biệt hình tượng sự kiện.
  • Suy xét cung vị với tổ hợp sao tọa để diễn hóa: tập trung vào quan hệ phi hóa nhập xung chiếu hợp của tứ hóa bản mệnh, đại hạn một cách rõ ràng để tìm ra điểm xảy ra vấn đề, chủ động đưa ra giải thích.

Muốn phân giải chính xác hình tượng sự vật, thực tế không phải là một xúc có thể đụng, phải trường kì gom góp tích lũy kinh nghiệm và sự từng trải việc đời việc người; cũng phải nắm rõ các quy tắc của mệnh lý, mới có thể vận dụng tốt nhất, nắm giữ trong lòng, người đạo hạnh Đẩu Số cao thâm thường hay có thể một lời nói rõ ra được nỗi băn khoăn của người hỏi mệnh, đạo lý cũng là ở chỗ này.

Người mới học phải hao tốn rất nhiều thời gian để tìm tòi hình tượng sự vật của tinh diệu, thế nhưng trước hết phải học tốt cách vận dụng tứ hóa, không phải là từ trong mười hai cung lấy ra một cung vị nào đó hoặc sao nào đó là có thể phân giải ra hình tượng sự vật. Có thể lấy ra được cung vị lập hướng chính xác thì có thể sử dụng khả năng thống kê phân loại mạnh mẽ của máy vi tính, đem các mệnh lệ vốn có các sự kiện tương đồng quy nạp cùng một chỗ, trải qua học hỏi luyện tập thông thạo có tính hệ thống, đem kết hợp hình tượng nhân sự vật được đại biểu bởi các tinh tú, thì có thể nắm bắt tốt được hình tượng sự vật mà tinh tú hàm ẩn, tiến tới tích lũy chính xác quy tắc suy lý.

Tinh diệu tùy vào các nhân tố như lạc nhập vào cung vị địa chi khác nhau, cung nhân sự khác nhau, hóa tinh khác nhau, tổ hợp tinh tú trong cung khác nhau, chúng đối với tính chất của sao đều làm xuất hiện “thay đổi”, tính chất sao

biến đổi cũng không có giống nhau, được gọi là bốn loại hình thái biến hóa của tinh diệu, cách gọi theo thứ tự là “Chất hóa”, “Loại hóa”, “Dị hóa” và “Hóa khí”, phân loại tên gọi chính xác là “Tinh diệu tứ hóa” và “Thiên can tứ hóa”.

Cái Gì Gọi Là “Chất Hóa Của Sao”

Trong quan hệ của tinh diệu và Địa chi, thì Địa chi có thể ví như là thổ nhưỡng, còn Tinh diệu được coi là hạt giống, hạt giống đó có thể rơi vào các thổ nhưỡng khác nhau, cho nên hạt giống rơi vào thổ nhưỡng thích hợp là có thể lớn lên cao lại khỏe mạnh; còn nếu rơi vào thổ nhưỡng cằn cỗi có hại thì lớn lên nhỏ mà thấp, thậm chí còn có tính độc. Cho nên, Địa chi là chính thể, Tinh diệu là khách thể, đây là điều phải được xác định trước tiên khi phán đoán tinh diệu lạc nhập cung vị sản sinh tác dụng “chất hóa”.

Cường Độ Tinh Diệu Thay Đổi Về Chất

Tinh diệu lạc nhập các cung thì vì ngũ hành của Địa chi sở tại khác nhau, sẽ cùng với ngũ hành của Tinh diệu sản sinh tác dụng tương hỗ mà dẫn khởi chuyển biến về bản chất, mà loại biến hóa này làm cho có sự tăng giảm “tuyến tính” xuất hiện, không phải là chuyển biến thành một loại hiện tượng “đột biến” về tính chất. Bản thân tinh diệu cũng có ngũ hành thuộc tính, mà lạc nhập Địa chi cũng có ngũ hành thuộc tính, ngũ hành của Địa chi và ngũ hành của Sao sẽ sản sinh [tác dụng ngũ hành sinh khắc] mà làm cho tính chất của Tinh diệu có tác dụng được “Cường hóa hoặc Nhược hóa”, dạng đặc tính xuất hiện này được gọi chung là “Miếu hãm lợi vượng”, hiện tượng này được gọi là “Chất hóa”. Trên cơ bản thì mỗi một viên sao đều có hai loại tính chất đặc biệt “Diện hướng”, ví dụ như Thiên Đồng y theo cổ văn nói là “chủ là người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tâm từ thẳng thắn, văn mặc tinh thông, có ý chí”. Đây là đặc tính tích cực, nếu mở rộng đến mặt trái thì cũng có đặc tính “thoái lui, nhu nhược, vô vi, bàn suông, lười nhác”, loại cải biến “Chất hóa” này chính là hiện tượng khiến cho tính chất tích cực và tính chất tiêu cực của tinh diệu được cường hóa hoặc nhược hóa, cũng không thể cho thấy tình hình là cát hay là hung, ví dụ như có người cá tính thì lại thích “thanh bần nhạc đạo, thích ứng trong mọi tình cảnh, tri túc thường nhạc” vui vẻ điềm đạm không mành danh lợi, đối với những người “tranh quyền đoạt lợi, ham hưởng thụ, liều mạng kiếm tiền” đó là điều không hiểu được nhưng đối với đương sự mà nói thì đây là hưởng thụ với phúc báo lớn nhất rồi. Cho nên “Chất hóa” của sao chính là hiện tượng làm cho tính chất mặt tích cực hoặc mặt trái của tinh diệu được tăng lên hay yếu đi, người viết dùng “mặt trái” để hình dung một phía tính chất đặc biệt khác chứ không có hàm ý phủ định, giống như dạng cách gọi điện dương với điện âm hoàn toàn không mang hàm ý cát hung gì.

Bởi thế tinh diệu sau khi trải qua ảnh hưởng “Chất hóa” làm cho tính chất của tinh diệu có thể mạnh thêm hoặc yếu bớt đi, cổ nhân lấy “Miếu hãm lợi vượng” để gọi tên, độc giả có thể đối chiếu tham khảo thêm từ bảng biểu ở trên. Chỉ cần là tinh diệu cư ở các cung trên bản mệnh bàn thì nó có hiệu lực sản sinh hiệu quả cả đời, còn những tinh diệu này nếu là cư ở cung vị đại hạn thì cũng có thể xuất hiện hiện tượng ở trong hạn đó, cũng đều cần xem xét những thay đổi trong bản chất của tinh diệu sau khi bị ảnh hưởng bởi “chất hóa của miếu hãm lợi vượng”.

Sự biến đổi về bản chất của tinh diệu cùng với sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết. Bởi vậy, có thể thấy ngũ hành của cung vị Địa chi và ngũ hành của tinh diệu có quan hệ như thế nào thì cũng biết được định đính “miếu vượng lợi hãm” của tinh diệu như thế , cũng làm thoải mái hơn trong nắm bắt ý nghĩa của chính tinh khi nhập cung, cũng không cần phải nhớ cứng ngắc theo bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu.

Giả như ngũ hành của Địa chi sinh cho ngũ hành của Tinh diệu thì sẽ làm tăng mạnh tính chất tinh diệu, tính chất tốt sẽ được cường hóa, tính chất không tốt tương tự cũng sẽ được liệt hóa mà không phải là tăng mạnh tính chất tốt của tinh diệu.

Ngũ hành Địa chi khắc ngũ hành Tinh diệu thì tính chất của tinh diệu cũng sẽ bị suy yếu, tính chất tốt bị suy giảm, tính chất xấu cũng yếu nhược đi.

Nếu như ngũ hành Tinh diệu sinh cho ngũ hành của Địa chi: bởi vì phải hao phí tinh thần đến sinh cung Địa chi, có sát tinh đồng cung dễ phải tự lo không xong.

Ngũ hành Tinh diệu khắc ngũ hành Địa chi: bết bát hơn, hao tổn tác dụng của tinh diệu, càng sợ có sát tinh nhảy vào, chuyển hóa làm tính chất không tốt có đất phát triển, đây là biến dị của tinh diệu. Tượng, gọi giản đơn là “Dị hóa”, về sau bàn tiếp.

  • Âm, dương tương sinh là hay nhất: âm sinh dương hoặc dương sinh âm, như cung Dần là Giáp Mộc sinh cho Âm Hỏa của Liêm Trinh hoặc Quý Thủy của Phá Quân khi tiến nhập Dương Kim của cung Thân … chính là lấy ngũ hành của cung vị sinh cho ngũ hành của tinh diệu. Giả như ngũ hành tinh diệu tới sinh ngũ hành cung vị thì không có hiệu lực gì, ví dụ như Thủy của Phá Quân lạc nhập tới sinh cho Mộc ở cung Dần thì không phải là tốt, bởi vì chủ khách có khác biệt cho nên Phá Quân nhập cung Dần chỉ là “Đắc địa” mà thôi.
    Thí dụ như: Thái Dương [dương Hỏa] rơi vào cung Mão [âm Mộc], môi trường âm Mộc càng làm cho khi Thái Dương bính Hỏa lạc nhập càng thêm tràn đầy cho nên tính chất tích cực của Thái Dương như chính trực, quang minh, bác ái, giúp người, rộng rãi … sẽ mười phần hiển hiện, bởi vậy người có cách “Nhật chiếu lôi môn” sẽ càng hiển hiện rỗ những tính chất đặc biệt này. Hoặc như Tham Lang [giáp Mộc] thì cung nào có thể tới sinh cho nó? Âm Thủy tới sinh cho [dương Mộc] của Tham Lang thì Tý vị có thuộc tính là âm Thủy, cho nên Mộc của Tham Lang rơi vào Tý vị là vượng, “Tham Lang là thần của họa phúc, chủ người tính cương uy mãnh cơ thâm mưu xa, tùy sóng theo sóng, yêu ghét khó định, cư miếu vượng, gặp Hỏa Tinh quan võ quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục” chính là chỉ Tham Lang Tý gặp Hỏa Tinh là có thể quan võ quyền quý. Bởi vậy, âm Thủy của Tý vị có thể làm tính chất tốt của Tham Lang phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, có thể thành đại cách cục tốt “Mã đầu đới tiễn, uy chấn biên cương”!
  • Dương sinh dương, âm sinh âm: tốt tiếp theo, ví như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Thân [dương Kim], được Kim sinh làm [dương Thủy] mạnh thêm cho nên tinhc chất tích cực của Thiên Đồng cũng có thể thích hợp mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản của Trung Dung đến xem thì có: các đặc tính như trong các quy tắc mọi thứ vẫn được ổn định, không quá cầu danh lợi, tri túc thường nhạc, tâm tính hào phóng rộng rãi… Mặt khác Thiên Đồng [Thủy] ở cung Dần [Mộc] bởi vì phải tổn hao công phu đi sinh Mộc của cung Dần mà tiêu hao năng lượng, nên đặc tính còn hơn Thiên Đồng ở cung Thân, tương đối lười nhác, không tích cực, bị động, thích hưởng thụ một chút … Bởi thế, con đường phát triển của đời người tương đối bị hạn chế, mà lấy đặc tính “Ấm phúc tụ không sợ tai ương” mà nói, khi Thiên Đồng tinh Thân vị có thể gặp hóa cát nếu so với tổ hợp ở Dần vị rõ ràng mạnh hơn, một cái có khả năng hóa giải nhẹ, một cái có khả năng hóa giải nhưng lại mạnh hơn. Cho nên Thiên Đồng lạc nhập cung Dần là “Lợi”, còn lạc nhập cung Thân là “Vượng”, tuy cùng là [Thiên Đồng, Thiên Lương đồng vị] nhưng tính chất vẫn có một chút khác biệt.
  • Âm khắc dương, dương khắc âm: hữu tình, tính chất mặt trái bị áp lực, mặt tích cực cũng bị áp chế, nên khi tính chất tích cực của tinh diệu hiển hiện thì cũng đồng thời xuất hiện cả tính chất mặt trái, loại hiện tượng đồng thời tồn tại như này lánh đi cũng không được mà nhường người ta cũng khó có được vui vẻ như ý. Ví dụ như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Mùi [Thổ] thì Thổ khắc Thủy [dương Thủy] cho nên tính chất tích cực của Thiên Đồng chịu áp lực, tính chất mặt trái cũng sẽ quá độ mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản Trung Dung đến xem, thì có: lười nhác, đa cảm và các hành vi cư xử rõ ràng, vì thế Thiên Đồng rơi vào Sửu Mùi cung, khi Thiên Đồng nhập mệnh hạn nói về cát hung có thuyết “Thiên Đồng nhập Sửu Mùi cung, không đắc địa”, không lấy cát luận, mà các hiện tượng được định hình trong cuộc sống chẳng hạn như là: “có nhiều tâm sự không thể nói với người ngoài, khi mặt đối mặt với mọi người thì lại miễn cưỡng vui cười, có nhiều chuyện không như ý khó có được niềm vui”. Hoặc như Thiên Tướng [dương Thủy] rơi vào cung Tị, Tị là đất vượng của [Hỏa], nên khi đem Thiên Tướng [Thủy] tinh vào đây thì tính chất tích cực của Thiên Tướng không có cách nào hiển hiện, thi triển không được, mà đặc tính mặt trái lại diễu võ dương oai, vốn dĩ là “ngôn ngữ trung thực, gặp chuyện không dối trá, gặp người có khó khăn trong lòng có trắc ẩn, gặp người ác trong lòng giận dữ cảm thấy bất bình”. Tuy rằng đều vẫn còn đó, nhưng lại phát sinh lệch đi, như tinh thần trọng nghĩa quá đà, giống như bang phái phân chia, hoặc không thức thời mà làm náo động khiến chính bản thân bị ảnh hưởng không tốt, đối với vận đồ cuộc sống cũng gặp trở ngại tương đối, hoặc thêm mệt nhọc không thuận lợi nữa, đây hoàn toàn là kết quả chính tinh lạc cung đưa đến.
  • Dương khắc dương, âm khắc âm: vô tình; rất không tốt, làm tính chất thiện lương của tinh diệu chuyển hóa cải biến triệt để, như: Thiên Đồng [dương Thủy] đóng ở cung Tị [dương Hỏa] sẽ làm cho dương Hỏa liệt dương Thủy vô tình, cũng làm tính chất của Thiên Đồng hoàn toàn cải biến, nguyên cớ trong Đẩu Số Toàn Thư nói “Đồng Lương Tị Hợi vị, nam đa lãng đãng nữ đa dâm” là tại sao chứ? Cũng là bởi vì dương Hỏa sẽ làm khô nóng dương Thủy của Thiên Đồng mà khiến cho tính chất mặt trái của Thiên Đồng hoàn toàn phát huy, trở thành lười biếng, có các hiện tượng cẩu thả, háo sắc, ham hưởng thụ, ủy mị không phấn chấn … Bởi vậy cổ nhân mới dành cho người Thiên Đồng ở Tị lời bình như thế.

Ngoại lệ: còn có một số hiện tượng ngoại lệ chẳng hạn như Thiên Cơ [Ất Mộc] rơi vào cung Sửu [Thổ], Thổ tới sinh Ất Mộc của Thiên Cơ hẳn là càng chương hiển tính chất tích cực của Thiên Cơ tinh chứ nhỉ! (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, có lẽ ý tác giả đang chỉ về cây tức Mộc được ở trồng trong đất tức Thổ nên đất làm cây tốt lên) Người nghĩ lầm, không phải là “Thổ sinh Mộc” mà là “Thổ sinh Kim” chứ, nhưng mà Mộc của Thiên Cơ ở trong Thổ tại sao ở bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu lại ghi trạng thái là “Lạc hãm”? Nguyên bởi bốn cung vị Thìn Tuất Sửu Mùi nó thừa tục trạng thái chuyển hoán của cung vị trước nó một cung mà bao hàm ngũ hành khí bên trong của cái cung vị trước ấy, như trong Sửu [Thổ] thì có hàm chứa [Thủy] khí của Tý vị cho nên loại Thổ này giống như “đất ao đầm” hoặc “cát lắng”, về căn bản nó không sinh nổi Mộc của Thiên Cơ, cho nên Mộc của Thiên Cơ khi nhập vào đây dễ tiêu thất nên là lạc hãm. Bởi vậy, tính chất mặt trái trong tính chất đặc biệt chung của Thiên Cơ tinh sẽ được cường hóa mà tính chất tích cực lại bị nhược hóa, Thiên Cơ vốn là tinh diệu thuộc thần trí rõ ràng, cơ trí nhạy bén khi lạc nhập vào đây thì thần kinh trở nên quá nhạy cảm, thần kinh suy nhược, đối với bất cứ chuyện gì hay cử chỉ của ai đó đều sẽ lấy mặt trái suy xét khiến cho bản thân dễ nghi thần nghi quỷ, hoặc là đặc biệt nhạy cảm đối với những sự vật có tính quái lạ, liệu có không? Thì là do tư duy thiếu mạch lạc, lối suy nghĩ rối rắm, không phân rõ nặng nhẹ, thân sơ viễn cận (LC chú: ý chỉ thân cận thì sơ sài mà xa xôi lại gần gũi); nếu là ở đất miếu vượng, ngư ở Ngọ vị không chỉ thần trí rõ ràng, suy nghĩ rõ ràng, trật tự mạch lạc, cơ trí minh mẫn, với nghiên cứu, thi cử hoặc đối nhân xử thế đều có giúp ích rất lớn, đương nhiên cũng dễ trở thành nhân vật trung lưu trong xã hội. Cho nên một số định nghĩa và suy nghĩ của chúng ta về sự miếu hãm của tinh diệu ở trong bảng biểu miếu hãm lợi vượng của tinh diệu còn có một số chỗ không khớp, cái này muốn dựa vào sự ghi nhớ thuộc lòng chẳng hạn như Thiên Cơ Mộc nhập cung Dậu Kim vị thì Ất Mộc của Thiên Cơ chẳng phải là bị Kim ở Dậu khắc chế hay sao chứ? Vậy phải là bị “Lạc hãm” chứ! Tại sao lại là “Vượng” vậy? Cái này không cách nào dùng quan hệ ngũ hành sinh khắc để giải thích được, chỉ có thể dùng định nghĩa về kim thí dụ như là dùng rìu đục để tạo hình cây cối, có thể đem gỗ mục tạo hình nghệ phẩm hoặc gia cụ có giá trị được nâng lên cao trên diện rộng nhằm biểu thị hàm ý cho sự nhập miếu thôi.

Cái Gì Gọi Là “Dị Hóa Của Sao”

Nếu có hai sao ở cùng một cung thì trước tiên cần xem xét quan hệ sinh khắc chế hóa của sao với cung, sau đó cân nhắc ảnh hưởng sinh khắc chế hóa của tinh diệu ở trong đó, thì có thể biết được sự tốt xấu của cung với tổ hợp sao lạc nhập.

Do ảnh hưởng quan hệ tương hỗ được tăng cường hay suy giảm của tổ hợp sao tọa trong cung lúc đó mà làm cho tính chất của sao có chuyển biến, là thông qua tác dụng vật lý, hóa học mà dẫn khởi, hai sao cùng lạc nhập một cung cũng không thể đơn giản lấy quan hệ ngũ hành sinh khắc gia giảm tác dụng ngay lập tức, có một số tổ hợp tinh diệu sẽ sản sinh một vài đột biến làm cho tính chất của sao có sự chuyển biến 180 độ, cái hiện tượng này được gọi là “Dị hóa của sao”.

Ví dụ như: Thái Âm vốn chủ ôn nhu, nhưng [Thái Âm Hỏa Linh đồng vị, ngược lại thành Thập ác] chính là tổ hợp dị hóa điển hình, cũng không phải là Thái Âm [Thủy] bị Hỏa Tinh [Hỏa] sở khắc, chỉ chủ ôn nhu kém vẻ mà thôi, mà là chuyển biến hoàn toàn thành: giỏi về tâm cơ, tính toán, hay đố kị, chanh chua, tính cách đôi lúc hơi vô lý, bởi thế tổ hợp hai sao trở lên phải chú ý tính chất “Dị hóa” nhằm chuyển hoán giải thích cho hợp lý, tổ hợp dị hóa mọi người có thể tìm được ở trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Như: “Thiên Đồng cung Tuất Hóa Kị, Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai”. Người sinh năm Đinh cung Mệnh tại Tuất có sao Thiên Đồng tọa, tình trạng Thiên Đồng là “bình thản”, nếu như Can cung là Canh thì làm cho sao Thiên Đồng trong cung tự Hóa Kị, mà Can năm sinh là Đinh thì làm cho Thiên Đồng trong cung Tuất thành Hóa Quyền, cung Thìn ở đối diện có Cự Môn Kị cũng đứng sóng đôi nhìn chằm chằm vào Thiên Đồng Quyền ở cung Mệnh, vốn dĩ thực lực của Quyền với Kị cứng rắn nhưng tự Hóa Kị lại làm phá hư hết, Thiên Đồng tinh vốn bình hòa nay khí thế yếu ớt vậy sao có thể luận là tốt được đây? Đây cũng là một loại “Dị hóa”, nhưng phải kết hợp cùng năm sinh với Can cung Tứ hóa để khán điểm kỳ lạ trong đó; loại người có mệnh cục như này thường thường “Nhược cực phản cường”, luôn cho thấy sự bền bỉ và tinh thần chiến đấu như siêu nhân luôn nỗ lực phấn đấu dù trong nghịch cảnh mà thu được thành công.

Sự cát tường hay ác của tinh diệu càng không thể chỉ nhìn vào mặt chữ để phán định, ví dụ như sao Thiên Lương (天梁星) không thể vì âm nó gần với “thiên lương” (天良 ) mà cho là rất hiền lành, trái lại thực tế có những lúc lại tỏ ra rất nghiêm nghị khiến cho người khác không thể

chịu đựng được, bởi vì nó là thống soái tinh lãnh đạo chúng nhân, phải công bằng mới có thể làm cho mọi người tin phục, cho dù con cái có phạm sai lầm cũng muốn xử trí cho nên có bao hàm ý cô khắc trong đó.

Vì vậy mỗi một sao đều có tính chất tích cực và tính chất mặt trái của nó, nếu như sát tinh ít thì sẽ biểu hiện mặt hiền lành tốt đẹp, nếu như Kị sát trùng trùng sẽ hiển lộ đặc tính bất lương. Lúc giải thích tính chất của sao không thể quên mỗi một sao thực tế đều tồn tại cùng lúc bên ngoài quang quang bên trong âm ám, mà diện hướng hiển lộ là gì? Tất cần phải xem xét bảng biểu miếu hãm lợi vượng với phụ tinh sát diệu đồng cung.

Cái Gì Gọi Là “Loại Hóa Của Sao”

Tinh diệu bởi vì các cung vị rơi vào, trong đó có một số là lục thân cung, một số cung vị có tính vật chất, cũng có một số cung vị có tính tinh thần, cho nên tính chất của sao nhất định cần tương ứng với cung vị khác nhau mà huyễn hóa ra hình tượng sự vật khác nhau để giải thích, này gọi là “Loại hóa”, cùng với hiện tượng nhân sự vật trong thực tế tương chiếu.

Vấn đề mà người hỏi mệnh đưa ra rất đa dạng hóa, tuyệt không phải mười hai cung với tinh diệu có thể bao quát hết được, ví dụ như: từng gặp có đánh mất một số tiền lớn mà đến hỏi có khả năng có thể tìm về được hay không, sư phụ nói cho họ biết có thể ở gần xung quanh chỗ tủ lạnh thử tìm một chút xem, quả nhiên là tìm được thật, xin hỏi tủ lạnh là viên sao nào đại biểu? Cái này đòi hỏi đến công năng của “Loại hóa”, lại có người hỏi người hướng dẫn giảng dạy cho họ không được tốt? Có thể làm cho ta thuận lợi tốt nghiệp được hay không? Xin hỏi là người hướng dẫn chỉ dạy thì là cung nào hoặc sao nào biểu hiện, vì thế trước tiên phải biết “Lập hướng” hoặc “Lập tượng” như thế nào, sau đó từ trong cung “Lập hướng” lấy ra tinh diệu tới loại hóa tìm được hình tượng sự vật nhằm giải thích cho người hỏi mệnh có thể hiểu được, cái này đương nhiên không phải là tùy tiện xem xét tưởng tượng tới loại hóa, mà cần phải thông qua thống kê thu nạp và phân tích tìm ra “Tinh diệu” cùng “Loại hóa” tương chiếu với vật hoặc sự tình đó. Ví dụ như rất nhiều người đều biết “Kình Dương” là đao giải phẫu, đây là loại hóa, thế nhưng lúc nào thì lấy “Loại hóa tượng” này để giải thích, ứng dụng thì nhất định phải căn cứ vào vấn đề mà người hỏi mệnh hỏi để từ trong mệnh bàn tìm ra cung vị “Lập hướng” rồi từ tổ hợp sao tọa trong cung tới “Loại hóa” thành sự vật sự việc trong thực tế để phân giải hình tượng sự vật sự việc. Cái này trong Tử Vi Đẩu Số là kỹ xảo cao cấp nhất, cũng là kỹ xảo trọng yếu rất hay thường dùng đến, công phu toán mệnh có linh hay không linh cũng phải xem xét đến điểm này.

Gần đây có gặp một vị độc hữu tương đối trẻ tuổi có “Bị người đe dọa, cướp lấy tiền của”, đến xin hỏi phải làm sao từ 12 cung trên mệnh bàn để xác định được cung vị nào xảy ra chuyện?

Có người thì nói nhìn xem có tổ hợp “nhân tài bị kiếp” là [Vũ Khúc Thất Sát Hỏa Tinh] hay không. Đúng! Đây là cách cục giựt tiền, nhưng cũng không phải là tổ hợp bị giựt tiền duy nhất, có một số là gặp phải đối tượng là lưu manh thái bảo ngẫu nhiên tìm tới gây án mà gặp phải, như vậy thì “Bị người khác giựt” với “Lưu manh thái bảo” thì rốt cuộc sao nào nó đại biểu là “Lưu manh thái bảo” chứ? Còn một số cũng có thể như là Dương Đà Hỏa Linh, còn có Thất Sát, Thái Âm Hỏa Linh tổ, Phá Quân, Thiên Đồng gặp Hỏa Tinh … Thật đúng là không dễ gì hiểu thấu đáo sự ảo diệu trong đó để tìm ra tổ hợp tinh diệu của lưu manh thái bảo, nhưng mà nếu biết chút bí quyết trong đó, là có thể “định” ra cung vị suy đoán cát hung, lúc này hiệu quả của Tử Vi Đẩu Số liền có thể được nâng cao rất lớn.

Tinh diệu chúng ta thường dùng tuy rằng chỉ có khoảng hơn ba mươi sao, phối hợp với 12 cung tới loại hóa cho ra được hình tượng sự vật cũng có 384 loại tổ hợp, thế nhưng tái phối hợp quá trình “thùy tượng – thành hình – thành sự” của Thiên Địa Nhân bàn còn có thể huyễn hóa ra càng nhiều hình tượng hơn. Bởi vậy, sự đam mê nghiền ngẫm của toán mệnh thường là mối quan hệ giữa suy nghĩ và suy nghĩ làm thế nào để phân loại thành những thứ phù hợp với tượng sự vật trong hình thái sinh hoạt thường ngày.

Khí Hóa Của Sao

Tinh diệu trải qua tác dụng của Thiên can tứ hóa, làm cho tính chất của sao biến đổi gọi là “Hóa khí”. Ví dụ như trong đàm luận cát hung khi Liêm Trinh nhập Mệnh hạn có: “Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, hóa thứ đào hoa, sát tù tinh, là chủ quan lộc ..”, nói đúng là Liêm Trinh sau khi “Hóa” có chứa tính chất đào hoa, trước khi không bị “Hóa” thì không có đào hoa hoặc có đào hoa nhưng loáng thoáng, rốt cuộc Liêm Trinh vì sao mà hóa vậy? Điểm mấu chốt nằm chính ở Thiên can, Thiên can Giáp làm cho Liêm Trinh hóa Lộc, Thiên can Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị, cả Giáp và Bính đều làm cho Liêm Trinh tinh “Hóa khí” mà huyễn hóa xuất hiện đào hoa nhiều lên. Nếu như cung Phu Thê chủ chưởng về tình cảm, Liêm Trinh hóa Kị là thiên hướng đầy đủ đào hoa nhục dục, bởi vậy dễ gặp họa vì tai tiếng tình dục hoặc quan phi, nên có nói là “sát tù tinh”, đây là tiếp cận vế đầu tiên; cũng là sau khi Liêm Trinh hóa Kị hiện tương mới có, sở dĩ Liêm Trinh hóa Kị trừ đào hoa ra còn sẽ có thể đụng phạm pháp luật, thậm chí không tốt còn bị phán tử hình, cho nên sao này sau khi hóa Kị ác tính rất là nghiêm trọng, nếu là nhân viên công vụ thì mệnh vận rất dễ gặp cảnh bị điều tra hoặc mất chức, nếu là người dân thường cũng rất có thể khẩu khí ẩn nhẫn không đủ mà phạm phải sai lầm lớn. Cho nên Liêm Trinh sau khi hóa Kị nói chung là hiện tượng khí hóa tương đối hung ác.

Mà Liêm Trinh hóa Lộc rất là có nhân duyên đào hoa, là thuộc về đào hoa thuần khiết đoan chính đứng đắn, không dẫn khởi hiện tượng quan phi hoặc thất trinh, trái lại là chính trực, người giữ gìn trật tự cương trực công chính, là người giám sát hoặc nhân viên chấp chưởng điều tra giám sát bên tư pháp. Cho nên hiện tượng “Hóa khí” nếu như là “Hóa Lộc” hoặc “Hóa quyền” hoặc “Hóa khoa” thì thường thuộc may mắn, một khi gặp phải khí hóa là “Hóa kị” sẽ làm cho mặt trái của “Tinh diệu” hiển hiện rất rõ, sao lại gọi là “Mặt trái” mà không gọi là “Ác tính” vậy? Nguyên bởi một số tinh diệu đặc tính mặt trái của nó không phải là ác, thí dụ như sao Thiên Đồng khi hóa Kị thì có hiện tượng hay lười nhác, ẩn nhẫn, không tích cực nhưng lại không làm ác, vì thế chỉ có thể gọi đặc tính “Mặt trái” của tinh diệu thôi. Cái hiện tượng “Hóa khí” này là căn cứ vào [Thiên can], xem người muốn suy đoán là tình cảm hay là sự nghiệp, thì lấy Can cung cung nhân sự tương ứng tới phi hóa, xem là sao nào hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Kị liền có thể huyễn hóa thành hiện tượng sự kiện, cho nên phải thuộc lòng thành thạo [Thiên can Tứ hóa biểu]. Còn có “Khí hóa” có tính chất tác dụng theo thời, khí hóa của đại hạn thì có hiệu quả tác dụng chủ quản trong mười năm, trải qua đại hạn đó thì mất đi hiệu lực, không giống như “Chất hóa” và “Dị hóa” không có hạn chế giới hạn về thời gian tác động, nó tác động đến cả đời giống như địa lôi mai phục trên con đường của nhân sinh, một khi đương sự đụng phải tức thời đã đến và đạp phải nó sẽ nổ tung.

Còn có “Hóa khí” có hiệu ứng tầng tầng tăng mạnh, Tứ hóa của Can cung cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên phi xuất lai sẽ từng tầng cường hóa tác lực, cát lực sẽ được tăng mạnh, hung lực cũng sẽ tăng cường. Bởi vì tác dụng của “Hóa khí” sẽ tùy Tứ hóa của cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hay lưu niên mà tăng giảm lực tác dụng, vì thế nó sẽ có “Thời kỳ phát tác” của nó, một khi tác dụng yếu bớt thì sẽ không phát sinh. Do đó, có thể dùng để kết luận thời kỳ phát tác của sự kiện, mà những cái như “Chất hóa”, “Dị hóa” lại không có được công năng này.

Cho nên một viên sao có bốn loại biến hóa diện hướng, các yếu tố liên quan đến việc tạo điều kiện cho sự thay đổi này đã được thuật ở trên, mong rằng độc giả suy nghĩ sâu xa được bí quyết ở trong đó, để có thể ứng dụng được thuận buồm xuôi gió.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để giải thích tình hình ứng dụng tinh diệu tứ hóa luận mệnh, những thứ khác không có quan hệ tới chủ đề này xin được tạm lược bớt đi.

Chủ nhân ví dụ này nói rằng:

Vào đầu năm năm 31 tuổi (năm Mậu Tý) người bạn trai qua lại với nhau đã được 12 năm rồi mà không hiểu tại sao lại mỗi người mỗi nơi, tình cảm sâu nặng, luôn lởn vởn trong đầu, ngày mùng 5 tết âm lịch thì tự sát, nhưng được Giáp tiên sinh cứu lên, trong những ngày tâm trạng xuống thấp Giáp tiên sinh vẫn luôn ở bên cạnh cổ vũ động viên giúp đỡ tôi, rồi có một ngày đột nhiên nói với tôi rằng: “Rất muốn được chăm sóc cô mọi lúc”.

Làm cho tôi có chút động lòng, nhưng hắn đã kết hôn, tuy rằng vợ chồng bọn họ lúc đó ở chung với nhau không êm thấm, lại vẫn có quan hệ hôn nhân bảo đảm, tôi không quan tâm nhiều danh phận nhưng lại rất sợ bị thương tổn lần nữa, không biết nên làm thế nào cho phải?

Những lời kể cặn kẽ mô tả quá trình tinh thần như mệnh lệ này cung cấp khá nhiều đầu đề nghiên cứu có thể dùng để tham khảo:

  • Vì sao cô ấy có đoạn tình cảm kéo dài được như vậy? Người bình thường thì nói chuyện khoảng ba năm là đã có kết quả rồi, là tinh diệu nào hoặc cái nhân tố gì trên mệnh bàn có thể cung cấp để cân nhắc xem xét sự biểu hiện của tượng này chứ?
  • Tinh diệu nào khiến cho đoạn tình cảm này tan vỡ nhanh vậy?
  • Vì sao tình cảm tan vỡ lại xuất hiện hành vi bản thân muốn kết thúc cuộc đời cơ chứ?
  • Vì sao khi tự sát lại có thể được giải cứu thoát khỏi hiểm nguy?
  • Tại sao sau khi được cứu vớt lại rơi vào lưới tình với người không hợp pháp vậy chứ?

Người viết chỉ là nhắc nhở mọi người nhằm vào mệnh lệ, phải từ trong lời tự thuật thông thường tìm ra bí kíp có thể nghiên cứu nhằm làm công lực của mình được nâng cao lên.

Trước tiên là nói về hiện tượng “Chất hóa”, cho nên trước đem tứ hóa năm sinh lược bớt đi, Thái Âm cư Hợi cung có thuyết “Dậu Tuất Hợi cung nhập miếu, Bính Đinh nhân tài quan cách, cát tinh chúng đại quý”, nhưng người này là người sinh năm Mậu, cũng không hợp tài quan cách, thế nhưng “Sao này thuộc Thủy, là chủ Điền Trạch cung, có phước lành, cung Mệnh có sao này tọa sáng lại có cát tụ tập, lấy hưởng phúc để luận”. Tuy rằng không hợp tài quan cách nhưng cũng có một phần được “hưởng phúc”, mà cung Hợi là Thủy vị, Thủy tinh nhập Thủy vị, thế Thủy càng vượng, “hưởng phúc” là đối với nam nhân thời cổ xưa mà nói vì thường nam nhân có tiền hay nạp thiếp. Nhưng mà thời hiện đại không như thế, huống chi là phụ nữ, vì thế Thủy vượng lại dẫn tới “tình cảm tràn động”, còn như “là người thông minh tuấn tú, tích cách đoan trang tao nhã thuần tường” cũng không cần luận nhiều đến bởi đây là chỉ đơn nhất Thái Âm tinh cư Hợi mà luận.

Thế nhưng còn có một sao quan trọng khác là Thiên Hình, vai trò không kém gì chủ tinh, ngũ hành thuộc Hỏa, [Hỏa] tinh nhập Thủy vị, đương nhiên bị giảm uy, “Thiên Hình thủ Mệnh Thân, không là tăng đạo, định chủ cô hình, không yểu thì nghèo”. Lại nói: “Hình cư Dần thượng tịnh Dậu Tuất, cánh lâm Mão vị tự quang vinh, tất ngộ văn tinh thành đại nghiệp,chưởng ác biên cương bách vạn binh”. Bởi vì là sao này chủ “vũ dũng, cô khắc”, nhưng mà không nhập vị trí miếu ở “Dần Mão Dậu Tuất” thì “vũ dũng” giảm đi mà “cô khắc” lại tăng lên, Thiên Hình kị nhất đồng cung với sao thuộc Thủy, huống chi còn lạc nhập Thủy vị! “Hỏa” tinh làm cho „Thủy” tinh bị giảm uy lực, lại còn bị cái mát của Thủy vị làm cho sức mạnh “vũ dũng” giảm đi. Cho nên tổ hợp Thái Âm với Thiên Hình sản sinh tác dụng “Dị hóa” mà có lời bình “Thiên Hình cư hãm địa được Nhật Nguyệt củng chiếu, cũng chủ phụ mẫu khí dưỡng, nhị tính duyên sinh, vi xướng tác tỳ, hoặc vi thiên phòng vi thiếp, chính thú phản nhi lợi phu tử” cùng với tính chất Thái Âm Hợi cũng có độ biến dị rất là lớn. Đương nhiên, chúng ta đem lời bình của cổ nhân áp dụng vào thời hiện đại thì cần có sự tu chỉnh cho thích hợp, thế nhưng nội hàm tinh thần trên cơ bản là bất biến. Vì thế mới có quá trình “Cùng với chồng người khác phát sinh cảm tình, muốn cùng chung với nhau bất kể danh phận” và “Hay là lấy làm vợ nhỏ” tương hợp.

Tiếp tục tới xem hành động “Khí hóa”, lúc này cần xem “Tứ hóa năm sinh” và “Tứ hóa Can cung”, cho nên trước tiên đem Tứ hóa năm sinh đới nhập.

Hóa Quyền tinh cư ở cung Mệnh: “Chưởng sinh sát chi thần, thủ Thân Mệnh, … hội Cự Môn Vũ Khúc, tất sự đại sự, chưởng ác binh phù, vi nhân cực cổ quái, đáo xử nhân dục kính; nữ nhân đắc chi, nội ngoại xưng ý”. Trên cơ bản, Hóa Quyền tinh cư Mệnh là người có cá tính kiên nghị, lòng tự trọng mạnh, cho nên “nơi nơi đều muốn người tôn trọng” nếu ngươi xem nhẹ hoặc đánh giá thấp lời của y, nhất định y không để ngươi yên. Thế nhưng, phía sau sự kiên cường ấy lại là yếu đuối, ngoài mặt nhìn như mạnh mẽ nhưng một khi gặp sự đả kích lớn phá đi lớp mặt nạ ấy thì y sẽ hiển hiện ra mặt yếu đuối, như nhất thời nghĩ không thông mà tự sát hoặc xung động mà làm chuyện ngốc nghếch … Bởi vì “Hóa Quyền” cũng có hàm ý hành động chấp trước, vừa nghĩ đến sẽ kiếm cách thực hiện, như nàng một khi gặp phải nam nhân yêu thích sẽ quyết một lòng theo hắn vài chục năm cũng không thay lòng đổi dạ.

Cho nên sợ nhất nó gặp phải chuyện xấu xung kích, bởi vì “Chất hóa và Dị hóa của Sao” đều hiển hiện tính chất “Mặt trái” của sao, tình cảm không như ý cũng rất dễ nghĩ đến “phá hủy bản thân”, huống hồ Can cung Phu Thê là Tân vừa lúc làm Văn Xương hóa Kị tới xung cung

Mệnh, làm cho Hóa Quyền tinh chuyển biến trở thành một loại năng lượng phá hủy bản thân, tại sao lại nói như vậy? Bởi vì lúc này Hóa Quyền tinh của cung Mệnh có hàm ý “sĩ diện chết”, cũng làm cho cô ấy miệng nuốt không trôi không buông bỏ được oán khí, mà “Thái Âm” của cung Mệnh cũng chỉ chính bản thân cô ấy, cung Mệnh bị xung rõ ràng là có sự bất lợi cho chính bản thân. Vì thế từ tượng “Khí hóa của Sao” đến xem, chỉ cần tình cảm (cung Phu Thê) không tốt sẽ dẫn phát mệnh tạo có ý nghĩ phá hủy bản thân mình, đó là một kết cấu mang hàm ý có tư duy lệch trong xử lý tình cảm ở cung Mệnh với cung Phu Thê.

Can cung Mệnh là Quý, làm Thái Âm tự hóa Khoa, có người nói Quý làm Thái Âm hóa Khoa mang tính đào hoa, quả thật không sai, thảo nào làm cho thương yêu “chồng của người phụ nữ khác”, nhưng cũng không thể quên nó cũng có tác dụng “gặp dữ hóa lành” cho nên khi tự sát được người khác giải cứu. Hơn nữa, Hóa Khoa tinh cũng có tác dụng “cứu giải” Hóa Quyền tinh làm giảm sự căng thẳng tăng hứng thú thư giãn; bởi thế sẽ đi tìm kiếm giải đáp, bất kể là mệnh lý, tôn giáo, hay là tâm lý học mà không phải là hỏi không rõ ràng lại chui đầu vào trong ngõ cụt. Bởi vậy, lúc này Thái Âm tự hóa Khoa đối với bản thân cô ấy (Thái Âm) là “Khí hóa” tinh rất có lợi, làm cho suy nghĩ xử sự thiên lệch có thể được chuyển biến dần dần tốt lên.

Mà “Loại hóa” của Sao đâu? Phía trước đã có nói nhiều lần, loại hóa “Thái Âm” tinh của cung Mệnh là phái nữ, là mẹ, là con gái, bản tạo là nữ nhân, cho nên có thể nói đây chính là bản thân cô ấy, mà Thái Âm hoá Khoa rõ ràng có nghĩa là “Hóa khoa” của chính cô ấy đã giải cứu được “mối nguy hiểm” của cô ấy và mang lại hiện tượng “Hoặc là lấy làm vợ nhỏ”.

Bởi vậy, khi giải thích mệnh bàn của một người thì độ sáng của tinh diệu chiếm vai trò quan trọng, và độ sáng này có bao hàm những biến đổi ẩn tàng từng tầng khác nhau của tinh diệu, mới có thể hiển hiện sinh động như thật sự đa dạng sắc màu cuộc sống của người. Tinh diệu tuyệt không phải là “cung Mệnh tọa sao nào cá tính ra làm sao”, đặc tính như vậy quá giản đơn, đó chỉ là kiến thức nhập môn cho người mới học Tử Vi Đẩu Số thôi, còn muốn đi sâu nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số thì phải hiểu rõ được tinh diệu đại biểu rất đa dạng sắc màu của cuộc sống, tinh diệu nhất định phải được trao cho các đặc tính nhiều tầng thứ khác nhau hoặc chủng loại khác nhau thì như vậy mới có thể bám sát tượng nhân sự vật trong sinh hoạt của con người. Lúc phân giải mệnh bàn thì cũng mới có thể lấy các hành vi hoặc sự vật trong cuộc sống để thuyết minh, mà sẽ không giống cổ nhân phê mệnh tổng hợp: “Phá Quân nhập miếu thế như sông lớn, chuyên quyền nắm giữ chấn chỉnh tám phương, Thất Sát cạnh cạnh (LC chú: nguyên văn là lăng lăng

  • ý chỉ góc do hai mặt phẳng tạo nên, cả Thất Sát với Phá Quân và Tham Lang luôn tạo thành thế tam giác trên đồ hình mệnh bàn) chủ chính lệnh, Tham Lang chiếu hợp được tương trợ, rõ ràng có sự tương trợ mà không thiên lệch, văn võ đều tài năng có thể ở bên phò tá …”, hành văn có vẻ tuy tốt nhưng ý nghĩa lại dễ làm người khác hiểu sai ý, làm cho người khác như trong sương mù, có xem mà không hiểu được.

Lúc sử dụng Tinh diệu, liên quan đến “Bốn loại biến hoá”, đây cũng là một loại quan hệ của “Tứ hóa”, đây là học tập thiên phú tinh diệu tuyệt đối không nên sao lãng, bốn loại biến hóa

này có sự tương hỗ như Biểu với Lý, cho nên không thể chỉ luận một loại “Miếu hãm lợi vượng” hay là “Tổ hợp tinh diệu”, mà còn phải chú ý đến hiện tượng “Loại hóa” và “Khí hóa” mới có thể làm cho hình tượng nhân sự vật được hiển hiện một cách rõ ràng, mà học tập tính chất của sao chính là phải biết bốn loại biến hóa: Chất hóa, Dị hóa, Loại hóa và Khí hóa của Tinh diệu.

Thức Mở Đầu Tứ Hóa Phi Tinh

Có rất nhiều độc giả gửi thư hoặc điện báo ngỏ ý mua “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích”, nhưng khi nhìn thì thấy phương thức phi hóa với ý nghĩa của tứ hóa còn nhiều chỗ cần phân giải, cho nên hiện tại dùng phương thức minh họa từng bước từng bước để giải thích.

Tứ hóa tinh chia làm: tứ hóa năm sinh, tứ hóa của các cung, tứ hóa đại hạn, tứ hoá lưu niên … mỗi một tứ hóa có sự phân chia thành từng cấp chưởng quản các sự kiện của giai đoạn đó có hiển tượng hay không, cho nên trước tiên phải nắm rõ được phương thức khởi phi và độ dài ngắn thời gian lực tác dụng có hiệu quả của những tứ hóa này.

*Tứ Hóa Năm Sinh

Trước tiên từ “Tứ Hóa Năm Sinh” nói tới, giả thiết có một mệnh bàn nam mệnh như hình trên, người này sinh năm Giáp Tý, bởi vậy căn cứ Thiên can Giáp của “Giáp Tý”, tìm theo bảng thập can tứ hóa thì biết Thiên can Giáp là Liêm Trinh hóa Lộc, thì tìm được Liêm Trinh trong mệnh bàn ở cung Điền Trạch, thì đánh dấu ở chữ Liêm Trinh (có thể dùng khung hoặc vòng tròn đều được); Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân thì ở Phụ Mẫu, thì cũng đánh dấu ngay chỗ sao Phá Quân ở cung Phụ Mẫu; Vũ Khúc hóa Khoa ở Tật Ách, đánh dấu ngay dưới Vũ Khúc; Thái Dương hóa Kị , Thái Dương ở Tài Bạch, ngay phía dưới Thái Dương tinh đánh dấu lại. Chú ý tứ hóa và vị trí tinh diệu không thể hỗn loạn lệch chỗ với nhau, nếu không sẽ không rõ được là sao nào tham gia tứ hóa, hơn nữa sao khác nhau hóa tinh sẽ khác nhau nên ý nghĩa cũng sẽ có sự khác nhau, bởi vậy hóa tinh nên viết ở chính xác vị trí phía dưới của tinh diệu mới là tốt!

Như vậy là có thể biết “Tứ hóa năm sinh” phi nhập vào cung vị nào và sao nào xuất hiện biến hóa, bởi vậy chúng ta có thể nói:

  • Hóa Lộc năm sinh nhập Điền Trạch
  • Hóa Quyền năm sinh nhập Phụ Mẫu
  • Hóa Khoa năm sinh nhập Tật Ách
  • Hóa Kị năm sinh nhập Tài Bạch

Cung vị mà Tứ hóa năm sinh rơi vào, đối với cung vị và sao ở bên trong đó sẽ sản sinh tác dụng “Biến đổi về bản chất”, đặc tính tinh diệu sẽ bởi “Khí hóa” mà bay hơi phát xuất khí “Cát” hoặc “Hung”. Khi vận đồ có sự bay hơi đó sẽ xuất hiện biến hóa, tập trung hướng đến mệnh bàn ví dụ trên, căn cứ vào cung vị Tứ hóa năm sinh lạc nhập có thể giải thích là …

  • Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch: biểu thị mệnh tạo rất lo cho gia đình, quan tâm đến các chuyện lớn nhỏ trong nhà.
  • Phá Quân Quyền nhập Phụ Mẫu: đối với cha mẹ nói chuyện thái độ tương đối thẳng thắn, tương đối sĩ, có lúc hơi to tiếng, nếu không có sự tu sửa thêm rất dễ almf cho người khác cảm thấy mình đối với cha mẹ bậc bề trên không biết lớn nhỏ, không có lễ phép.
  • Vũ Khúc Khoa nhập Tật Ách: dung mạo khi lớn lên nhìn không mập không ốm, hình thể cân xứng, không dễ nhiễm dính bệnh dịch, một khi bị bệnh tật dễ gặp được thầy giỏi thuốc tốt.
  • Thái Dương Kị ở Tài Bạch: tâm tư đều đặt ở tiền tài, làm sao dư tiền? Làm sao tiết kiệm tiền? Làm sao kiếm tiền? Dùng tiền có biểu hiện hay tính toán chi li, dùng tiền không hào phóng, tính toán tỉ mỉ chút một.

Hóa tinh do Thiên can năm sinh phi xuất ra có lực ảnh hưởng lâu dài, đối với mệnh tạo đều sẽ sản sinh tác dụng cả đời, tuy rằng ngày sau giáo dưỡng có thể cải biến đặc tính của người, nhưng trong tiềm thức vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tứ hóa tiên thiên, biểu hiện ở hành vi cử chỉ, mô thức tư duy … trong sinh hoạt hàng ngày.

Cái này giống như là thuyết pháp căn bản thông thường dễ gặp, còn cần đi sâu tham khảo thêm nữa.

Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch:

Có Thiên Phủ với Thiên Diêu đồng cung, với cung Điền Trạch mà nói thì tổ hợp Liêm Trinh, Thiên Phủ là cát lợi. Thiên Phủ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, người hiện đại làm về nông tương đối ít đi, có thể nói rằng điền địa có hiệu quả kinh tế rất cao, khi thêm Hóa Lộc càng tăng thêm năng lực có thể có hoặc nắm giữ bất động sản, có thể thấy được bản thân mệnh tạo có một sự quan tâm mạnh mẽ trong đầu tư về bất động sản, nhưng nó cũng cho thấy tình cảm dành cho gia đình của bản thân mệnh tạo rất sâu đậm, hiển rất rõ, đây là lấy Lộc năm sinh nhập Điền Trạch để luận. Thiên Diêu cũng nhập Điền Trạch, Thiên Diêu là sự vật tốt đẹp, là vật điểm tô cho đẹp hoặc trang sức, đại biểu sự bố trí ở trong nhà tương đối lộng lẫy, hoa văn thiết kế có thể là mời những nhà thiết kế nổi tiếng về thiết kế cho, mua các sản phẩm kỹ nghệ hoặc sản phẩm trang trí về làm đẹp cho căn nhà.

Còn như có thể có nhiều điền trạch hay không hoặc là vì đầu tư bất động sản mà kiếm tiền, do liên quan tới hành động đầu tư và sự tốt xấu của tài vận, nên cần tham khảo thêm các cung vị khác, không phải là chỉ nhìn Điền Trạch mà thôi. Đây chỉ là hàm ý của Hóa Lộc năm sinh nhập cung Điền Trạch.

Mà Can cung Điền Trạch là Mậu:

  • Tham Lang hóa Lộc ở Nô Bộc: Tham Lang là giao tế xã giao, biểu thị rất thích tiếp đón khách vào nhà, thích được chiêu đãi giống như đàm luận cổ phiếu hoặc đầu tư vậy (Tham Lang Hỏa Tinh), mọi người đều được hưởng lợi từ nhau (Hóa Lộc).
  • Thái Âm hóa Quyền ở Quan Lộc: Thái Âm là chủ điền trạch, hóa Quyền là thành tựu, bởi vậy sé đem nhà cửa thu xếp cho sạch sẽ gọn gàng liên tục làm cho người khác vừa nhìn thì tôn sùng người chủ của nhà này, sẽ rất chú ý nhà, quản lý trông nom việc nhà như thế nào cho ổn thỏa, bản thân nghe xong cũng sẽ rất đắc ý (Hóa Quyền).
  • Hữu Bật hóa Khoa ở Thiên Di: Hữu Bật là tình người, ở Thiên Di biểu thị vì quan hệ gia đình nhà mình mà ở bên ngoài có danh dự tương đối tốt.
  • Thiên Cơ hóa Kị ở Phu Thê: Thiên Cơ có hàm ý chỉ biến động với suy tính, bởi vậy vợ chồng đôi bên rất dễ vì chuyện trong nhà mà tính toán chi li, dẫn tới tranh chấp hoặc ẩu đả, vì thế khiến cho bên kia dễ ngoại tình.

Bởi vậy tổng hợp lại các điều thuật ở trên, có người vì sĩ diện mà mời đồng sự hoặc bằng hữu tới nhà ăn uống nhậu nhẹt, bàn luận trên trời dưới bể nhằm chứng tỏ bản thân rất có thành tựu, nhưng lại đem vấn đề dọn dẹp sạch sẽ cho phối ngẫu xử lý, kết quả là quan hệ vợ chồng bất hòa, thậm chí ly hôn, cái này là tổ hợp tứ hóa thôi!

Phá Quân Quyền ở Phụ Mẫu:

Có Lộc Tồn, Linh Tinh đồng cung, Phụ Mẫu phiếm chỉ những người có thể quản thúc ta như thầy cô giáo, cơ quan chính phủ, chủ quản công ty, người có vai ngang với cha của ta … Vì là Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân vốn có tính làm trái, Hóa Quyền càng tăng thêm dạng đặc tính làm trái, không cùng lòng với mình nữa này lên, cho nên khi tiếp xúc nói chuyện với bề trên thì giọng nói hoặc khí thế như muốn đem đối phương đè xuống, bởi vậy dễ làm xung quanh cảm thấy trong từ ngữ như không có tôn ti, không phân biệt lớn nhỏ, nói một câu chặn một câu, dễ lời qua tiếng lại với bề trên dẫn tới tranh chấp. Bởi vậy quan hệ đối đãi giữa bản thân với phụ mẫu cũng không tốt, Phá Quân là tinh diệu vốn chủ làm trái ngược, ý thức bản thân rất mạnh, cho dù cha mẹ yêu cầu rất nghiêm túc, cũng dám đối trị, vì thế thỉnh thoảng xuất hiện xung đột giữa cha con hoặc mẹ con dẫn tới khó có thể dự liệu được kết quả ví dụ như là rời nhà trốn đi hoặc lầm

vào lạc lối, nhưng mà đó là cha mẹ đối với ta là “hà khắc, ngược đãi” hay là “tình yêu thương sâu đậm, trách nhiệm thiết thực” đây? Sẽ khán Tứ hóa của Can cung cung Phụ Mẫu, đơn cử ví dụ mà nói như rất nhiều đầu đảng lão đại xã hội đen đối với con cái của mình vẫn là “Chỉ giới tình thâm” (LC chú: ý chỉ tình thâm nhưng giá trị như tờ giấy), đối với con cái mà nói thì khả năng của cung Phụ mẫu chính là tình hình tề tụ của các trưởng bối bề trên. Thế nhưng tứ hóa của Can cung Phụ Mẫu cũng phi bố (LC chú: phi là phi hóa, bố là bài bố) đến trong tam phương của mệnh bàn, thì có thể phán đoán tình cảm của phụ thân đối với hắn rất là sâu đậm.

Nhưng nếu Hóa Lộc ở cung Thiên Di thì lại có chút khiếm khuyết, bởi vì cha mẹ sẽ không có nhiều biểu hiện quan tâm thương yêu con cái ra bên ngoài mà chỉ len lén quan tâm cho nên con cái sẽ không cảm thụ được sự thương yêu của cha mẹ mà có hồi báo, sẽ khán Tử nữ Mệnh cung cung Can tứ hóa (LC chú: dòng này dịch nguyên văn, không rõ ý tác giả chỉ về việc khán ở hành hạn hay đang nói ở trên nguyên cục, nếu nói ở nguyên cục thì có điểm không được khớp về Can cung, độc giả lưu ý), như ví dụ này “Phá Quân Quyền, Lộc Tồn, Linh Tinh” thì cha nhất định là người rất quả quyết táo bạo, độc đoán độc hành, nhưng con cái thì lại vẫn hay tranh luận với cha mình.

Nhưng Tứ hóa của Can cung – Bính:

  • Thiên Đồng hóa Lộc  – lạc nhập Thiên Di àchiếu cung Mệnh.
  • Thiên Cơ hóa Quyền  – lạc nhập Phu Thê à chiếu Quan Lộc
  • Văn Xương hóa Khoa – lạc nhập Nô Bộc
  • Liêm Trinh hóa Kị– lạc nhập Điền Trạch

Hóa Lộc Hóa Quyền phi nhập “chiếu” tam hợp của cung Mệnh, bởi vậy tuy rằng cha mẹ đối với mệnh tạo tương đối nghiêm khắc, nhưng mà xuất phát từ tâm thái trách nhiệm thương yêu thiết thực mà không phải là ngược đãi. Đương nhiên, quan hệ giữa mệnh tạo với cha mẹ về sau tương đối gần gũi thân thiết, sẽ không vì cha mẹ nghiêm khắc đối với mình mà có sự xa cách, cái này là hiện tượng cát lợi.

Vũ Khúc Khoa ở Tật Ách:

Hóa Khoa năm sinh tiến nhập vào trong cung Tật Ách, đại biểu thân thể cá nhân lớn lên tương đối cân xứng, không cao không lùn không mập cũng không ốm, hơn nữa không dễ mắc bệnh, cho dù sinh bệnh cũng có thể khám và chữa trị đúng lúc mà khỏi bệnh, thời khắc nguy hiểm trí mạng kề bên cũng có thể chuyển nguy thành an, đây chỉ là hiện tượng có “Hóa Khoa” ở Tật Ách. Còn như tổ hợp sao tọa ở trong cung cũng có ảnh hưởng, ở ví dụ này: Vũ Khúc Khoa, Vũ Khúc là khí quản, cũng bởi hóa khí thành Khoa cho nên khí quản không dễ mắc bệnh. Đồng

cung còn có Thiên Tướng, Văn Khúc đều thuộc tinh diệu cát lợi, bởi vậy không dễ bị mắc phải tật bệnh ác tính khó trị liệu.

Thế nhưng hệ thống tiết niệu sẽ tương đối kém, hiển hiện ra ngoài chính là thường xuyên đi tiểu hoặc tiểu khó, cảm giác giống như rất khó loại bỏ sạch sẽ, đôi lúc cứ giọt giọt khiến hổ thẹn, đây chính là nhược điểm về thể chất do tiên thiên mang tới.

Can cung Tật Ách là Nhâm:

Khiến cho sao Vũ Khúc trong cung Tật Ách hóa thành Kị, mới vừa có nói qua Vũ Khúc chỉ khí quản, hóa Kị đương nhiên khí quản sẽ nhược hóa, có hiện tượng dị ứng mũi hoặc thở hổn hển, nếu đã có Hóa Khoa bảo hộ thì có còn mắc những chứng bệnh như thế hay không? Đáp án của ta là – có, không cách nào tránh được, bởi vì Vũ Khúc Hóa Khoa đã bị Vũ Khúc Hóa Kị phá hủy, trái lại còn làm cho bệnh tình càng khó trị liệu, đây là quan hệ tứ hóa có hàm ý “kéo dài dây dưa”, cảnh ngộ tốt cũng không được mà xấu cũng không đến nỗi chết, với sự khống chế trong phạm vi có thể, lại tật bệnh đeo bám nhiều năm, tạo thành sự quấy nhiễu phức tạp đối với cuộc sống của mệnh tạo mà thôi.

Thái Dương Kị ở Tài Bạch:

Kị tinh năm sinh có hàm ý khiếm khuyết, thiếu khuyết hoặc mong cầu chưa đủ, ở Tài Bạch đương nhiên sẽ biểu hiện ra những tính chất đặc biệt này, tỷ như vì là không có tiền cũng rất keo kiệt, hoặc mong cầu nhưng không đủ mà liều mình kiếm tiền, nhưng cuối cùng vẫn cảm giác mình không có tiền, đây là hàm ý được gọi là “Thiếu nợ Kị” của Kị năm sinh, thiếu nợ ở “Tài Bạch” nên phải nỗ lực kiếm tiền để trả nợ, bởi vậy khiến cho bản thân tận lực kiệt sức. Tiếp tục nhìn đến tính chất của sao thì Thái Dương chủ bác ái, Thiên Lương là thiện cho nên tiền tài của bản thân thì cam tâm tình nguyện vì người mà hao tổn ở phương diện phụng sự hoặc làm việc thiện, là “mang tiền của mình đi giúp đỡ người khác”. Hơn nữa Thái Dương chủ nam nhân, là phu tinh, mà mệnh tạo lại là nam nhân, cho nên tiền tài bản thân kiếm được không nhiều lắm hoặc vì tiêu xài nhiều mà hết, khả năng chi phối vận dụng tiền tài của bản thân không nhiều, cũng có khả năng tiền tài của bản thân bị người thân là nam giới phá. Vì thế gặp phải người thân thuộc là nam giới tới vay tiền thì phải đặc biệt coi chừng, làm theo khả năng, không nên để tài lực bản thân bị thương tổn.

Tiếp tục tới nhìn tứ hóa của Can cung là Quý thì:

  • Phá Quân hóa Lộc nhập cung Phụ mẫu
  • Cự Môn hóa Quyền nhập cung Thiên Di
  • Thái Âm hóa Khoa nhập cung Quan Lộc
  • Tham Lang hóa Kị nhập cung Nô Bộc

Hóa Lộc, Quyền, Khoa cũng không có hình thành nên góc độ tam hợp cho nên tác dụng là nhỏ, sự trợ giúp đối với bản thân không lớn, mà Tài Bạch hóa Phá Quân Lộc nhập Phụ Mẫu, mà phụ mẫu là gì vậy? Đem Nô Bộc coi như cung Mệnh thì Phụ Mẫu chính là cung Tài Bạch của Nô Bộc, mà Tài Bạch của ta hóa Lộc tiến nhập Tài Bạch của Nô Bộc, hàm ý chính là “tiền tài của ta tiến nhập vào túi của bạn bè” mà Tham Lang hóa Kị lại ở Nô Bộc cũng có hàm ý là tiền tài bay đến chỗ bằng hữu, đem hai loại tứ hóa này tổng hợp lại để đồng thời khán, tại sao phải tổng hợp để khán? Bởi vì “Lộc tùy Kị tẩu”, tiền mang cho bằng hữu có đôi khi được hồi báo rất hậu hĩnh, thế nhưng ở ví dụ này thì phi hóa Lộc hóa Kị đều ở cung Nô Bộc và cung Tài Bạch của Nô Bộc, rất rõ ràng tiền tài đều đến phía bằng hữu, nếu dùng từ để giải thích phù hợp theo hiện tượng xã hội nay hàm ý chính là bị “Lừa đảo”. Bởi vậy, qua lại với bằng hữu có liên quan về tiền bạc phải đặc biệt coi chừng cẩn thận, tránh tường hợp tiền không có mà bằng hữu cũng mất. Vì thế có bằng hữu tới vay tiền thì nên thoái lui, hoặc là chỉ cho mượn chút ít thôi, tránh cho hao tổn tới mức quá nặng.

Phía trên đây là nói về quan hệ của tứ hóa năm sinh và tứ hóa cung vị tiên thiên, vận đồ đại hạn cũng sẽ cùng với tứ hóa cung vị tiên thiên và tứ hóa năm sinh hình thành góc độ “hiệu

ứng” sản sinh ra loại phản ứng nào đó, đây là biến hóa của “vận đồ”. Mệnh bàn tiên thiên là thùy tượng, là đặc điểm bẩm sinh, khi còn nhỏ thì tuân theo khuôn phép của trẻ nhỏ, sau khi lớn lên phần nhiều vẫn là tuân theo pháp luật, khi còn bé có thể bướng bỉnh gây sự, sau khi lớn lên đại để phần nhiều dễ vi phạm pháp luật hơn. Bất quá cũng không dám nói, cũng có một số ít chuyển biến, cho nên tiên thiên mệnh chính là quan sát mức biến hóa của vận đồ tương lai, ở Đẩu Số xưng là “thùy tượng”.

*Tứ Hóa Đại hạn:

Vận đồ chính là cung Mệnh đại hạn chuyển động mà 11 cung vị khác cũng theo đó mà chuyển dời mà hiện tượng khởi phục tiêu trưởng các hạng sự vật được sản sinh, cái này phải thông qua quan hệ giữa mệnh bàn đại hạn và mệnh bàn tiên thiên để quyết định trạng thái “khởi phục tiêu trưởng”, cho nên trước hết phải đem mệnh bàn tiên thiên y theo đại hạn chuyển dời thành đại hạn bàn cục, phải chuyển dời như thế nào chứ?

  • Quyết định là “âm nam dương nữ” hay là “dương nam âm nữ”, nếu âm nam dương nữ thì chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ, nếu dương nam âm nữ thì chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Xem Thiên can năm sinh là gì: các can Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là can dương, các can Ất Đinh Kỉ Tân Quý là can âm, ví dụ như người nam sinh năm Giáp Tý thì can trong đó là dương cho nên là dương nam và đại hạn sẽ theo chiều thuận của kim đồng hồ mà chuyển dời.
  • Quyết định thời điểm bắt đầu và kết thúc một đại hạn: xem mệnh bàn thuộc cục số nào, như ở ví dụ trước có nói là Thủy nhị cục, cho nên bắt đầu từ 2 tuổi, mỗi khi gặp 2 thì đổi đại hạn, như 2 ~ 11 tuổi là đại hạn thứ nhất, 12 ~ 21 tuổi là đại hạn thứ hai, 22 ~ 31 tuổi là đại hạn thứ ba … còn lại cứ loại suy thôi.

Như ở ví dụ người nam ở phía trước sinh năm Giáp Tý (1984) đến năm Mậu Tý 2008 là được 25 tuổi tính cả tuổi mụ, cho nên cung Mệnh đại hạn đã tiến vào cung Mão, bởi vậy đại hạn bàn cục thứ ba trở thành một mệnh bàn mới.

Để có thể vừa xem thấy ngay, giảm thiểu phức tạp, đại hạn mệnh bàn chỉ giữ lại ba cung là cung Mệnh đại hạn, Quan Lộc đại hạn và Tài Bạch đại hạn, còn lại toàn bộ bỏ bớt đi không viết, nhưng không phải không chọn dùng, như khán vận đồ tử nữ thì vẫn phải mượn dùng cung Tử Nữ đại hạn.

Tứ Hóa Của Các Cung Vị Đại Hạn Bàn:

Trước tiên nói rõ tứ hóa đại hạn bàn cục phải phối hợp với tứ hóa tiên thiên bàn cục, xem xét góc độ hình thành giữa chúng để quyết định cát hung. Vì hóa thì nhiều cho nên chỉ nói giản lược về hóa cung Mệnh, 11 cung vị khác có thể phỏng theo phương thức này, tham khảo sách này hoặc trong “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích” có tiết lộ về kỹ thuật và ví dụ luyện tập tương tự.

Đầu tiên, trước quan sát tình trạng tổ hợp tinh diệu của tam hợp cung Mệnh đại hạn, xem có hóa tinh năm sinh tiến nhập hay không, liền có thể nắm được đại khái tình hình đại hạn.

Như cách cục ở Mão hạn của ví dụ này: cung Mệnh đại hạn có Kình Dương tọa, đối cung có Thái Dương Kị, Thiên Lương, Kình Dương của cung Mệnh thì cũng cho thấy ở đại hạn này dễ gặp tai họa đến bất ngờ, lại gặp phải Thái Dương mà Thái Dương chủ nam cũng chủ quan lộc. Vì thế đại hạn này sự nghiệp tất sẽ dễ gặp chèn ép hoặc trắc trở hoặc dễ gặp phiền phức với quan trên dẫn đến không thuận lợi lên chức giành được trọng dụng; bản thân cũng phải cẩn thận chú ý kẻo thương tổn, cả hai sự việc lớn này đều sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự bình thuận của vận đồ đại hạn này. Đặc biệt Thái Dương vì là Kị tinh năm sinh cho nên mười năm vận đồ của đại hạn này đều sẽ bị ảnh hưởng,

Mệnh bàn Đại hạn

Đại cục một năm vận đồ tùy tổ hợp tinh diệu đại khái cũng có thể sáng tỏ được năm sáu

Trở lại lấy Thiên can Đinh cung Mệnh đại hạn phi tứ hóa:

  • Thái Âm hóa Lộc nhập Quan Lộc nguyên cục (Phúc Đức đại hạn)
  • Thiên Đồng hóa Quyền nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)
  • Thiên Cơ hóa Khoa nhập Phu Thê nguyên cục (Tài Bạch đại hạn)
  • Cự Môn hóa Kị nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)

Cung vị mà những hóa tinh này phi nhập là cung nào đó trên mệnh bàn tiên thiên lại là cung vị đại hạn sau chuyển dời, vậy phải lấy cái nào làm chuẩn?

Đương nhiên, phải lấy tiên thiên mệnh bàn làm chuẩn, nhưng có một số trường hợp đặc biệt lấy đại hạn bàn làm chuẩn, trước nhớ kĩ, “tứ hóa đại hạn phải hóa nhập tiên thiên mệnh bàn” mới tốt, đối tượng của “hóa nhập” này bao gồm bốn viên hóa tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kị. Chỉ có Lộc, Quyền hóa nhập tiên thiên mệnh bàn, khí thế tương đối ảo, không qua nổi bấp bênh thăng

trầm, một khi gặp phải suy bại thường thường những thứ sở hữu đều tổn hao, không có cách nào khác bảo tồn. Giả như chỉ có Lộc, Khoa hóa nhập mệnh bàn là “tiền văn nhã”, như dựa vào thanh danh của kỹ nghệ chuyên môn nào đó để kiếm tiền, hoặc là tác gia nổi danh … Mà hóa Quyền, Khoa nhập tiên thiên mệnh bàn, chính là dựa vào năng lực chuyên môn để kiếm tiền, nhưng khổ cực hơn so với tổ hợp Lộc, Khoa; với Lộc, Quyền, Khoa mà nói khi gặp phải ngăn trở xung kích thì vì có Khoa tinh bảo hộ cho nên có thể hóa giải nguy nan, vượt qua cửa ải khó khăn. Nếu là tài vận sẽ không đến nỗi phải bồi thường sạch trơn, túi trống rỗng như lúc đi tắm, chí ít còn có thể bảo tồn nguyên khí, chờ mong tương lai có cơ hội chuyển biến thừa cơ gây dựng lại.

Tại sao viết hai cái Lộc chồng lên nhau vậy? Bởi vì tứ hóa của cung Mệnh đại hạn và cung Mệnh tiên thiên vừa vặn trùng điệp ở một chỗ, vốn có tác dụng “gia thừa”, tốt xấu đều sẽ gấp bội, Hóa Kị của cung Mệnh tiên thiên và hậu thiên đều ở cung Thiên Di, hình thành “Kị xung cung Mệnh”, cũng chính là bàn cục có cách “Hóa Kị của cung Mệnh đại hạn tới xung cung Mệnh tiên thiên”, mà “cung Mệnh tiên thiên hóa Kị nhập cung Thiên Di” hình thành “Song Kị xung Mệnh”,

bởi vậy, một viên Kị tinh xung Mệnh có chút phiền phức nhưng còn có thể chịu đựng được, nhưng hai viên Kị xung Mệnh thì phải cẩn thận, rốt cuộc là phải cẩn thận “chuyện gì” đây chứ? Nếu là “xung cung Mệnh” đương nhiên có tương liên đến sinh mệnh của ta rồi, làm không tốt sẽ có nguy hiểm tới tính mệnh, mà cung Mệnh đại hạn là cung Phúc Đức tiên thiên, trong đó cung Phúc Đức nó chủ chưởng trạng thái tinh thần của cá nhân cho nên là bởi vì trạng thái tinh thần mà nguy hiểm tới tính mệnh, các vấn đề về trạng thái tinh thần ví dụ như tự sát, làm chuyện điên rồ, ma quỷ nhập thân, bệnh tâm thần … Như ở ví dụ này mệnh tạo là vì mắc chứng u buồn mà có khuynh hướng không biết thương xót bản thân mình, nhưng mà Hóa Lộc, Quyền, Khoa của mệnh tạo khá tốt đều tập trung ở tam phương mệnh cục vì thế có tác dụng gặp dữ hóa lành, hai lần định tìm đến tự tử đều được người phát hiện hoặc tìm người khác thổ lộ hết mà giải tỏa giác ngộ được.

Cho nên những cái khác như “Thiên Cơ hóa Khoa, Thái Âm hóa Lộc” hội chiếu ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, Thiên Đồng hóa Quyền ở Thiên Di đều ở trong tam phương tứ chính của cung Mệnh, đại biểu khí thế của cung mệnh còn rất cường vượng, vì thế mặc dù có Cự Môn Kị xung, vẫn có tác dụng bảo hộ, nếu như không có ba tam cát hóa tinh này nhập trong tam phương tứ chính cung Mệnh, như vậy người này cũng rất có khả năng “hồi khứ” rồi. (LC chú: hồi khứ ý chỉ sự quay trở về, trở lại, có thể có rồi mất, lên cao rồi rơi xuống …)

Mệnh lệ này tại sao lại mắc chứng u buồn vậy? Cái này phải xem hóa tinh, tới xung cung Mệnh chính là “Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị”, Thiên Đồng hóa Quyền là muốn “Có biểu hiện, không chịu thua kém, nơi nơi đều muốn cầu hoàn mỹ” còn Cự Môn hóa Kị chính là “Khẩu thiệt thị phi, lời đồn chuyện nhảm”, cho nên trong công tác đều rất nỗ lực chăm chú nhưng kết quả lại nghe được một số lời châm chọc chê cười, vì thế mới mắc chứng u buồn, trải qua trị liệu dược lý với tâm lý nhằm kiềm chế mới có thể từ từ hồi phục.

Như vậy góc độ hình thành của tứ hóa đại hạn ở ví dụ này ở mệnh bàn tiên thiên có phải là cách cục “Tam kỳ gia hội” hay không vậy? Cũng có thể coi là cách này, nhưng lại không có cách “Tam kỳ gia hội” của tiên thiên tới tương hỗ chiếu rọi, chỉ có đại hạn thành cách mà thôi, khó coi là “cát tường” được, chỉ bất quá làm cho y ở đại hạn này bình ổn một chút mà thôi, cho nên mắc chứng u buồn còn có thể đi đến bác sĩ khám và chữa bệnh, không phải đại hạn cung Mệnh độc tọa một viên sát tinh Kình Dương lắm khả năng sẽ áp dụng thủ đoạn phá hủy bản thân.

Bởi vậy, “Tứ hóa đại hạn phải chiếu xạ đến Mệnh bàn tiên thiên” xem có hình thành góc độ đặc thù :

  • Tam kỳ gia hội
  • Xung
  • Chiếu
  • Hội
  • Nhập

hay không, mới có thể xuất hiện hiệu ứng “Cát hung”, đương nhiên còn cần xem xét cân nhắc nhân tố “Tổ hợp tinh diệu” mới có thể, không được phép chỉ nhìn một nhân tố liền võ đoán quả quyết, người viết vẫn hay nhấn mạnh phải “tổng quan toàn cục” thì mới có thể “khái quát toàn cảnh”.

Người viết từng thấy trong một cuốn sách có nói rằng “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Đại hạn bàn cục” tới quan sát cát hung, này là sai lầm, đại hạn bàn là một bàn mượn dùng một đại hạn chuyển dời, toàn bộ đại hạn bàn cũng chuyển dời theo đó. Tiếp tục căn cứ quy tắc suy lý “Thiên địa nhân” bàn, đại hạn bàn trưng tượng đột hiển sẽ ứng nghiệm ở “Lưu nguyệt”, cho nên chuẩn xác mà nói thì phải là “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Lưu niên bàn cục” mới đúng. Quan sát đại hạn tứ hóa có hình thành góc độ hiệu ứng “Tam hợp, xung, chiếu, hội, nhập” có ở lưu niên bàn cục hay không, thì mới có thể suy đoán tiếp lưu nguyệt ứng nghiệm. Bởi vậy nếu không biết quan hệ ở trong đó, một cung có ba tầng ý nghĩa: cung tiên thiên bàn, cung đại hạn bàn, cung lưu niên bàn, nếu không nắm được quan hệ “Phụ thuộc” trong đó, cũng không biết phải tách xuất ra từng tầng để phán đoán suy luận cát hung.

Bởi vậy đại hạn là một trạm kiểm soát trọng yếu, nó muốn hướng lên tiên thiên tiếp nhận thùy tượng sự vật để sau đó giao cho lưu niên để hiển hiện tượng nhân sự vật của sự kiện.

Mệnh bàn Lưu niên

Nếu như trạm kiểm soát này mất liên lạc thì “Sự kiện” không cách nào có thể hình thành được, vì thế mỗi mười hai năm đi qua cái cung đó không nhất định sẽ phát sinh “sự kiện”. Mà là đại hạn đòi hỏi phối hợp mới có thể thành sự, đại hạn là một trạm chuyển tiếp dẫn dắt trọng yếu, khai triển công năng xe chỉ luồn kim làm cho sự kiện từ thùy tượng mà thành hình thành sự một mạch tương thừa, sự kiện mới phát sinh. Vì vậy, trọng điểm phải quan sát của tứ hóa của đại hạn bàn cục là:

  • Một: đại hạn và tiên thiên bàn cục có hình thành góc độ đặc thù gì không?
  • Hai: nếu như có hình thành một góc độ đặc thù của sự việc hạng mục nào đó mà có khả năng ứng nghiệm thì tra xem quan hệ của đại hạn bàn cục và lưu niên bàn cục để tìm ra năm ứng nghiệm.

*Lưu Niên:

Phi bố Lưu niên Tứ hóa Mệnh bàn

Như vậy thì “Lưu niên” lúc suy luận mệnh bàn thì nó có vai trò gì? Tứ hóa có hiệu lực và tác dụng gì không? Thông thường người ta khi toán mệnh thường hay phân giải cát hung lưu niên, căn cứ quy tắc suy luận Tử Vi Đẩu Số là từ “Tiên thiên mệnh bàn” để khởi điểm “Đại hạn mệnh bàn” làm trung gian dẫn dắt quan hệ “Xung chiếu hội nhập” làm chất xúc tác để dẫn phát sự kiện mà ứng nghiệm trong “Lưu niên bàn cục”. Cho nên lưu niên bàn là một “Thụ thể” tiếp nhận góc độ đặc thù hoặc sự diễn hóa tính chất của tinh diệu ở trên tiên thiên và đại hạn mệnh bàn mà làm cho sự kiện xuất hiện. Bởi vậy, giai đoạn lưu niên chủ yếu là quan sát góc độ hình thành của tứ hóa giữa tiên thiên với đại hạn bàn mà suy đoán lưu niên ứng nghiệm, do đó vai trò của lưu niên đã trở nên rất rõ ràng.

Tuy nhiên chưa chắc nó đã hoàn toàn là như vậy, bởi vì góc độ mà tứ hóa cấu thành của tiên thiên với đại hạn bàn nó không chỉ đơn giản có “Tam kỳ gia hội, xung, chiếu, hội, nhập” thôi, còn có một số không thể hoàn toàn quy nạp vào năm loại góc độ đặc thù này, lúc này cần ánh tượng của “Tứ hóa lưu niên” tới đột hiển sự kiện, lúc này cũng giống như Cung Can khởi phi tứ hóa của Cung “Lập tượng”, xem xem góc độ phân bố trên mệnh bàn có hình thành các góc độ với tiên thiên hoặc đại hạn hoặc tứ hóa đã thuật ở trên hay không nhằm quyết định xem hiện tượng là cát hay là hung.

Như ví dụ người sinh năm Giáp Tý thuật ở trên, năm 22 tuổi (năm Hợi) vừa lúc tiến nhập vào tuyến có Thiên Cơ hóa Khoa và Thái Âm hóa Lộc, cũng là tuyến Quan Lộc – Phu Thê, cái này nó đại biểu hàm ý gì? Biểu hiện trong lòng hắn muốn có thành tích về phương diện sẹ nghiệp, một loại tư duy muốn có biểu hiện; thế nhưng Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị

  • cung Thiên Di lại xung đến cung Mệnh, cũng là vị trí cung Phúc Đức của lưu niên năm 22 tuổi, mà Thiên Đồng và Cự Môn có hàm ý có sự tự mâu thuẫn. Hơn nữa cung Mệnh còn có Đà La tinh cũng là tinh diệu nhìn trước ngó sau, do dự không quyết, rất muốn thể hiện nhưng lại do dự, đó không phải là tự tìm khổ não hay sao? Bởi vậy tình huống như này dễ mắc chứng u buồn.
  • ví dụ này mà nói thì lưu niên Hợi chỉ là tiếp nhận kết quả của tiên thiên với đại hạn, mà ứng nghiệm ở năm Hợi, mà hoàn toàn không cần phải đi xem xét tứ hóa năm Hợi rốt cuộc là phân bố ở tiên thiên bàn cục hoặc lưu niên bàn cục.

Nếu muốn phi bố lưu niên Mệnh cung tứ hóa cũng có thể làm cho bàn cục thêm rõ ràng:

Dùng hình bát giác đóng khung ở chính chỗ tứ hóa lưu niên (LC chú: ở đây tác giả dùng hình bát giác để làm dấu phân biệt tứ hóa lưu niên, còn chúng ta có thể tùy chọn dùng hình hoặc kí hiệu khác nào đó để phân biệt cũng được), bởi vì mệnh bàn quá nhỏ cho nên đem Lộc và Kị của Thiên Cơ với Thái Âm viết sang hai bên trái phải, sau khi cộng thêm vào thì càng nhìn ra rõ ràng mâu thuẫn Lộc Khoa Kị ở trên tuyến Quan Lộc – Phu Thê này. Rất nhiều người sẽ vì cái này mà không biết rõ là pahir giải thích hiện tượng này như thế nào. Trước tiên, cung Mệnh là trạng thái nội tâm của “Ta”, hóa Lộc Quyền Khoa Kị của tiên thiên cùng đại hạn của “Ta” đều ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, biểu thị bản thân rất có lòng có ý thức trách nhiệm với sự nghiệp, nhưng mà Thiên Đồng hóa Quyền tại Thiên Di chủ về muốn thể hiện để giành được sự tôn trọng hoặc được coi trọng lại có một viên Cự Môn hóa Kị tinh làm cho những lời thủ thỉ hoặc lời đồn chuyện nhảm gây tổn hại đến danh tiếng khiến “Ta” canh cánh trong lòng sự nghi ngờ, đối với bản thân có áp lực rất lớn. Cho nên đây là hiện tượng “mong muốn được thể hiện mà đồng sự lại ngầm hãm hại mà dẫn đến tinh thần gặp áp lực khiến sự tình thêm phức tạp”,

Hiện tại hóa Lộc Quyền Khoa Kị của lưu niên cũng phi nhập vào trong tam phương mệnh bàn tiên thiên; Thiên Cơ hóa Lộc của lưu niên ở Phu Thê, Thái Âm hóa Kị thì ở Quan Lộc, bàn cục xuất hiện “Lộc – Kị giao xung” làm cho “tinh thần áp lực khốn nhiễu” đã nói phía trước cộng thêm chất xúc tác từ Thái Âm hóa Kị càng làm cho lực ảnh hưởng tăng mạnh thêm khiến cho “Ta” không chịu nổi mà phá lên. Lúc này sẽ xin thầy thuốc giúp đỡ, như thế trong lưu niên bàn cục có thể nhìn ra cái chất xúc tác này từ đâu đến đâu không? Đương nhiên có thể, chẳng phải Tử Vi Đẩu Số muốn “Xu cát tị hung” giúp người đó sao, đương nhiên phải tìm được “nguồn khởi điểm tai họa” mới có thể nhắm đến mục tiêu cải sửa, không phải là xin giúp đỡ “Khai vận giới” hay “Đổi vận thạch” một cách mù quáng là có thể có hiệu quả! (LC chú: khai vận giới với đổi vận thạch ở đây theo từ gốc thì ý chỉ những lời răn cấm, sự phòng bị chưa hẳn đã khai mở được vận, đeo vòng đá chưa chắc đã chuyển được vận hoàn toàn) Trước tiên căn cứ vào tâm lý học mà nói, căn cứ vào thống kê cho thấy một cá nhân bị hai loại stress cũng một lúc biểu hiện thường rất thống khổ và thường rơi vào trạng thái suy sụp, còn nếu như mà chịu tới ba loại áp lực khiến stress thì sẽ không cách nào chịu đựng được mà dẫn đến sụp đổ. Như ở ví dụ này thì mệnh tạo phải chịu hai loại áp lực: áp lực công việc và áp lực trong quan hệ nhân tế với những người cùng trang lứa, lúc này rất cần có sức mạnh từ bên ngoài tới trợ giúp để vượt qua cửa ải khó khăn. Thế nhưng Thái Âm hóa Kị lại đóng vai trò như “làm một cọng rơm cuối cùng để nghiền nát lạc đà”, làm cho y suy sụp; Thái Âm là nữ nhân mà đóng ở Quan Lộc tức xung đến Phu Thê, còn mệnh tạo lại là nam nhân nên đây là hiện tượng bạn bè trai gái dễ biệt ly. Vốn dĩ bạn gái cũng đã cổ vũ tinh thần để chống chọi với kỳ vọng khá cao, cho nên trong công việc khi gặp phải các loại áp lực vẫn còn có người để trút bầu tâm sự nên cũng được an ủi giảm bớt phần nào áp lực trầm trọng ấy. Bởi vậy, Thiên Cơ hóa Lộc nhập Phu Thê này biểu thị cái năm này đối với bạn gái đặc biệt tốt, có lòng muốn bạn gái thành đối tượng để kết hôn nhưng lại gặp phải kết quả trái ngược, ở vào loại tình cảnh này có mấy người không suy sụp đâu chứ!

Sở dĩ, thêm tứ hóa lưu niên càng làm cho mức “cụ thể hóa” ánh tượng “nhân sự vật” càng thêm rõ ràng, khiến chúng ta càng có thể nắm được điểm mấu chốt sự kiện phát sinh, rồi sau đó mới có thể căn cứ đó để cải thiện mệnh vận mà không phải là loạn cải vận một lần, cho nên đối với những tuyên bố có thể “Sửa vận, khai vận” gì đó thực khó có thể tán đồng.

Không tìm được điểm mấu chốt ở đâu có thể nào sửa vận, nó cũng giống như bệnh ung thư dùng hóa liệu cũng như thuốc đạn bắn chim, đem tế bào tốt xấu đều giết hết, giết được các bệnh tật mắc phải thì bản thân cũng hấp hối, điều tốt hơn là sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu mới nhất để có hiệu quả.

Sau khi ra sách có một số độc giả đi tìm hỏi mệnh lý, có vị bác sĩ phu nhân có đến hỏi vận đồ của chồng như thế nào? Vừa nhìn đã nói phải cẩn thận khoảng dịp Tết nguyên đán sức khỏe thân thể dễ xảy ra vấn đề, cũng đặc biệt dặn dò phải đi cùng ở bên cạnh anh ấy. Đối phương lại đáp lời rằng chồng cô ấy là bác sĩ ngày thường rất chú trọng chăm sóc thân thể, chắc sẽ không sao đâu! Nhưng ngó trái ngó phải còn chưa có vừa ý, thế là có viết rõ tháng một của năm cần chú sức khỏe ấy lên mệnh bàn, nào ngờ trước Tết nguyên tiêu năm ấy có nhận được điện thoại và nói rằng đã xảy ra chuyện. May thay còn có cô ấy đi cùng, vừa nhìn thấy không ổn liền nhanh chóng tự mình lái xe đưa đến bác sĩ. Nếu không, giống như bộ trưởng chưa kịp nhậm chức đã khuất bóng, có cứu cũng đã quá muộn. Mà tại sao lại phải nhắc nhở “cô ấy” bất luận thế nào đều phải đi cùng bên cạnh anh ấy, chính là trên mệnh bàn nhìn ra kiếp số của hắn do người nào đó đến giải trừ mà đặc biệt nhắc nhở, mà cô ấy cũng có thể loại bỏ khó khăn khi ở bên cạnh mà nguy cơ được hóa giải.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để thuyết minh!

Mệnh tạo này cung Mệnh tọa Vũ Khúc, Thiên Phủ, Hỏa Tinh gặp Thất Sát ở đối cung hình thành “Vũ Khúc, Thất Sát, Hỏa Tinh” là cách cục “nhân tài bị kiếp”, tựa hồ rất bất lợi về tiền tài, nhưng giả như có lòng thiện tâm đem tiền quyên góp đi cứu giúp người, bản thân trở nên nghèo khó thì có là tiền tài bị cướp không? Liệu có thể phá giải ác cách “nhân tài bị kiếp” này hay không, lúc ở đại học hắn có thi đỗ công chức thì nó có liên quan đến Cự Môn Quyền tọa ở cung Quan Lộc ở đại hạn thứ hai làm cho hắn đọc sách học tập có thành hay không?

Trước tiên, bắt đầu phân tích từ mệnh cách bản mệnh:

Nếu đã biết hắn “quyên góp số tiền đáng kể” chúng ta có thể thông qua “nghịch hướng công trình” để truy tung manh mối hiển hiện trong mệnh bàn, loại dấu vết manh mối này không ngoài sự tồn tại quỹ tích của “tứ hóa phi tinh” với “tổ hợp tinh tính”, cẩn thận tỉ mỉ phối hợp với nhau nhất định có thể lần theo dấu vết tìm ra bí mật ẩn tàng.

Phương pháp suy đoán của bằng hữu ở những môn phái khác cũng có thể muốn tính toán sự khác biệt trước tiên, tuy trong đó có sự tương đồng nhưng cũng có khác biệt.

Mệnh bàn có 12 cung, hành vi quyên hiến là phải xem ở cung vị nào đây? Cho nên tất cần phải lý giải thấu triệt suy đoán mà 12 cung chủ chưởng mới có thể tìm ra cung vị tương ứng. Nói chung, hành vi “quyên hiến” cho công chúng không chỉ định là khán “Phúc Đức” hoặc “Nô Bộc”, nếu lấy tiền cho “người trong nhà” thì do cung cần tới đại biểu, như đem cho con cái thì khán cung Tử Nữ.

Hành vi phụng hiến không vụ lợi loại này của mệnh tạo, thì có quan hệ không nhỏ đến cung Phúc Đức. Tham Lang vốn chủ dục vọng, nhập Phúc Đức chắc là yêu tiền tài hơn nữa là người thích hưởng thụ, thế nhưng lại gặp Địa Không, hóa giải bớt dục vọng của Tham Lang mà chuyển hóa thành ý tưởng của tình yêu lớn “thương xót cho người, muốn trợ giúp người khác”. Có rất nhiều tu đạo nhân sĩ đều là Tham Lang hóa Kị, cho nên trong Toàn Thư nói không có sai, không phải là mê hoa yêu rượu thì là phá đãng tổ nghiệp, một mai sau khi hóa Kị lại thành “nghiên cứu các học thuật thần bí”. Bởi vậy Tham Lang hóa Kị ở Phúc Đức thì vì Phúc Đức là cung đại biểu về tinh thần mà Hóa Kị lại có hàm ý thiếu khuyết, sự “khuyết thiếu về trạng thái tinh thần” có thể giải thích hàm ý là “tinh thần ở trạng thái hư không hoặc vô ngã”. Bởi vì trống rỗng nên lại cần có món ăn tinh thần tới bù đắp, hoặc cần phải có tôn giáo tới gia trì, thì cõi lòng mới sẽ không rơi vào tình thế không nơi nương tựa phiêu bạt bất lực. Do đó, một khi có tín ngưỡng tôn giáo sẽ ăn nhập rất sâu, chiếm một phần không nhỏ trong lĩnh vực sinh hoạt tinh thần, nên đây có thể coi là nguyên do ngày sau quyên hiến số tiền không nhỏ.

Tiếp tục nhìn tứ hóa của cung Phúc Đức, thì Liêm Trinh hóa Lộc nhập Tài Bạch.

Phá Quân hóa Quyền nhập Phu Thê, Vũ Khúc hóa Khoa nhập cung Mệnh, Thái Dương hóa Kị nhập Phụ Mẫu, trong đó thì hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa không có nhập Mệnh hay chiếu Mệnh, cho nên cung Phúc Đức đối với mệnh tạo mà nói đây là cung vị trọng điểm hắn rất quan tâm.

Mà cung Tài Bạch tọa [Liêm Trinh, Thiên Diêu, Địa Kiếp] , có hai sao một chủ tư pháp một chủ đào hoa, cho nên nếu làm công việc về giấy tờ đất đai lại phù hợp với đặc tính của Liêm Trinh, mà Liêm Trinh cũng có ý “tham tranh” nhưng lại gặp phải Địa Kiếp cùng với Địa Không của cung Phúc Đức chiếu hội mà dẫn tới thái độ về tiền tài sẽ không có sự so đo tính toán chi li tiền bạc. Trong Tử Vi chư tinh thì Không Kiếp nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức đại biểu mệnh tạo có tuệ căn tôn giáo, tư tưởng tương đối gần với “trống không, siêu hình” của nhà Phật hoặc tư tưởng Đạo gia. Cho nên một khi ảnh hưởng chiếu hội được tăng cường không chỉ đặc tính của Liêm Trinh, Tham Lang tiêu biến mà trái lại sẽ với trách trời thương dân, trong lòng ôm ấp từ bi muốn dùng tài vật để sắp xếp nên đã đem tiền của mình mà đi cứu tế người khác. Cái này phù hợp với biểu hiện về đặc tính của Địa Không, Địa Kiếp ở tuyến Phúc Đức – Tài Bạch.

Tiếp tục nhìn cung Điền Trạch tọa Cự Môn Quyền, biểu thị hắn rất lo cho gia đình, cũng cho thấy hắn trong điền trạch rất có quyền lực hoặc thành tích. Mà công việc làm đại diện liên quan đến giấy tờ buôn bán đất đai này, vị trí then chốt là bởi mua bán đôi bên tạo được sự tin tưởng lẫn nhau, cũng chính vì tạo được sự tin tưởng trong mua bán giữa đôi bên mà giao phó cho hắn quyền lực. Cái này cũng có liên quan đến Thiên Cơ, bởi Thiên Cơ chủ huynh đệ, chủ nhân vật ngang vai cùng trang lứa nên Thiên Cơ hóa Quyền có thể dẫn dụ làm “vì giành được sự tín nhiệm nên được giao cho quyền lực nhằm thi hành thực hiện công việc”. Cự Môn là khẩu thiệt, cũng chính là phối hợp giao tiếp, cho nên tổng hợp lại thì mệnh tạo rất thích hợp đảm nhiệm công việc làm đại diện.

Phân tích quan hệ tứ hóa tiên thiên:

Theo lý hẳn là đi phân tích từng cung từng cung, để tiết kiệm số trang chỉ đi phân tích các cung vị có liên quan. Ở ví dụ này cung “Lập tượng” bởi vì là quyên hiến số tiền tích cóp được nên hẳn là ở cung Tài Bạch, cung Tài Bạch tiên thiên có Thiên can là Canh, phi xuất tứ hóa phân bố như sau:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ Mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Phụ mẫu
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Xin hỏi cung Phụ Mẫu là cung gì? Không nên quên rằng nó là cung Tài Bạch của cung Nô Bộc, hiện tại Tài Bạch của ta hóa Lộc với hóa Khoa nhập túi tiền Nô Bộc, là tiền tài của ta tiến nhập Tài Bạch của bạn bè. Mà hóa Lộc đại biểu nhiều, hóa Khoa đại biểu chủ động, cho nên việc “chủ động quyên ra một số tiền lớn” đã tạo nên hiện tượng này. (LC chú: hiện tượng ở đây chính là chỉ tiền của y chảy vào túi giao hữu thông qua việc quyên góp tiền)

Tại sao lại là quyên góp từ thiện cho cơ sở tôn giáo chứ? Thái Dương và Thái Âm đều chủ chiếu sáng bốn phương, trong thiên hạ cũng phải cần có ánh sáng với nhiệt để sinh trưởng sinh sôi nảy nở, cho nên là một loại sự tình hoặc hoàn cảnh “chiếu khắp chúng sinh”. Mà cung

Phụ Mẫu cũng là có thể quản chế hoặc ước thúc việc trái việc phải hoặc hoàn cảnh của chúng ta, như cơ quan cảnh sát, thầy cô giáo… mà tôn giáo chùa miếu cũng có thể nói là đơn vị loại này. Từ hai nhóm nhân tố tinh diệu với cung vị này tổ hợp khởi lai thì có thể đem nhân sự vật “cụ thể hình tượng hóa” chính là “tôn giáo từ thiện đoàn thể”, cho nên tiên thiên bàn cục cũng có thùy tượng sẽ có hiện tượng “đem một số tiền đáng kể đi quyên góp từ thiện cho tôn giáo đoàn thể”, đem sự kiện tuy nhỏ nhưng mà hiển hiện ra cụ thể.

Còn như Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh, loại hiện tượng này là có thành tựu về tiền tài, biểu thị ngày sau sẽ tương đối có thành tựu về tiền tài ví dụ như đảm nhiệm kế toán trưởng quản lý tài vụ … Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ biểu hiện quan hệ qua lại về tiền tài với huynh đệ không được tốt, không có tiền tài qua lại.

tuổi tiến nhập đại hạn Nhâm Tuất, cung Mệnh đại hạn có [Phá Quân Lộc] tọa, không đồng cung với chính tinh khác, Thiên can của cung Mệnh đại hạn là Nhâm, làm cho:

  • Thiên Lương tinh của cung Nô Bộc hóa Lộc – đây là thân cận với bằng hữu, có hàm ý sẽ đem tiền tài trợ giúp bằng hữu, cũng có hàm ý như “gom góp tài lợi cá nhân cùng với những người khác”.
  • Tử Vi tinh của cung Quan Lộc hóa Quyền – muốn có sự khác biệt trong sự nghiệp của mình, vốn đại hạn là sẽ tích cực, sẽ nỗ lực ở sự nghiệp, hướng đến mục tiêu của chính mình để phấn đấu.
  • Tả Phụ tinh của cung Huynh Đệ hóa Khoa – ở chung cùng với huynh đệ ở đại hạn này sẽ có sự khích lệ giúp đỡ động viên tinh thần lẫn nhau, làm việc cùng nhau cho kỳ thi, có những chủ đề phổ biến có thể cùng nhau thảo luận học tập mà làm cho tình cảm trở nên thân thiết hơn.
  • Vũ Khúc tinh của cung Mệnh hóa Kị – chúng ta gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị nhập cung Mệnh”, cung Mệnh là cung Phúc Đức của đại hạn Nhâm Tuất, Vũ Khúc là tài tinh, khi mà hóa Kị thì tiền tài do Vũ Khúc chủ chưởng cũng liền có “tổn thất”. Hơn nữa trong cung Mệnh còn có tài tinh khác là Lộc Tồn, hai sao tài tinh đụng phải Vũ Khúc hóa Kị lại còn có “Dương Đà giáp Kị”, đối cung của Phúc Đức đại hạn cũng là Tài Bạch đại hạn bị Vũ Khúc hóa Kị gây ảnh hưởng và cái này được coi là “xung”, gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị xung Tài Bạch đại hạn”, vì thế tiền tài sẽ có tổn thất. Bởi vì do cung Mệnh hóa Kị nhập Phúc Đức mà dẫn tới, cho nên là vì tín ngưỡng tôn giáo mà cam tâm tình nguyện bỏ ra, như: quyên góp tiền dầu thơm hoặc quyên góp cho giáo hội một phần mười thu nhập, nó có bản chất như vậy. Bởi vậyđối với mệnh tạo mà nói đó không phải là tổn thất mà là “đắc lợi” về mặt tinh thần cho cuộc sống. Do vậy ta dùng dấu móc ngoặc cho hai chữ tổn thất nhằm biểu thị đó là quan điểm của chúng ta về thế tục.

Phân tích quan hệ tứ hóa hậu thiên:

Thiên can cung Tài Bạch đại hạn là Mậu, phi xuất tứ hóa như sau:

  • Tham Lang hóa Lộc nhập Tài Bạch
  • Thái Âm hóa Quyền nhập Phụ Mẫu
  • Hữu Bật hóa Khoa nhập Điền Trạch
  • Thiên Cơ hóa Kị nhập Điền Trạch

Thiên Cơ hóa Kị tại cung Điền Trạch cũng chính là cung Mệnh năm Mão, hơn nữa Thiên Đồng Kị của Tài Bạch tiên thiên phi xuất ở Tài Bạch của năm Mão. (LC chú: ở đây ý chỉ Can của cung Tài nguyên cục là Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị ở cung Hợi, cung này là cung Tài của năm Mão) Cho nên, Kị tinh của Tài Bạch tiên thiên và đại hạn phi xuất đã hình thành góc độ tam hợp ở năm Mão, cái này tương tự “Tam hợp Kị” mà ta đã nói trong chương “Đàm luận thời gian ứng nghiệm sự kiện” trong cuốn “Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích” trước đó, cho nên qua năm tới sẽ có biến động về tiền tài. (LC chú: phần Tam hợp Kị độc giả có thể tham khảo chương số 24 quyển Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích đã được dịch Việt ngữ public trên trang Tuvi.cohoc.net cùng một số fanpage huyền học khác)

Lưu niên năm 27 tuổi

Cung Mệnh lưu niên ở Mão, có Thiên can là Ất làm cho:

  • Thiên Cơ hóa Lộc cung Mệnh lưu niên (cung Điền Trạch) : tượng này là “tự hóa Lộc”, là hàm ý của “Lộc xuất”, cũng chính là sự biểu thị “tiền tài bỏ ra”. Mà cung Mệnh lưu niên lại tọa Cự Môn Quyền, hàm ý của Quyền là “chủ động, hoán đổi hành động”, vì thế hắn sẽ tự mình chủ trương đem tài lộc bỏ ra, mà bỏ ra không phải là bị lừa hay bị gạt, hay là lòng không chịu tình không muốn. Cho nên năm nay bản thân đã chi ra một số tiền đáng kể trong một tình huống tự quyết.
  • Thiên Lương hóa Quyền của cung Nô Bộc: Quyền mang hàm ý có thành tựu, quản chế, nên đây là chiều hướng “ta sẽ đi kết bạn”. Mà đại hạn tứ hóa lại có tượng “đem tài lộc mang tới cho giao hữu”, cho nên tượng sở thuộc hiển hiện của tứ hóa cung Mệnh của đại hạn cùng với lưu niên cho thấy rất rõ ràng là “đem tiền tài đi kết giao bằng hữu”. Chẳng trách sẽ đem nhiều tiền của tích cóp được chi ra, mà cung Nô Bộc có Thiên

Lương tinh tọa, sao Thiên Lương là quý nhân tinh, chủ chưởng khả năng “phùng hung hóa cát”, quyên góp cho cơ quan từ thiện chính là muốn để cho những hộ gia đình có thu nhập thấp phải chịu khổ chịu khó khăn sẽ nhận được trợ lực “gặp dữ hóa lành” giúp họ thoát ly biển khổ. Kết hợp cả tính chất của sao cùng với tứ hóa sẽ giúp cho chúng ta càng giải thích đầy đủ được ý nghĩa của tượng xuất hiện trong đó.

  • Tử Vi hóa Khoa của cung Quan Lộc: Khoa chủ chưởng “khảo thí, công danh”, tiến nhập Quan Lộc mà nói, tham gia các kì kiểm tra sát hạch trong nước nhất định có thể tên đề bảng vàng, mà đại hạn lại hóa Tử Vi Quyền đến cung Quan Lộc. Hóa Khoa, hóa Quyền cả hai tăng cường, một là nỗ lực phấn đấu, một là vận thi cát tường, quả nhiên y sau khi trải qua một năm nỗ lực học tập đã tham gia và đỗ kỳ thi cao cấp. Trước khi đi làm đã đem tiền tích góp nhiều năm quyên góp cho cơ quan tổ chức từ thiện để hành thiện.
  • Thái Âm hóa Kị của cung Phụ Mẫu: Kị chủ khốn đốn, không thuận, tiến nhập cung Phụ Mẫu cũng chủ phụ mẫu có hạn tượng như này, nhưng may thay còn có Thái Âm Khoa bảo hộ, mặc dù có không thuận nhưng không đến nỗi khổ sở. Đương nhiên khi thi đỗ được rồi sẽ y theo chỉ lệnh phân công công tác của thượng cấp mà đi đến tỉnh khác làm việc, có lúc rời xa cha mẹ. Dĩ nhiên đối với cha mẹ mà nói sẽ có chút không muốn và khổ sở, thế nhưng chuyện thi đỗ có thể coi là “quang tông diệu tổ” cho nên với cha mẹ mà nói tuy có thương cảm nhưng trong đó lại có chút vui mừng thậm chí kiêu ngạo nữa! Đó là lý do mà “Kị” gặp Khoa năm sinh có hàm ý như này. Ở đây cũng đồng thời cải chính một chút sự ngộ nhận của một số người về “Khoa Kị không Kị”. Cái gọi là “Khoa Kị không Kị” không phải là “Hóa Kị” sở chủ điềm xấu chuyện xấu, vì là có quan hệ của Hóa Khoa tiêu trừ mất đi, mà là lưỡng tượng tốt xấu cùng tồn tại khiến cho trong kết quả yếu tố tốt chiếm nhiều hơn bù đắp cho tượng của cái xấu. Ví dụ như mệnh lệ này thì hiện tượng đó chính là may mắn thi đỗ nhưng lại được cấp trên điều phối đi làm việc ở nơi xa khiến cho cha mẹ thương cảm”.

*Tổng Kết:

Tiên thiên Tài Bạch tứ hóa “thùy tượng” – quyên ra một số tiền lớn đến Tài Bạch của bằng hữu, hơn nữa cùng Tài Bạch đại hạn ở năm Mão làm bàn cục xuất hiện “Tam hợp Kị”, đã hình thành điều kiện quan trọng thông qua đại hạn mà “thành hình”. Cho nên chỉ đợi thời cơ thích ứng để “thành sự” mà thôi, mà năm Mão là “thời cơ thích hợp”, nhưng tại sao lại là năm Mão vậy? Bởi vì Tài Bạch của tiên thiên hóa Kị ở Tài Bạch của năm Mão, đại hạn hóa Kị tại cung Mệnh năm Mão vì thế năm Mão thành sự.

Vì sao còn phải xem nhập thêm “cung Mệnh” nữa chứ? Đừng quên rằng cung Mệnh là nguyên tắc chung, là đầu mối then chốt trong biến hóa của vận đồ, nó liên kết tới mười một cung khác. Cho nên phải để một cung trong đó lập tượng, tất nhiên là nó lấy một cung chiếu xạ đến mười một cung khác, sao tọa trong cung Mệnh cũng đồng thời đóng vai mười một loại tượng, phải tùy theo cung vị mà người phân tích mà hoán tượng mới có thể tương ứng với tượng nhân sự vật phức tạp.

Trải qua ba giai đoạn “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” từng tầng từng tầng chắt lọc lựa chọn từng bước đem “Sự kiện” từ hình tượng mông lung mà từ từ rõ ràng minh xác thực hóa, thông qua mối quan hệ xuyến liên giữa “Tứ hóa” với “Tinh tính” làm cho quan hệ giữa “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” được liên kết khởi lai, thì có thể từ trong “Cung vị”, “Tinh tính” và “Tượng” trong mệnh bàn cung cấp cho thông tin ở trong đó. Từ đó có thể chắt lọc lấy ý nghĩa ẩn chứa bên trong mà có thể dùng những từ nó sát với “ý tượng sinh hoạt” trong sinh hoạt đời thường mà giải thích cho người hỏi mệnh hiểu rõ.

Bởi vậy, một chuyện phải trải qua thùy tượng “Bản mệnh”, thành hình ở “Đại hạn” cho đến thành sự ở “Lưu niên”, ba cái giai đoạn này Phi tinh phái dùng “Thiên bàn”, “Địa bàn”, “Nhân bàn” để gọi tên chúng, cái này cùng với hiện tượng “tâm linh khác” không có quan hệ gì, không nên bị ngộ đạo; mà suy diễn Thiên Địa Nhân bàn thì Thiên can tứ hóa xuyên suốt toàn cục cho nên là phải thuần thục cách dùng tứ hóa mới có thể nắm được sự bí ẩn về Tử Vi Đẩu Số của Phi tinh phái.

Mà từ trong mệnh bàn suy đoán hình tượng của sự vật phải thấu đáo nhuần nhuyễn tính chất của sao mới có thể phân giải dùng những từ ngữ chuẩn xác giúp cho người hỏi mệnh có thể hiểu ngầm trong lòng! Công phu này nếu không có ý tượng sâu sắc đối với sinh hoạt thường ngày thì rất khó nói hoặc phân giải kỹ càng. Đương nhiên, còn có sự từng trải và kinh nghiệm trong sinh hoạt của người giải bàn cũng rất có quan hệ, nếu như người không biết hoặc là chưa mở mang được kiến thức cũng sẽ không cách nào nói ra được câu cú đầy huyền cơ: “ngươi một khi dọn nhà nhất định sẽ kiếm được tiền”.

Tin rằng thông qua giải thích bản án lệ (LC chú: bản án lệ ở đây ý tác giả chỉ về trường hợp ví dụ thực tế được phân tích ở phía trên), đối với quan hệ và cách dùng giữa “Cung vị, Tinh tính, Mệnh hạn niên hóa tượng” mà có thể hoàn chình khái niệm sơ bộ. Tính chất của sao đối với Tứ hóa Phi tinh phái mà nói thực sự là mắt xích trọng yếu, chỉ là sự vận dụng của chúng ta về tính chất của sao có sự bất đồng với Tam hợp phái, nó chỉ khác nhau ở thủ pháp vận dụng mà thôi!

Góc Độ Quan Hệ Của Vận Đồ Mệnh Hạn Với Hóa Kị

Hóa Kị có thể nói là một viên sao rất trọng yếu trong tứ hóa, từ trên danh từ mà khán thì Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Khoa đều là hóa tinh tốt, mà chỉ có một viên hóa luôn không tốt. Dường như trong tứ hóa tỉ lệ phân chia tốt với xấu cũng không có đều nhau, hóa tinh cát lợi có ba viên mà hóa tinh không cát chỉ có một viên mà thôi, có đúng như vậy hay không? Không phải, sau khi xúc tác diễn hóa một viên sao nào đó cũng sẽ biến đổi bản chất tốt lành của Lộc, Quyền, Khoa mà viên tinh then chốt này chính là Hóa Kị.

Ngẫm lại trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có rất nhiều chuyện, có đúng là có rất nhiều loại hiện tượng này không?

  • Vừa mói bắt đầu gây dựng sự nghiệp thì nghiệp vụ đáp ứng không xuể, làm ăn tốt vô cùng, buôn bán lời một chút tiền, nhưng cuối cùng lại thua lỗ một khoản mà còn không có đường lùi.
  • Hoặc lúc mới bắt đầu nghiệp vụ cũng không được tốt lắm nhưng càng làm càng thuận lợi, sự nghiệp ngày càng lớn.

Một là trước cát sau hung, còn một là trước hung sau cát, rốt cuộc là thuộc về loại tình trạng nào thì phải phân tích từ trạng thái phân bố tứ hóa. Tình hình phân bố tứ hóa phải xem xét

mấu chốt ở “thời” của bản mệnh với hạn vận, cũng là phải quan sát trạng thái phân bố tứ hóa của cung nào đó của bản mệnh và đại hạn cùng một cung sở thuộc phi xuất, xem góc độ giữa chúng có hình thành một trong bốn loại trạng thái “Xung”, “Hội”, “Nhập” hoặc “Hợp” hay không để phán đoán cát hung. Phía trước đề cập qua, trong tứ hóa thì “Hóa Kị” càng có vai trò then chốt trong sự biến hóa của cát hung, cho nên chương này sẽ lấy góc độ hình thành của “Kị” tinh của cung vị “Bản mệnh” và “Đại hạn” phi hóa xuất trên mệnh bàn để phân tích ý nghĩa cát hung.

Muốn đàm luận về Hóa Kị tinh không thể quên hiện tượng “Kị nhập” và “Kị xuất”, cái này đều là quy tắc cơ bản vận dụng Hóa Kị, sáng tỏ “Nhập” và “Xuất” là yếu lĩnh cơ bản trong vận dụng tứ hóa. Hiện tượng cát hung của hai cái này hiển hiện là khác nhau, cho nên lúc đụng phải “tứ hóa” thì trước tiên cần nắm rõ đó là hiện tượng của “Nhập” hay là “Xuất”, đối với “Hóa Kị” mà nói thì:

  • Kị nhập có hàm ý là “Thu liễm”, sự vật có thể tập trung mà không phân tán, cho nên đối với cái sự vật đó có thể nắm giữ được hoặc buông bỏ điều đó, cho nên ta có thể “kiểm soát sở hữu”. Nếu như cung Phúc Đức có tượng này thì tinh thần tập trung thần thái sáng láng; nếu là cung Tài Bạch thì tiền tài vận dụng thoải mái hoặc là tài nguyên có tượng tụ hội, hàm ý “thu được”, “đạt được” cho nên tiền tài có thể kiếm được.
  • Kị xuất có hàm ý là “Phát tán”, sự vật phân tán, có hiện tượng nắm giữ không được bắt không xong, người có thì tinh thần rệu rã, nên bài vở học tập không tốt; có một số thì tiền tài không nắm không cầm được để xoay vòng cho làm ăn, không sử dụng thoải mái được, nên hàm ý chính là “Mất đi”, “Tổn thất”. Còn để giải thích và vận dụng từ ngữ cho chuẩn xác hơn thì phải tùy theo sự biến hóa của cung vị mà dùng cho thích hợp.

Chúng ta dùng hình 1 để giải thích sự khác biệt về “Kị nhập” và “Kị xuất” của Hóa Kị tinh giữa bản mệnh với cung vị đại hạn. Nhưng ý nghĩa của cát hung lại cần phải nhắm vào sự khác biệt của sự vật mà có sự khác nhau, không thể hết thảy đều lấy hai cách phân chia giản đơn “Kị nhập” là cát, “Kị xuất” là hung để giải thích, đây là nhận thức cơ bản thiết yếu. Chúng ta luận mệnh thường đơn giản lấy “Nhập” hoặc “Xuất” để luận sự tình, này là không tốt rất dễ khiến cho người hỏi mệnh nghe được ngôn từ sợ hãi bởi vì các hiện tượng trong cuộc sống có định nghĩa quy phạm luân lý xã hội, cái gì là hợp pháp, cái gì là không hợp pháp. Cho nên là lấy hợp pháp là cát, lấy phi pháp là hung để phán đoán, nhưng cũng có chút phi pháp không phải là hung, chẳng hạn như, giả như cung Phu Thê xuất hiện “Kị nhập” mệnh cục là hiện tượng “sống chung với nhau” thì loại tình huống này coi là “cát” hay là “hung” đây? Tuy là quan hệ hôn nhân không hợp pháp nhưng không có trở ngại bởi gia đình ngầm đồng ý. Còn có rất nhiều tình huống tương tự khác như thế nữa, tùy theo các quốc gia khác nhau hoặc là cùng quốc gia nhưng thời gian khác nhau, pháp luật hoặc quan điểm xã hội có hiện tượng điều chình phát sinh, những cái không hợp pháp trước đây nay đã được xã hội tiếp nhận, ví dụ như đồng tính luyến ái. Bởi vậy chỉ có thể lấy hiện tượng “Kị nhập” là “Thu liễm”, “Kị xuất” là “Phát tán” để giải thích, tiếp đó dùng tính chất sao ở cung vị khác nhau cùng hoàn cảnh trạng thái hiện thực để phân biệt đó là thuộc về “Cát” hay là thuộc về “Hung”.

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị phi nhập Tài Bạch (tức Kị nhập Tài Bạch), đây là Kị nhập, khi lưu niên đi tới cung Tý, Mão thì chủ đắc tài, sẽ có thu hoạch tiền tài, mức độ nhiều hay ít thì xem tổ hợp tinh tú.

ví dụ Kị nhập

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị nhập Phúc Đức (tức Kị xung Tài Bạch), đây là Kị xuất, khi lưu niên đi tới cung Dần, Thân thì chủ thất thoát tiền tài, mức độ tổn thất tiền tài nhiều ít thì cần xem tổ hợp tinh tú.

Sẽ có bốn loại tình huống “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” mà Đại hạn bàn cục xuất hiện ở Tiên thiên mệnh cục, mà cung cùng loại ở đại hạn cũng có quan hệ “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” với cung cùng loại của bản mệnh, tổng cộng có bao nhiêu loại tổ hợp độc giả có thể tự mình tham khảo thêm. Cho nên lợi ích của một viên Hóa Kị tinh từ “Bản mệnh với Đại hạn” và “Đại hạn với Bản mệnh” có thể thấy quan hệ diễn hóa ra giữa chúng rất phức tạp, nên đối với người mới học vừa nhìn thấy cũng cảm thấy đau đầu, vì thế cần đơn giản hóa quan hệ đó thành “Kị nhập” và “Kị xuất” để đàm luận về “Hóa Kị” tinh.

Trước tiên, nếu như Tiên thiên mệnh bàn xuất hiện quan hệ “Kị xuất” đối với Đại hạn bàn cục, mà Đại hạn bàn cục lại hình thành quan hệ “Kị nhập” đối với Tiên thiên mệnh bàn, vậy lúc này nên giải thích hiện tượng “Kị nhập” như thế nào? Rốt cuộc là “Thu liễm” hay là “Phát tán” đây?

Loại tình huống này cũng có hàm ý phát tán, cũng có người trong bản mệnh bàn cục có “Kị xuất”, trong cuộc sống mệnh vận tương đối bất lợi, thường thường nắm giữ cơ hội không tốt, thậm chí cơ hội đến mà còn mù mịt không tự chủ được dẫn đến hiện tượng cơ hội đến mà trôi mất uổng phí. Cũng bởi vì đương sự không tự chủ, trái lại rất có khả năng “chẳng chỗ nào được, cũng chẳng mất chỗ nào”, tỉnh tỉnh mê mê mà sống qua ngày, những lời này có thể coi là những lời thỏa đáng thích hợp nhất dùng để giải thích cho mệnh cục có “Kị xuất”! Nhưng mà khi đương sự đã cao tuổi sau khi nhìn lại cuộc đời hoặc những chuyện đã xảy ra, cẩn thận nhớ lại các chi tiết thì sẽ phát hiện cơ hội để mất từ phía họ. Bởi vậy người có bàn cục loại này, người viết kiến nghị trau dồi tăng mạnh độ nhạy cảm làm sao từ trong dấu vết phát giác ra cơ hội chất chứa trong đó mà nắm bắt lấy nó.

Người viết có một đồng sự phụ trách giáo dục đào tạo, thường xuyên nhận được điện thoại hỏi xem có khóa học nào không, trong đó có một số chương trình dạy học chưa từng được thiết lập, hắn nhận được hồi đáp có phần khiêm nhường rằng không có. Sau khi cúp điện thoại cũng không có hoạt động gì tiếp tục hoặc dẫn phát ý tưởng nào đó, hắn cứ làm như chuyện chưa từng xảy ra, đương nhiên những biểu hiện cho thấy không được tốt và nên đổi chuyển sang người khác thì hơn.

Thế rồi ta cũng có quan hệ với đồng sự khác, gặp phải tình huống tương tự, thì vẫn hỏi đối phương làm nghề nghiệp nào? Tại sao muốn khóa học này? Trong giới nghề nghiệp thì ai là học giả có địa vị, ai là người nghiên cứu? Từ đó mới có thể khai mở ra được nhiều chương trình học trước đó chưa có, thành tích đương nhiên cũng được nâng cao lên nhiều. Người phía trước là mệnh cục có “Kị xuất”, không hiểu được nắm được cơ hội, làm cho nguồn khóa học với nguồn khách hàng đều cuốn trôi đi mất, cho nên làm rất mệt mỏi, khiến cho không cách nào hoàn thành được mục tiêu tăng trưởng trong năm năm mà công ty đề ra. Chính điều này đã làm cho người viết muốn nghiên cứu mệnh cục và quan hệ dùng người trong cơ cấu tổ chức công ty.

Bởi vì phục vụ đơn vị là cơ quan cố vấn doanh nghiệp lớn trong nước, khi công cụ quản lý truyền thống không cách nào giải quyết được vấn đề kinh doanh của công ty thì cũng hướng ra phía ngoài nhờ giúp đỡ một số phương án giải quyết lĩnh vực ấy. Ví dụ như công cục tâm lý học nhằm phân tích tính chất đặc biệt trong nhân cách, đem con người phân chia ra các hình thái khác nhau như chim khổng tước, lão hổ (ý chỉ kẻ tham ô), chim gõ kiến … phối hợp với các đặc tính của các ngành các tổ chức như nhân sự, tài vụ, chế tạo … mà đưa ra các điều chỉnh về nhân sự, cũng có thể giải quyết tranh chấp giữa các khâu làm cho tổ chức vận hành được thông thuận, từ đó giải quyết vấn đề quản lý. Cũng từng đưa vào học thuyết “Tập quán lĩnh vực” nhằm tham khảo làm sao kích phát tiềm năng của con người, rồi lại đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng về tuổi tác thì hình thức tư duy công việc cũng theo đó mà có sự biến đổi phù hợp với thói quen của con người, diễn hóa hành vi mô thức vì thế mà truy ngược căn nguyên nhằm làm sao có được sự cải cách thay đổi về mô thức tư duy trong tinh thần tiến tới làm cho tâm trí được hoạt bát để ứng phó được với biến đổi lớn do vấn đề tuổi tác mang đến. Đương nhiên người viết đảm nhiệm chủ quản bộ phận cũng cố gắng tiếp thu những kiến thức liên quan, cũng suy nghĩ sâu sắc về sở học “Tử Vi Đẩu Số” của mình phải làm sao để có thể kết hợp đặc điểm của tổ chức cùng với sách lược lựa chọn nguồn nhân lực nhằm làm cho tổ chức vận hành được thông thuận linh hoạt, năng lực sản xuất được nâng cao. Đương nhiên xí nghiệp thì càng kiếm được tiền, dĩ nhiên là không thể tùy thích làm rối loạn công ty, trái lại còn làm nhiều vấn đề lớn xuất hiện thêm, cho nên trải qua nghiệm chứng tìm tòi khoảng bảy tám năm, có lòng tin nói rằng nó chắc chắn tốt hơn các công cụ kể trên.

Loại tình huống Kị xuất này, lúc mà đại hạn “Kị nhập” bản mệnh thì sẽ đem hiện tượng bản mệnh “Kị xuất” đại hạn càng thêm cường hóa. Bởi vậy cái cung mà tượng nhân sự vật chủ chưởng sẽ có hiện tượng “xói mòn, tổn thất, tiêu mất”, nên lúc giải thích phải đặc biệt chú ý loại hiện tượng này.

Loại hiện tượng này giống như là hiện tượng lúc mới vào sòng bạc thì người ta cho ngươi chút ngon ngọt, càng về sau lại đau đớn, cái số thắng được lúc đầu về sau cũng mất, hoặc như là vừa mới bắt đầu kiếm được chút tiền liền mở rộng đầu tư dẫn đến kết quả tiền còn chưa kiếm được thì tiền kiếm được lúc trước đó đều tổn thất một số tiền bạc lớn, này là loại hiện tượng sụt giảm nhiều, có thể nói hình thái vận đồ là “trước sướng sau khổ”, “trước dễ sau khó”.

Giả như, tiên hậu thiên bàn cục đều là “Kị xuất”, không cần nói, Hết trag111

nhất định là chiều hướng “tổn thất”, cho dù nỗ lực ra sao cố gắng thế nào thì vẫn khổ tâm không đạt được mà còn lãng phí khí lực, vẫn là bị mất đi, đây là cách cục đặc biệt không tốt. Nhưng mà có thời điểm bắt đầu lại từ đầu tuy đều không có được ngày vui, nhưng thói quen còn có thể cam lòng như lúc ban đầu, dù không như hình thái tứ hóa thuật ở phía trước, nhưng nó cũng làm cho người ta có thể rơi từ trên mây xuống dưới. Tuy loại khổ sở này với người khác khó có thể chịu đựng được, tuy không là cát nhưng chí ít nỗi thống khổ cũng được giảm tương đối thấp rồi.

Ví dụ như có người sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên cũng không nỗ lực dốc sức làm việc, suốt đời đều nghèo khổ qua ngày, hắn trái lại có thể “sống thanh bần đạo hạnh” dù bần hần vẫn tự tại, không màng danh lợi ngày sau, nhưng với hắn cảm thấy đó cũng không phải là gì xấu cả, bởi vì thói quen.

Dường  như bản mệnh bàn cục Hóa Kị còn có một loại tình huống cũng là thuộc về hàm của Kị xuất, như hình ví dụ dưới đây, cung Tài Bạch can Bính làm cho Liêm Trinh ở cung Phúc Đức hóa Kị, cung Phúc Đức là đối cung của cung Tài Bạch, nó giống như một đường thẳng đến cung vị đối diện, đặc biệt xưng là “Hóa xuất Kị”, kỳ thực hàm ý chính là cung Tài Bạch hóa

“Kị nhập” cung Phúc Đức. Cho nên tình huống đem Hóa Kị từ bản cung sở thuộc đến cung đối, toàn bộ gọi là Hóa xuất Kị, một cung nào đó có tình huống hóa Kị xuất thì cái cung sở chủ sự vật đều có hàm ý trôi đi mất, nhưng mà trôi đi chưa chắc đã là mất. Thí dụ như Tài Bạch hóa Kị nhập Điền Trạch chiều hướng là mua nhà cửa hoặc sản xuất, đối với Tài Bạch mà nói đó là “trôi đi”, đối với Điền Trạch mà nói đó là “nhận được”, chỉ là đem “động sản” chuyển hoán thành “bất động sản” mà thôi chứ “tổng tài sản” nhìn chung không có tổn thất cho nên sự xói mòn trôi đi này không lấy không cát luận, chỉ là hiện tượng “mua nhà để làm ăn sản xuất”. Giả như đổi một cung vị rơi xuống khác, ví dụ Tài Bạch hóa Kị nhập Nô Bộc, là Tài Bạch của ta trôi đến tay của bằng hữu, đương nhiên là ta tổn thất, lúc này lại lấy không cát để luận giải. Vì vậy sự được mất trong đó cần dựa theo vấn đề mà phân giải, không thể câu nệ rập khuôn theo văn tự từ nghĩa, mà là cần khán quan hệ giữa cung vị Hóa Kị được khởi phi và cung vị mà Hóa Kị rơi xuống thì mới có thể phân biệt cát hung. Lúc giải thích mệnh bàn thì cũng không thể bỏ qua tình huống như vậy.

Can Bính của cung Tài Bạch làm Liêm Trinh hóa Kị phi nhập Phúc Đức, gọi là Tài Bạch hóa xuất Kị, cũng là “Kị xuất” đại biểu tiền tài có chiều hướng trôi đi, chủ về tiền tài có tổn thất.

Trở lại khán hình 2, cung Tài Bạch hóa Kị đến Phúc Đức, cung Phúc Đức là cung vị hưởng thụ, vừa có tiền liền tìm cách thụ hưởng, có một số người ngay khi có một chút tiền rất thích dùng cho hưởng thụ, đối với người có tiền mà nói cũng không cảm thấy đau, ngược lại là loại hưởng thụ, đối với bọn họ mà nói không phải là tượng “bất cát”. Mặt khác, nếu là người kinh tế không dư dả, dùng tiền hưởng thụ sẽ đau lòng, nhưng không thụ hưởng cũng khổ, đứng giữa hai cái cũng không biết làm sao cho khéo, đương nhiên cái này đối với họ mà nói loại mong muốn nhưng bị dằn vặt này chính là “bất cát”. Cho nên loại mệnh cục này nên đi làm văn phòng hưởng lương, ta cũng kiến nghị họ nên có dự trữ, cho dù là cất giữ ký gửi hay là mua vàng đều có thể, bắt buộc bản thân dự trữ, mà một số ông chủ hoặc người có tiền thì sao? Chỉ cần lúc làm ông chủ không mang tiền đi tiêu hoang là tốt rồi, ví dụ như những nơi phong hoa tuyết nguyệt vừa nhìn thấy khách hàng tới cửa đều gọi “ông chủ” này, “ông chủ” kia,

ung dung phục vụ cho lâng lâng, và một số người đang mất rất nhiều tiền hoặc bị lừa gạt khi thưởng thức loại hình hưởng thụ vô ích này. Ví dụ loại như thế này rất nhiều, cho nên người có tiền mà có loại mệnh cục này nên cảnh giác loại hình hưởng thụ hư ảo này.

Đại hạn bàn

Hóa Kị của đại hạn bàn cục sẽ cùng tứ hoá năm sinh và tứ hóa của Bản mệnh bàn cục sản sinh tác dụng mà khiến cho có chút biến hóa làm cho hiệu ứng hóa được tăng cường hoặc yếu đi. Góc độ hình thành của Hóa Kị bản mệnh và Hóa Kị đại hạn đều có “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” … những cái này đều sẽ vì cường hóa tác dụng của Kị tinh mà dẫn khởi hiệu ứng cát hung. Giả như không có hình thành các góc độ đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” thì cũng sẽ không sản sinh cường hóa tác dụng của Kị tinh khiến cho sự kiện phát sinh. Tuy nói là như thế, nhưng mà những khốn đốn hoặc ngăn trở “nhỏ” sẽ vẫn có, bởi vì uy lực của một viên tinh tương đối nhỏ, vẫn chưa tới mức khiến cho người ta đau lòng lưu lại ấn tượng sâu sắc. Vì thế người thường cũng sẽ không quá lưu tâm đến nó, nhưng với đồng hữu có lòng học tập mệnh lý thì lại lưu tâm suy đoán lĩnh hội, còn là có thể cảm nhận được uy lực hiệu ứng của “đơn Kị”.

Muốn ứng dụng tứ hóa luận mệnh thì trước tiên phải có quan niệm về “có tác dụng trong thời gian định tính” của tứ hóa, tứ hóa của bản mệnh sẽ phát sinh hiệu ứng trong suốt cuộc đời, tứ hóa của đại hạn chỉ có phát sinh lực tác dụng trong đại hạn đó, nếu qua khỏi đại hạn thì cũng mất đi lực tác dụng ấy. Tương tự đối với lưu niên cũng chỉ có phát sinh tác dụng trong năm đó, một khi qua cái năm đó thì lực ảnh hưởng của tứ hóa lưu niên cũng mất.

Ví dụ như mệnh lệ sinh năm Tân Mão này, cung Phu Thê có Can là Kỷ làm Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền, Văn Khúc hóa Kị nhập cung Mệnh, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Mệnh đại biểu phu thê bất lợi đối với ta, viên tinh này hiệu lực vẫn tồn tại, nó có làm cho đương sự cảm thấy được hay không? Chưa chắc đã cảm thấy được bởi vì nó chỉ là tác dụng loáng thoáng mà thôi, nếu không có sát tinh phối hợp, giống như là chẳng cảm nhận được gì, nó cần đại hạn phối hợp để dẫn phát hung tính của nó, đại hạn phải như thế nào để phối hợp dẫn phát đây? Lúc này sẽ quan sát Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn có hình thành góc độ đặc thù nào đó với Hóa Kị tinh của cung Phu Thê bản mệnh ở trong cung Mệnh hay không, nếu có sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung; còn nếu không có hình thành các góc độ đặc thù thì cũng sẽ không có xuất hiện phản ứng cát hung.

Giả như bàn cục của ví dụ này, đại hạn đi ngược chiều đồng hồ, lúc cung Mệnh đại hạn tiến nhập cung Tử Nữ thì cung Tật Ách [Bính Thân] liền trở thành cung Phu Thê của đại hạn, Can cung là Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Tài Bạch ở Dậu, mà cung Phu Thê tiên thiên phi Văn Khúc Kị nhập cung Mệnh ở Sửu, mà Tị Sửu là tam hợp, cho nên Văn Khúc hóa Kị của cung Sửu cùng với Liêm Trinh hóa Kị của cung Dậu hình thành “Tam hợp Kị” Tị Dậu Sửu. Lúc này Hóa Kị của cung Phu Thê của đại hạn với tiên thiên sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung tương đối mãnh liệt, bởi vì là Hóa Kị tinh ngầm dấy lên, nên là hiện ra phản ứng có tính hung.

Mọi người có thể sẽ hỏi rằng, cung Mệnh với cung Tài Bạch chẳng phải đều là ngã cung hay sao? Tại sao tha cung hóa nhập ngã cung lại là hung, muốn trả lời vấn đề này mọi người trước tiên phải hiểu nguyên nhân dẫn tới thất bại hôn nhân là cái nào, thất nghiệp không có tiền tài thu nhập liệu vợ chồng có tranh cãi ầm ĩ thậm chí ly hôn hay không? Tiền tài do cung Tài Bạch chủ chưởng mà, hơn nữa mọi người cũng gọi cung Phu Thê là cung vị đối đãi của vợ chồng mà! Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch, chính là ám chỉ quan hệ đối đaiã của vợ chồng không được tốt đẹp lắm, nguyên nhân dẫn tới không êm thấm là do liên quan tới tiền bạc, cho nên mặc dù là “tha cung hóa nhập ngã cung” cũng không luận cát được. Trước đây từng nghe người ta nói rằng “Kị nhập” là đạt được, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Tài Bạch hàm ý chỉ “sau khi kết hôn kiếm được tiền hoặc được tiền tài nhờ phối ngẫu”, đại khái cũng có thể là vì như vậy, kết quả sau kết hôn mới phát hiện phối ngẫu chỉ là tốt đẹp ở bề ngoài thôi, không có chút tiền là quan hệ đối đãi của vợ chồng lại xảy ra vấn đề. Đây chính là hiện tượng “chờ mong càng cao thất vọng càng sâu”, với người thứ ba mà nói không chừng phối ngẫu hắn đúng là có tiền thật, do đó kiểu phương thức phi hóa “Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch” này nếu không có chút tài sản làm căn cơ có lẽ không nên mơ mộng “Điếu kim quy”, “Đương thừa long khoái tế” (LC chú: ý hai câu này chỉ không nên mơ mộng kiểu câu rùa đá, ngồi ngai rồng tuyển rể hiền), một khi gặp phải biến động về tiền bạc, thường thường hôn nhân dễ bắt đầu xảy ra điềm xấu. Nói đến đây nghĩ đến có người thường nói : Đẩu Số dễ học khó tinh thông, mấu chốt nằm chính ở chỗ không phân rõ được về các tình huống rủi ro của con người, tưởng là quy tắc của Tử Vi Đẩu Số nhất thể sử dụng, không cần phân lục thân cung hoặc các cung vật chất như tiền tài, điền sản là có khác nhau, cho nên mới dẫn đến dễ phán đoán lầm. Vì thế khi giải đoán cát với hung cần suy tính sự khác nhau về tính chất của cung vị mà có những chỉnh sửa cho hợp lý.

Còn như phải suy tính thế nào để biết năm nào sẽ phát sinh chuyện? Thì từng năm từng năm mà tra xem ứng nghiệm ở lưu niên nào, trọng điểm suy đoán có mấy điểm cần nắm như dưới đây:

Năm nào cung Mệnh lưu niên bị Hóa Kị của góc độ đặc thù xung đến? Hoặc cung Mệnh lưu niên có Hóa Kị của góc độ đặc thù tọa?

Năm nào cung Mệnh lưu niên có sát tinh tụ tập thành đàn?

Năm nào cung Phu Thê lưu niên có sát tinh hội tụ thành đàn?

Năm nào lưu niên tiến nhập vị trí trong tam phương có Hóa Kị tinh của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh, lúc này lấy Hóa Kị tinh tọa Phu Thê bản mệnh là nghiêm trọng nhất, lưu niên bị xung đến là kế đó, tiếp tục quan sát tổ hợp sao của cung Phu Thê năm này có sát tinh tụ tập thành đàn hay không?

Liền có thể biết được một năm nào sẽ xảy ra chuyện, giả như suy đoán ra được lưu niên xảy ra chuyện nhưng mà cái năm ấy đã thoát ra khỏi phạm vi của đại hạn thì cái ảnh hưởng của Kị tinh do góc độ đặc thù cũng sẽ theo đại hạn mà di chuyển tiêu biến, làm cho hung tính cũng sẽ không sản sinh ở lưu niên ấy.

Căn cứ bí quyết thuật phía trước chúng ta tiến tới cân nhắc xem xét xem năm nào phát sinh chuyện ở thí dụ này:

  • Năm 35 tuổi, vừa khéo trùng điệp với cung Mệnh nguyên cục, mà cung Mệnh lưu niên có Văn Khúc Kị của cung Phu Thê hóa đến tọa, tam phương còn có Liêm Trinh Kị của cung Phu Thê đại hạn hội nhập hình thành góc độ đặc thù là tam hợp. Hơn nữa cung

Phu Thê đại hạn phi một viên Liêm Trinh Kị tiến nhập cung Tài Bạch, cung Tài Bạch là cung vị đối đãi của Phu Thê, dùng để so sánh quan hệ đối đãi tốt xấu của vợ chồng trong đó. Bởi vậy năm này phu thê đối đãi sẽ có “hung tướng” xuất hiện, mức độ nghiêm trọng thì như thế nào đây? Bởi vì cung Phu Thê nguyên cục hóa Vũ Khúc Lộc, Tham Lang Quyền nhập cung Mệnh (cung Mệnh lưu niên), Lộc chủ tình duyên, Quyền chủ ước thúc, đại biểu năm này tuy là có xung đột nhưng tình cảm vợ chồng vẫn còn sâu, không đến mức nghiêm trọng không thèm nể mặt nhau.

Tiếp tục khán năm 36 tuổi: tuy rằng cung Phu Thê lưu niên có Thiên Đồng tự hóa Kị,

Lưu niên bàn xem năm phát sinh chuyện

nhưng mà còn có Thái Âm tự hóa Khoa, Khoa có khả năng hóa giải Kị . Cung Mệnh lưu niên tọa Lộc Quyền, lại không cùng Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh hình thành góc độ tam hợp, nên là không đến nỗi sinh sự.

Năm 37 tuổi thì sao? Cung Mệnh lưu niên bị Liêm Trinh hóa Kị của cung Phu Thê xung đến, mà cung Phu Thê lưu niên lại có Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh, mà cung Phu Thê lưu niên tụa hóa Văn Xương Kị, năm này sự tình tương đối nghiêm trọng. Tự hóa Kị cóhàm ý “xong hết mọi chuyện, cùng lắm thì mặc kệ, không đếm xỉa đến nữa”, năm này là có chút dòng suy nghĩ xung kích muốn giải quyết triệt để, cho nên là một năm rất nghiêm trọng. Lại tiếp tục kiểm tra từng năm từng năm thì có thể phát hiện năm 41 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này cũng rất có khả năng, nhưng là năm nào sẽ xảy ra chuyện? Sẽ truy ngược từng năm so sánh xem giữa các năm có thể xảy ra chuyện thì năm nào phát sinh sự nghiêm trọng nhất thì lấy đó là năm xảy ra chuyện, tỷ dụ như ví dụ này thì năm 37 tuổi là nghiêm trọng nhất, cho nên năm này quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng phải đặc biệt cẩn thận kẻo sinh biến.

Vậy còn các lưu niên sau năm 45 tuổi thì sao? Bởi vì tuổi tác khi ấy đã chuyển sang đại hạn kế tiếp (45 ~ 54 tuổi), cho nên nhất định phải trước khán Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn đó, xem hình thành góc độ cát hung với Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh như thế nào; rồi tiếp đến cân nhắc cát hung lưu niên, nếu không có hình thành góc độ đặc thù gì thì cát hung lưu niên chỉ là tiểu thị phi, tranh cãi nhỏ mà thôi, quan hệ đối đãi giữa vợ chồng ở mệnh cục tiên thiên sẽ không sản sinh ảnh hưởng.

Bởi vậy, Hóa Kị của Mệnh với Hạn ngoại trừ phải hình thành góc độ vật lý đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu”sẽ sản sinh tác dụng cường hóa lực của Hóa Kị tinh để làm cho sự kiện phát sinh ra thì lúc giải thích cần phải so sánh quan hệ mà cung vị sở chủ ý tượng và nhân tình sự cố, nhằm sử dụng từ ngữ phù hợp với tình hình cát hung, không thể chỉ có khái niệm mang tính chung chung như “tha cung hóa nhập ngã cung là cát” hay là “ngã cung hóa nhập tha cung là hung” để giải thích cát hung mà cung nhân sự hoặc vật chất sở chủ, đây là quan niệm cơ bản mà người mới học cần phải nắm rõ.

Cũng bởi là đàm luận vấn đề góc độ Hóa Kị mệnh hạn hình thành, cho nên không bàn vấn đề cách cục với tinh tính của mệnh với đại hạn, thế nhưng lúc ứng dụng thực tế thì hai cái này là tham số tham khảo rất trọng yếu mới sẽ không bỏ sót.

Muốn suy đoán lưu niên cần luyện tập nhiều hơn, nghiên cứu nhiều ví dụ thực tế mới có thể vận dụng được thuần thục, nhưng cũng như phía trước đã nói, vẫn cần cẩn thận kiên trì suy xét đánh giá từng năm.

*Tiểu Hạn –Dùng Để Tham Khảo

Có người hỏi: “Có nói tới đại hạn vì sao không có đàm luận tiểu hạn vậy?” Đây là vấn đề thường nhìn thấy, chúng ta có thể đem sự kiện chia làm hai loại là “nội phát” và “ngoại lai”. Ví dụ như tai nạn xe cộ do người khác lái xe tới đụng vào là thuộc sự kiện của “ngoại lai”, nhưng mà bản thân say rượu lái xe mà phát sinh tai nạn xe cộ hoặc là tai nạn xe cộ ở trên đường cao tốc do uống rượu say là thuộc sự kiện có tính “nội phát”. Hai loại sự kiện như này dấu hiệu hiện lên trên mệnh bàn có tương đồng hay không? Chúng ta thường hay gặp người khác hỏi “Năm nay tiểu hạn tốt không?” Tiểu hạn là kết quả của các hành động khác nhau mà bản thân đã thực hiện trước đó, hiển tượng thành sự kiện, đây là kết quả của nghiệp chướng mà nên, đương nhiên có xấu có tốt rồi! Giống như hiện tượng tai nạn xe cộ được mô tả phía trên, mà “lưu niên” thì là tác động ngoại lai để sự kiện tạo thành, ví dụ như tượng loại tai nạn xe cộ đầu tiên đã thuật ở trên thì chỉ sợ bản thân có thể tránh nó và biết sẽ tai nạn ở nơi nào không? Cho nên, những người theo cách luận tiểu hạn ủng hộ loại lập luận này và vẫn chủ trương tiểu hạn cũng có công hiệu sử dụng.

Người mới học có thể khảo nghiệm nhiều mặt xem các luận điểm có được thiết lập hay không, thu thập nhiều các trường hợp cụ thể để xác minh nghiệm chứng xem có thể thiết lập “luận pháp tiểu hạn” hay là không.

Cung Mệnh lưu niên đang ở đâu vậy? Như năm nay là năm Ất Sửu thì cung Mệnh lưu niên ở cung Sửu, giản đơn minh bạch, thế còn “tiểu hạn” thì ở đâu? Là theo quy tắc dưới đây từ “Địa Chi của năm sinh” để quyết định, khởi pháp như sau:

  • Năm Dần, Ngọ, Tuất: lấy “Thìn” khởi 1 tuổi
  • Năm Thân, Tý, Thìn: lấy “Tuất” khởi 1 tuổi
  • Năm Hợi, Mão, Mùi: lấy “Sửu” khởi 1 tuổi
  • Năm Tị, Dậu, Sửu: lấy “Mùi” khởi 1 tuổi1

Khẩu quyết khởi tiểu hạn:

Tiểu hạn nhất niên nhất độ phùng; Nam thuận nữ nghịch bất tương đồng

Dần Ngọ Tuất nhân Thìn Thượng khởi; Thân Tý Thìn nhân tự Tuất cung

Tỵ Dậu Sửu nhân Mùi cung thủy; Hợi Mão Mùi nhân khởi Sửu cung

Nghĩa là:

Tiểu hạn mỗi năm chuyển một cung; Nam thuận nữ nghịch chẳng giống nhau

Năm Dần Ngọ Tuất : Thìn thứ nhất ; Năm Thân Tý Thìn : Tuất làm đầu

Năm Tỵ Dậu Sửu : Mùi đếm trước ; Năm Hợi Mão Mùi : từ Sửu cung

Tiểu hạn là một trong ba cung quan trọng dùng để xem vận hạn hàng năm (2 cung khác là Đại hạn và Lưu niên đại vận) mà Nam phái thường sử dụng.

Quan Lộc đại hạn

Sau đó, tiếp tục phân chia nam nữ, giới tính nam thuận kim đồng hồ chuyển, như người nam mà sinh năm Dần thì 2 tuổi là Tị, 3 tuổi là Ngọ; giới tính nữ nghịch kim đồng hồ chuyển, như nữ nhân sinh năm Dần thì 2 tuổi ở Sửu, 3 tuổi ở Tý.

Như ví dụ trên, nam sinh năm Mão, tiểu hạn từ cung Sửu khởi 1 tuổi, thuận kim đồng hồ chuyển động, cho nên đem số tuổi tiểu hạn của Tử Nữ đại hạn đánh dấu ở trên mệnh bàn, mọi người có thể đối chiếu với lưu niên bàn. (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, cần hiểu đây là tác giả nói đại hạn đang ở cung Tử Nữ nguyên cục)

Còn như làm sao sử dụng tiểu hạn đây? Có thể nói giản đơn như sau:

  • Trước tiên, đem hạn Lộc Tồn, hạn Kình Dương, hạn Đà La bài nhập mệnh bàn, ví dụ như mệnh tạo ở ví dụ này cung Mệnh đại hạn ở cung Tử nữ, mà Can cung là Mậu thì Lộc Tồn nhập Tị cung, Kình Dương nhập Ngọ cung, Đà La nhập Thìn cung (trong mệnh bàn dùng khung vuông ghi chú rõ rồi – LC chú: tác giả dùng khung vuông ghi chú nhưng chúng ta dùng kí hiệu nào đánh dấu thì tùy mỗi người).
  • Tiếp tục đem đại hạn chuyển hoán bắt đầu lại từ đầu theo Ngũ hổ độn, đem cung Can điền nhập các cung, ví dụ như Mậu hạn thì Thiên can là Canh, một lần nữa lấy Can Mậu của cung Mệnh đại hạn dùng Ngũ hổ độn Dần thủ. Bởi vậy Dần thủ Thiên can là Giáp, y theo thứ tự đem Thiên can điền nhập vào các cung, (trong mệnh bàn có dùng ghi chú bằng khung vuông), đây là phương thức rất đặc thù phải nhớ kĩ sau khi đại hạn chuyển hoán mới sử dụng Thiên can Dần thủ mới để phi tứ hóa.

Đại hạn bàn nhưng dùng Can năm sinh khởi Thiên can của Ngũ hổ độn, còn Tiểu hạn thì sao? Thì một lần nữa sử dụng Thiên can các cung khởi Ngũ hổ độn, từ chỗ rơi cung vị khi phi tứ hóa tiến nhập đại hạn mệnh bàn xem có hình thành các góc độ đặc thù gì không? Rồi quyết định mức độ cát hung hiện tượng sự vật.

Còn về việc phải dùng cung vị nào để phi tứ hóa? Trong rất nhiều sách thường chỉ viết dùng cung Mệnh đại hạn hoặc cung Mệnh tiểu hạn để phi tứ hóa mà thôi, thế nhưng chúng ta mỗi ngày đối mặt với rất nhiều các loại sự việc khác nhau như là gia đình, sựn nghiệp, vợ chồng, con cái … từng khía cạnh đều có các hiện tượng với mức độ cát hung khác nhau, lẽ nào đều là chỉ lấy mỗi cái cung Mệnh ấy đại biểu toàn bộ? Cho nên là không thể nào, cần phải phân ra các sự vật khác nhau để định ra các cung chủ chưởng sự vật khác nhau nhằm phi tứ hóa để tìm cát hung mới đúng.

Bởi vậy, lúc xem cung chủ sự của đại hạn phi tứ hóa có cùng hình thành các góc độ hiệu ứng cát hung với cung chủ sự của tiểu hạn hay không, tới phán đoán cát hung,

Tứ hóa của cung Phu Thê đại hạn phi xuất thì dùng hình tứ giác vuông điền nhập vào trong mệnh bàn:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Huynh Đệ
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Đại hạn Phu Thê hóa Thái Dương Lộc ở Quan Lộc đại hạn là hiện tượng “Lộc xuất”, biểu thị duyên phận vợ chồng có sự xa cách, mà Thái Âm Khoa và Thiên Đồng Kị xung đến Tài Bạch của đại hạn cho thấy mối quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng kém đi, tình cảm trở nên không nồng ấm, đương nhiên quan hệ hôn nhân sẽ dễ sinh biến hóa, là năm nào đây?

Kết quả vừa nhìn, cung Mệnh đại hạn bị sát tinh Kình Dương, Đà La từ tam phương tới hội tụ gây trắc trở, cung vị đối đãi của đại hạn lại bị Thiên Đồng Kị xung kích. Tiểu hạn năm 37 tuổi tọa vào đúng vị trí Kị của Phu Thê tiên thiên bay tới, mà cung Phu Thê tiểu hạn năm 39 tuổi có Văn Khúc Kị tinh của Phu Thê tiên thiên hóa nhập, hai cái niên hạn này đều phải chú ý. Tiếp tục sẽ dùng Phu Thê của tiểu hạn để phi bố tứ hóa xem xét (dùng Thiên can Dần thủ mới khởi), cung Phu Thê tiểu hạn năm 37 tuổi ở Hợi có Can là Quý : Tham Lang hóa Kị nhập cung Mệnh, bởi vậy có thể thấy năm này quan hệ đối đãi giữa vợ chồng có chuyển biến xấu. Năm 39 tuổi thì cung Phu Thê tiểu hạn ở Sửu có Can là Ất : Thái Âm hóa Kị, mà Thái Âm lại chủ phái nữ, chủ vợ hoặc con gái, hiện tại người này là nam mệnh luận hôn nhân đương nhiên là lấy chuyện vợ con để xem. Nếu Thái Âm tinh hóa Kị, quan hệ với vợ tất nhiên chuyển biến xấu, cho nên năm 39 tuổi quan hệ vợ chồng thay đổi theo hướng xấu, hơn nữa Thái Âm hóa Kị thì vợ không muốn nhân nhường nữa, không im hơi lặng tiếng hay uyển chuyển để tìm cầu toàn mà sẽ làm cho phu thê rùm beng. Hơn nữa đồng thời còn có Kình Dương và Đà La của đại hạn càng tăng sự soi xét, liệu nó có đến mức nối giáo cho giặc không, như ví dụ này thì may là không có hình thành góc độ đặc thù ở cung Mệnh với cung Phu Thê của niên tuế, nên là hung lực gây họa không quá lớn.

Bởi vậy, tiểu hạn là cách luận có thể phụ trợ cho lưu niên, khi hai cái này đều hiển hiện hiện tượng nào đó một cách đột hiển thì cái năm này phải đặc biệt coi chừng.

Còn có một số người không phải là dùng tứ hóa mà là dùng “lưu niên tướng tiền chư tinh” để suy đoán sự vật sự việc của lưu niên, có thực có chuyện này hay không? Ta chưa từng thực nghiệm, mọi người có thể đi nghiệm chứng khảo nghiệm, lúc rảnh rỗi có thể viết chuyên thư tới thảo luận, bởi vì chỉ thấy có người nói điểm chút tới mà chưa thấy ai phán đoán suy luận sự kiện tỉ mỉ kỹ càng bằng “lưu niên tướng tiền chư tinh” cả. Vì thế ta suy đoán đây là “hư chiêu” dẫn dụ người vào phương hướng nghiên cứu lầm lối, nếu ta suy đoán sai xin được hoan nghênh chỉ điểm ra chỗ sai.

Cá nhân có cần dùng tiểu hạn như thói quen không, bởi vì y theo trình tự suy lý “Tại Thiên thùy tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự”, nếu lưu niên bàn hoặc tiểu hạn bàn là mắt xích cuối cùng, thừa thụ thùy tượng của tiên thiên mệnh bàn với đại hạn bàn để sự vật thành hình thì hẳn là tượng sự vật cũng sẽ có sự tương đồng. Bởi thế cá nhân người viết để đơn giản hóa trình tự, tránh cho phải điền nhập quá nhiều thứ làm rối hình lá số, không biết làm sao để nắm bắt mà nói cho nên là chỉ dùng lưu niên mà thôi.

(Tử vi mệnh vận phân tích thực lệ – Từ Tăng Sinh. Linh Chi biên dịch)

Căn Nguyên Sự Thay Đổi Biến Hóa

Vạn Tượng Của Tinh Diệu

Có rất nhiều bằng hữu hỏi về vấn đề tinh diệu, cho rằng tứ hóa phi tinh phái đối với tinh diệu tựa hồ không quá coi trọng, đây là nhận xét cực kỳ sai lầm; nếu tứ hóa là dụng thần của Tử Vi Đẩu Số thì như vậy tinh diệu có thể nói là thần tượng, không phải thần tượng thế dụng thần cũng không có cách nào nương tựa, cho nên tinh diệu là công phu nhập môn để học tốt Tử Vi Đẩu Số. Thế nhưng đối với ý nghĩa và giải thích các tinh diệu, các lưu phái không có cùng thuyết pháp, làm cho người chưa kết luận được, người mới học lại càng phức tạp.

Trên thực tế, chỉ với hơn ba mươi sao muốn phản ánh muôn vàn tượng sự vật của nhân sinh trong cuộc sống thật sự đó là quá trình rất phức tạp; với người toán mệnh thì khi nhìn vào các kí hiệu trên mệnh bàn để suy luận ra các sự kiện mà muốn giải thích như thế nào cho phù hợp với hiện tượng nhân sự thực tế thì sẽ phải luôn cân nhắc, tỉ mỉ diễn hóa mới có thể đi đến sát với thực tế hiện tượng, mà việc cân nhắc diễn biến này trong quá trình suy tính có rất nhiều nhân tố, trong đó có tính chất của sao là cơ sở rất trọng yếu trong luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số.

Tinh diệu trong cơ cấu Tử Vi Đẩu Số đảm nhiệm hiển hiện công hiệu của [hình tượng nhân sự vật], nó phải theo sự biến hóa của cung vị mà thay đổi hình tượng của nó, tinh tú đồng cung cũng sẽ làm tăng tình tiết hình tượng nhân sự vật đó, mà diễn hóa hiệu quả sinh ra có sự mạnh yếu. Do đó, đem tinh tú chuyển hóa thành [hình tượng nhân sự vật] là một sự cần thiết trong quá trình suy tính nhiều phương diện.

Ví dụ như: Thái Dương rơi vào cung Mệnh và cung Điền Trạch thì hình tượng đại biểu không có giống nhau. Khi ở cung Mệnh nó chỉ về tướng mạo, cá tính, ngoại hình của người, giải thích các đặc trưng của người. Khi nhập cung Điền Trạch thì giải thích các cảnh vật có liệ quan đến điền trạch, Thái Dương chính là chỉ các cảnh vật như trạm xăng dầu, đài phát thanh, trạm biến áp, cục viễn thông … cho nên hình tượng nhân sự vật mà tinh diệu sở thuộc đại biểu nó tùy theo sự biến động của cung vị mà chuyển hóa.

Bởi vì tinh diệu có số lượng ít mà nhân thế thì lại hàng ngàn hàng vạn sắc màu khác nhau, cho nên cần có sự kết hợp phụ trợ của những phụ tinh sát diệu khác mà hiển hiện hoặc chuyển hóa ra rất nhiều hình tượng nhân sự vật khác nhau, những hình tượng nhân sự vật này có thể căn cứ tình hình:

  • Vấn đề được hỏi của người hỏi: tìm ra cung vị tương ứng có chuyển biến, bởi vì mười hai cung vị đại biểu hàng ngàn hàng vạn hiện tượng nhân sự, có một số vấn đề sự tượng thực tế không phải là ngày thường gặp phải nên ở khía cạnh lập hướng cũng phải luôn có sự cân nhắc xem xét mới có thể xác định. Sau khi lập hướng, tiếp tục căn cứ tình hình cung vị, sao, tứ hóa để phân biệt hình tượng sự kiện.
  • Suy xét cung vị với tổ hợp sao tọa để diễn hóa: tập trung vào quan hệ phi hóa nhập xung chiếu hợp của tứ hóa bản mệnh, đại hạn một cách rõ ràng để tìm ra điểm xảy ra vấn đề, chủ động đưa ra giải thích.

Muốn phân giải chính xác hình tượng sự vật, thực tế không phải là một xúc có thể đụng, phải trường kì gom góp tích lũy kinh nghiệm và sự từng trải việc đời việc người; cũng phải nắm rõ các quy tắc của mệnh lý, mới có thể vận dụng tốt nhất, nắm giữ trong lòng, người đạo hạnh Đẩu Số cao thâm thường hay có thể một lời nói rõ ra được nỗi băn khoăn của người hỏi mệnh, đạo lý cũng là ở chỗ này.

Người mới học phải hao tốn rất nhiều thời gian để tìm tòi hình tượng sự vật của tinh diệu, thế nhưng trước hết phải học tốt cách vận dụng tứ hóa, không phải là từ trong mười hai cung lấy ra một cung vị nào đó hoặc sao nào đó là có thể phân giải ra hình tượng sự vật. Có thể lấy ra được cung vị lập hướng chính xác thì có thể sử dụng khả năng thống kê phân loại mạnh mẽ của máy vi tính, đem các mệnh lệ vốn có các sự kiện tương đồng quy nạp cùng một chỗ, trải qua học hỏi luyện tập thông thạo có tính hệ thống, đem kết hợp hình tượng nhân sự vật được đại biểu bởi các tinh tú, thì có thể nắm bắt tốt được hình tượng sự vật mà tinh tú hàm ẩn, tiến tới tích lũy chính xác quy tắc suy lý.

Tinh diệu tùy vào các nhân tố như lạc nhập vào cung vị địa chi khác nhau, cung nhân sự khác nhau, hóa tinh khác nhau, tổ hợp tinh tú trong cung khác nhau, chúng đối với tính chất của sao đều làm xuất hiện “thay đổi”, tính chất sao

biến đổi cũng không có giống nhau, được gọi là bốn loại hình thái biến hóa của tinh diệu, cách gọi theo thứ tự là “Chất hóa”, “Loại hóa”, “Dị hóa” và “Hóa khí”, phân loại tên gọi chính xác là “Tinh diệu tứ hóa” và “Thiên can tứ hóa”.

Cái Gì Gọi Là “Chất Hóa Của Sao”

Trong quan hệ của tinh diệu và Địa chi, thì Địa chi có thể ví như là thổ nhưỡng, còn Tinh diệu được coi là hạt giống, hạt giống đó có thể rơi vào các thổ nhưỡng khác nhau, cho nên hạt giống rơi vào thổ nhưỡng thích hợp là có thể lớn lên cao lại khỏe mạnh; còn nếu rơi vào thổ nhưỡng cằn cỗi có hại thì lớn lên nhỏ mà thấp, thậm chí còn có tính độc. Cho nên, Địa chi là chính thể, Tinh diệu là khách thể, đây là điều phải được xác định trước tiên khi phán đoán tinh diệu lạc nhập cung vị sản sinh tác dụng “chất hóa”.

Cường Độ Tinh Diệu Thay Đổi Về Chất

Tinh diệu lạc nhập các cung thì vì ngũ hành của Địa chi sở tại khác nhau, sẽ cùng với ngũ hành của Tinh diệu sản sinh tác dụng tương hỗ mà dẫn khởi chuyển biến về bản chất, mà loại biến hóa này làm cho có sự tăng giảm “tuyến tính” xuất hiện, không phải là chuyển biến thành một loại hiện tượng “đột biến” về tính chất. Bản thân tinh diệu cũng có ngũ hành thuộc tính, mà lạc nhập Địa chi cũng có ngũ hành thuộc tính, ngũ hành của Địa chi và ngũ hành của Sao sẽ sản sinh [tác dụng ngũ hành sinh khắc] mà làm cho tính chất của Tinh diệu có tác dụng được “Cường hóa hoặc Nhược hóa”, dạng đặc tính xuất hiện này được gọi chung là “Miếu hãm lợi vượng”, hiện tượng này được gọi là “Chất hóa”. Trên cơ bản thì mỗi một viên sao đều có hai loại tính chất đặc biệt “Diện hướng”, ví dụ như Thiên Đồng y theo cổ văn nói là “chủ là người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tâm từ thẳng thắn, văn mặc tinh thông, có ý chí”. Đây là đặc tính tích cực, nếu mở rộng đến mặt trái thì cũng có đặc tính “thoái lui, nhu nhược, vô vi, bàn suông, lười nhác”, loại cải biến “Chất hóa” này chính là hiện tượng khiến cho tính chất tích cực và tính chất tiêu cực của tinh diệu được cường hóa hoặc nhược hóa, cũng không thể cho thấy tình hình là cát hay là hung, ví dụ như có người cá tính thì lại thích “thanh bần nhạc đạo, thích ứng trong mọi tình cảnh, tri túc thường nhạc” vui vẻ điềm đạm không mành danh lợi, đối với những người “tranh quyền đoạt lợi, ham hưởng thụ, liều mạng kiếm tiền” đó là điều không hiểu được nhưng đối với đương sự mà nói thì đây là hưởng thụ với phúc báo lớn nhất rồi. Cho nên “Chất hóa” của sao chính là hiện tượng làm cho tính chất mặt tích cực hoặc mặt trái của tinh diệu được tăng lên hay yếu đi, người viết dùng “mặt trái” để hình dung một phía tính chất đặc biệt khác chứ không có hàm ý phủ định, giống như dạng cách gọi điện dương với điện âm hoàn toàn không mang hàm ý cát hung gì.

Bởi thế tinh diệu sau khi trải qua ảnh hưởng “Chất hóa” làm cho tính chất của tinh diệu có thể mạnh thêm hoặc yếu bớt đi, cổ nhân lấy “Miếu hãm lợi vượng” để gọi tên, độc giả có thể đối chiếu tham khảo thêm từ bảng biểu ở trên. Chỉ cần là tinh diệu cư ở các cung trên bản mệnh bàn thì nó có hiệu lực sản sinh hiệu quả cả đời, còn những tinh diệu này nếu là cư ở cung vị đại hạn thì cũng có thể xuất hiện hiện tượng ở trong hạn đó, cũng đều cần xem xét những thay đổi trong bản chất của tinh diệu sau khi bị ảnh hưởng bởi “chất hóa của miếu hãm lợi vượng”.

Sự biến đổi về bản chất của tinh diệu cùng với sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết. Bởi vậy, có thể thấy ngũ hành của cung vị Địa chi và ngũ hành của tinh diệu có quan hệ như thế nào thì cũng biết được định đính “miếu vượng lợi hãm” của tinh diệu như thế , cũng làm thoải mái hơn trong nắm bắt ý nghĩa của chính tinh khi nhập cung, cũng không cần phải nhớ cứng ngắc theo bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu.

Giả như ngũ hành của Địa chi sinh cho ngũ hành của Tinh diệu thì sẽ làm tăng mạnh tính chất tinh diệu, tính chất tốt sẽ được cường hóa, tính chất không tốt tương tự cũng sẽ được liệt hóa mà không phải là tăng mạnh tính chất tốt của tinh diệu.

Ngũ hành Địa chi khắc ngũ hành Tinh diệu thì tính chất của tinh diệu cũng sẽ bị suy yếu, tính chất tốt bị suy giảm, tính chất xấu cũng yếu nhược đi.

Nếu như ngũ hành Tinh diệu sinh cho ngũ hành của Địa chi: bởi vì phải hao phí tinh thần đến sinh cung Địa chi, có sát tinh đồng cung dễ phải tự lo không xong.

Ngũ hành Tinh diệu khắc ngũ hành Địa chi: bết bát hơn, hao tổn tác dụng của tinh diệu, càng sợ có sát tinh nhảy vào, chuyển hóa làm tính chất không tốt có đất phát triển, đây là biến dị của tinh diệu. Tượng, gọi giản đơn là “Dị hóa”, về sau bàn tiếp.

  • Âm, dương tương sinh là hay nhất: âm sinh dương hoặc dương sinh âm, như cung Dần là Giáp Mộc sinh cho Âm Hỏa của Liêm Trinh hoặc Quý Thủy của Phá Quân khi tiến nhập Dương Kim của cung Thân … chính là lấy ngũ hành của cung vị sinh cho ngũ hành của tinh diệu. Giả như ngũ hành tinh diệu tới sinh ngũ hành cung vị thì không có hiệu lực gì, ví dụ như Thủy của Phá Quân lạc nhập tới sinh cho Mộc ở cung Dần thì không phải là tốt, bởi vì chủ khách có khác biệt cho nên Phá Quân nhập cung Dần chỉ là “Đắc địa” mà thôi.
    Thí dụ như: Thái Dương [dương Hỏa] rơi vào cung Mão [âm Mộc], môi trường âm Mộc càng làm cho khi Thái Dương bính Hỏa lạc nhập càng thêm tràn đầy cho nên tính chất tích cực của Thái Dương như chính trực, quang minh, bác ái, giúp người, rộng rãi … sẽ mười phần hiển hiện, bởi vậy người có cách “Nhật chiếu lôi môn” sẽ càng hiển hiện rỗ những tính chất đặc biệt này. Hoặc như Tham Lang [giáp Mộc] thì cung nào có thể tới sinh cho nó? Âm Thủy tới sinh cho [dương Mộc] của Tham Lang thì Tý vị có thuộc tính là âm Thủy, cho nên Mộc của Tham Lang rơi vào Tý vị là vượng, “Tham Lang là thần của họa phúc, chủ người tính cương uy mãnh cơ thâm mưu xa, tùy sóng theo sóng, yêu ghét khó định, cư miếu vượng, gặp Hỏa Tinh quan võ quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục” chính là chỉ Tham Lang Tý gặp Hỏa Tinh là có thể quan võ quyền quý. Bởi vậy, âm Thủy của Tý vị có thể làm tính chất tốt của Tham Lang phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, có thể thành đại cách cục tốt “Mã đầu đới tiễn, uy chấn biên cương”!
  • Dương sinh dương, âm sinh âm: tốt tiếp theo, ví như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Thân [dương Kim], được Kim sinh làm [dương Thủy] mạnh thêm cho nên tinhc chất tích cực của Thiên Đồng cũng có thể thích hợp mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản của Trung Dung đến xem thì có: các đặc tính như trong các quy tắc mọi thứ vẫn được ổn định, không quá cầu danh lợi, tri túc thường nhạc, tâm tính hào phóng rộng rãi… Mặt khác Thiên Đồng [Thủy] ở cung Dần [Mộc] bởi vì phải tổn hao công phu đi sinh Mộc của cung Dần mà tiêu hao năng lượng, nên đặc tính còn hơn Thiên Đồng ở cung Thân, tương đối lười nhác, không tích cực, bị động, thích hưởng thụ một chút … Bởi thế, con đường phát triển của đời người tương đối bị hạn chế, mà lấy đặc tính “Ấm phúc tụ không sợ tai ương” mà nói, khi Thiên Đồng tinh Thân vị có thể gặp hóa cát nếu so với tổ hợp ở Dần vị rõ ràng mạnh hơn, một cái có khả năng hóa giải nhẹ, một cái có khả năng hóa giải nhưng lại mạnh hơn. Cho nên Thiên Đồng lạc nhập cung Dần là “Lợi”, còn lạc nhập cung Thân là “Vượng”, tuy cùng là [Thiên Đồng, Thiên Lương đồng vị] nhưng tính chất vẫn có một chút khác biệt.
  • Âm khắc dương, dương khắc âm: hữu tình, tính chất mặt trái bị áp lực, mặt tích cực cũng bị áp chế, nên khi tính chất tích cực của tinh diệu hiển hiện thì cũng đồng thời xuất hiện cả tính chất mặt trái, loại hiện tượng đồng thời tồn tại như này lánh đi cũng không được mà nhường người ta cũng khó có được vui vẻ như ý. Ví dụ như Thiên Đồng [dương Thủy] rơi vào cung Mùi [Thổ] thì Thổ khắc Thủy [dương Thủy] cho nên tính chất tích cực của Thiên Đồng chịu áp lực, tính chất mặt trái cũng sẽ quá độ mà phát triển. Lấy tiêu chuẩn cơ bản Trung Dung đến xem, thì có: lười nhác, đa cảm và các hành vi cư xử rõ ràng, vì thế Thiên Đồng rơi vào Sửu Mùi cung, khi Thiên Đồng nhập mệnh hạn nói về cát hung có thuyết “Thiên Đồng nhập Sửu Mùi cung, không đắc địa”, không lấy cát luận, mà các hiện tượng được định hình trong cuộc sống chẳng hạn như là: “có nhiều tâm sự không thể nói với người ngoài, khi mặt đối mặt với mọi người thì lại miễn cưỡng vui cười, có nhiều chuyện không như ý khó có được niềm vui”. Hoặc như Thiên Tướng [dương Thủy] rơi vào cung Tị, Tị là đất vượng của [Hỏa], nên khi đem Thiên Tướng [Thủy] tinh vào đây thì tính chất tích cực của Thiên Tướng không có cách nào hiển hiện, thi triển không được, mà đặc tính mặt trái lại diễu võ dương oai, vốn dĩ là “ngôn ngữ trung thực, gặp chuyện không dối trá, gặp người có khó khăn trong lòng có trắc ẩn, gặp người ác trong lòng giận dữ cảm thấy bất bình”. Tuy rằng đều vẫn còn đó, nhưng lại phát sinh lệch đi, như tinh thần trọng nghĩa quá đà, giống như bang phái phân chia, hoặc không thức thời mà làm náo động khiến chính bản thân bị ảnh hưởng không tốt, đối với vận đồ cuộc sống cũng gặp trở ngại tương đối, hoặc thêm mệt nhọc không thuận lợi nữa, đây hoàn toàn là kết quả chính tinh lạc cung đưa đến.
  • Dương khắc dương, âm khắc âm: vô tình; rất không tốt, làm tính chất thiện lương của tinh diệu chuyển hóa cải biến triệt để, như: Thiên Đồng [dương Thủy] đóng ở cung Tị [dương Hỏa] sẽ làm cho dương Hỏa liệt dương Thủy vô tình, cũng làm tính chất của Thiên Đồng hoàn toàn cải biến, nguyên cớ trong Đẩu Số Toàn Thư nói “Đồng Lương Tị Hợi vị, nam đa lãng đãng nữ đa dâm” là tại sao chứ? Cũng là bởi vì dương Hỏa sẽ làm khô nóng dương Thủy của Thiên Đồng mà khiến cho tính chất mặt trái của Thiên Đồng hoàn toàn phát huy, trở thành lười biếng, có các hiện tượng cẩu thả, háo sắc, ham hưởng thụ, ủy mị không phấn chấn … Bởi vậy cổ nhân mới dành cho người Thiên Đồng ở Tị lời bình như thế.

Ngoại lệ: còn có một số hiện tượng ngoại lệ chẳng hạn như Thiên Cơ [Ất Mộc] rơi vào cung Sửu [Thổ], Thổ tới sinh Ất Mộc của Thiên Cơ hẳn là càng chương hiển tính chất tích cực của Thiên Cơ tinh chứ nhỉ! (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, có lẽ ý tác giả đang chỉ về cây tức Mộc được ở trồng trong đất tức Thổ nên đất làm cây tốt lên) Người nghĩ lầm, không phải là “Thổ sinh Mộc” mà là “Thổ sinh Kim” chứ, nhưng mà Mộc của Thiên Cơ ở trong Thổ tại sao ở bảng biểu miếu vượng lợi hãm của tinh diệu lại ghi trạng thái là “Lạc hãm”? Nguyên bởi bốn cung vị Thìn Tuất Sửu Mùi nó thừa tục trạng thái chuyển hoán của cung vị trước nó một cung mà bao hàm ngũ hành khí bên trong của cái cung vị trước ấy, như trong Sửu [Thổ] thì có hàm chứa [Thủy] khí của Tý vị cho nên loại Thổ này giống như “đất ao đầm” hoặc “cát lắng”, về căn bản nó không sinh nổi Mộc của Thiên Cơ, cho nên Mộc của Thiên Cơ khi nhập vào đây dễ tiêu thất nên là lạc hãm. Bởi vậy, tính chất mặt trái trong tính chất đặc biệt chung của Thiên Cơ tinh sẽ được cường hóa mà tính chất tích cực lại bị nhược hóa, Thiên Cơ vốn là tinh diệu thuộc thần trí rõ ràng, cơ trí nhạy bén khi lạc nhập vào đây thì thần kinh trở nên quá nhạy cảm, thần kinh suy nhược, đối với bất cứ chuyện gì hay cử chỉ của ai đó đều sẽ lấy mặt trái suy xét khiến cho bản thân dễ nghi thần nghi quỷ, hoặc là đặc biệt nhạy cảm đối với những sự vật có tính quái lạ, liệu có không? Thì là do tư duy thiếu mạch lạc, lối suy nghĩ rối rắm, không phân rõ nặng nhẹ, thân sơ viễn cận (LC chú: ý chỉ thân cận thì sơ sài mà xa xôi lại gần gũi); nếu là ở đất miếu vượng, ngư ở Ngọ vị không chỉ thần trí rõ ràng, suy nghĩ rõ ràng, trật tự mạch lạc, cơ trí minh mẫn, với nghiên cứu, thi cử hoặc đối nhân xử thế đều có giúp ích rất lớn, đương nhiên cũng dễ trở thành nhân vật trung lưu trong xã hội. Cho nên một số định nghĩa và suy nghĩ của chúng ta về sự miếu hãm của tinh diệu ở trong bảng biểu miếu hãm lợi vượng của tinh diệu còn có một số chỗ không khớp, cái này muốn dựa vào sự ghi nhớ thuộc lòng chẳng hạn như Thiên Cơ Mộc nhập cung Dậu Kim vị thì Ất Mộc của Thiên Cơ chẳng phải là bị Kim ở Dậu khắc chế hay sao chứ? Vậy phải là bị “Lạc hãm” chứ! Tại sao lại là “Vượng” vậy? Cái này không cách nào dùng quan hệ ngũ hành sinh khắc để giải thích được, chỉ có thể dùng định nghĩa về kim thí dụ như là dùng rìu đục để tạo hình cây cối, có thể đem gỗ mục tạo hình nghệ phẩm hoặc gia cụ có giá trị được nâng lên cao trên diện rộng nhằm biểu thị hàm ý cho sự nhập miếu thôi.

Cái Gì Gọi Là “Dị Hóa Của Sao”

Nếu có hai sao ở cùng một cung thì trước tiên cần xem xét quan hệ sinh khắc chế hóa của sao với cung, sau đó cân nhắc ảnh hưởng sinh khắc chế hóa của tinh diệu ở trong đó, thì có thể biết được sự tốt xấu của cung với tổ hợp sao lạc nhập.

Do ảnh hưởng quan hệ tương hỗ được tăng cường hay suy giảm của tổ hợp sao tọa trong cung lúc đó mà làm cho tính chất của sao có chuyển biến, là thông qua tác dụng vật lý, hóa học mà dẫn khởi, hai sao cùng lạc nhập một cung cũng không thể đơn giản lấy quan hệ ngũ hành sinh khắc gia giảm tác dụng ngay lập tức, có một số tổ hợp tinh diệu sẽ sản sinh một vài đột biến làm cho tính chất của sao có sự chuyển biến 180 độ, cái hiện tượng này được gọi là “Dị hóa của sao”.

Ví dụ như: Thái Âm vốn chủ ôn nhu, nhưng [Thái Âm Hỏa Linh đồng vị, ngược lại thành Thập ác] chính là tổ hợp dị hóa điển hình, cũng không phải là Thái Âm [Thủy] bị Hỏa Tinh [Hỏa] sở khắc, chỉ chủ ôn nhu kém vẻ mà thôi, mà là chuyển biến hoàn toàn thành: giỏi về tâm cơ, tính toán, hay đố kị, chanh chua, tính cách đôi lúc hơi vô lý, bởi thế tổ hợp hai sao trở lên phải chú ý tính chất “Dị hóa” nhằm chuyển hoán giải thích cho hợp lý, tổ hợp dị hóa mọi người có thể tìm được ở trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Như: “Thiên Đồng cung Tuất Hóa Kị, Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai”. Người sinh năm Đinh cung Mệnh tại Tuất có sao Thiên Đồng tọa, tình trạng Thiên Đồng là “bình thản”, nếu như Can cung là Canh thì làm cho sao Thiên Đồng trong cung tự Hóa Kị, mà Can năm sinh là Đinh thì làm cho Thiên Đồng trong cung Tuất thành Hóa Quyền, cung Thìn ở đối diện có Cự Môn Kị cũng đứng sóng đôi nhìn chằm chằm vào Thiên Đồng Quyền ở cung Mệnh, vốn dĩ thực lực của Quyền với Kị cứng rắn nhưng tự Hóa Kị lại làm phá hư hết, Thiên Đồng tinh vốn bình hòa nay khí thế yếu ớt vậy sao có thể luận là tốt được đây? Đây cũng là một loại “Dị hóa”, nhưng phải kết hợp cùng năm sinh với Can cung Tứ hóa để khán điểm kỳ lạ trong đó; loại người có mệnh cục như này thường thường “Nhược cực phản cường”, luôn cho thấy sự bền bỉ và tinh thần chiến đấu như siêu nhân luôn nỗ lực phấn đấu dù trong nghịch cảnh mà thu được thành công.

Sự cát tường hay ác của tinh diệu càng không thể chỉ nhìn vào mặt chữ để phán định, ví dụ như sao Thiên Lương (天梁星) không thể vì âm nó gần với “thiên lương” (天良 ) mà cho là rất hiền lành, trái lại thực tế có những lúc lại tỏ ra rất nghiêm nghị khiến cho người khác không thể

chịu đựng được, bởi vì nó là thống soái tinh lãnh đạo chúng nhân, phải công bằng mới có thể làm cho mọi người tin phục, cho dù con cái có phạm sai lầm cũng muốn xử trí cho nên có bao hàm ý cô khắc trong đó.

Vì vậy mỗi một sao đều có tính chất tích cực và tính chất mặt trái của nó, nếu như sát tinh ít thì sẽ biểu hiện mặt hiền lành tốt đẹp, nếu như Kị sát trùng trùng sẽ hiển lộ đặc tính bất lương. Lúc giải thích tính chất của sao không thể quên mỗi một sao thực tế đều tồn tại cùng lúc bên ngoài quang quang bên trong âm ám, mà diện hướng hiển lộ là gì? Tất cần phải xem xét bảng biểu miếu hãm lợi vượng với phụ tinh sát diệu đồng cung.

Cái Gì Gọi Là “Loại Hóa Của Sao”

Tinh diệu bởi vì các cung vị rơi vào, trong đó có một số là lục thân cung, một số cung vị có tính vật chất, cũng có một số cung vị có tính tinh thần, cho nên tính chất của sao nhất định cần tương ứng với cung vị khác nhau mà huyễn hóa ra hình tượng sự vật khác nhau để giải thích, này gọi là “Loại hóa”, cùng với hiện tượng nhân sự vật trong thực tế tương chiếu.

Vấn đề mà người hỏi mệnh đưa ra rất đa dạng hóa, tuyệt không phải mười hai cung với tinh diệu có thể bao quát hết được, ví dụ như: từng gặp có đánh mất một số tiền lớn mà đến hỏi có khả năng có thể tìm về được hay không, sư phụ nói cho họ biết có thể ở gần xung quanh chỗ tủ lạnh thử tìm một chút xem, quả nhiên là tìm được thật, xin hỏi tủ lạnh là viên sao nào đại biểu? Cái này đòi hỏi đến công năng của “Loại hóa”, lại có người hỏi người hướng dẫn giảng dạy cho họ không được tốt? Có thể làm cho ta thuận lợi tốt nghiệp được hay không? Xin hỏi là người hướng dẫn chỉ dạy thì là cung nào hoặc sao nào biểu hiện, vì thế trước tiên phải biết “Lập hướng” hoặc “Lập tượng” như thế nào, sau đó từ trong cung “Lập hướng” lấy ra tinh diệu tới loại hóa tìm được hình tượng sự vật nhằm giải thích cho người hỏi mệnh có thể hiểu được, cái này đương nhiên không phải là tùy tiện xem xét tưởng tượng tới loại hóa, mà cần phải thông qua thống kê thu nạp và phân tích tìm ra “Tinh diệu” cùng “Loại hóa” tương chiếu với vật hoặc sự tình đó. Ví dụ như rất nhiều người đều biết “Kình Dương” là đao giải phẫu, đây là loại hóa, thế nhưng lúc nào thì lấy “Loại hóa tượng” này để giải thích, ứng dụng thì nhất định phải căn cứ vào vấn đề mà người hỏi mệnh hỏi để từ trong mệnh bàn tìm ra cung vị “Lập hướng” rồi từ tổ hợp sao tọa trong cung tới “Loại hóa” thành sự vật sự việc trong thực tế để phân giải hình tượng sự vật sự việc. Cái này trong Tử Vi Đẩu Số là kỹ xảo cao cấp nhất, cũng là kỹ xảo trọng yếu rất hay thường dùng đến, công phu toán mệnh có linh hay không linh cũng phải xem xét đến điểm này.

Gần đây có gặp một vị độc hữu tương đối trẻ tuổi có “Bị người đe dọa, cướp lấy tiền của”, đến xin hỏi phải làm sao từ 12 cung trên mệnh bàn để xác định được cung vị nào xảy ra chuyện?

Có người thì nói nhìn xem có tổ hợp “nhân tài bị kiếp” là [Vũ Khúc Thất Sát Hỏa Tinh] hay không. Đúng! Đây là cách cục giựt tiền, nhưng cũng không phải là tổ hợp bị giựt tiền duy nhất, có một số là gặp phải đối tượng là lưu manh thái bảo ngẫu nhiên tìm tới gây án mà gặp phải, như vậy thì “Bị người khác giựt” với “Lưu manh thái bảo” thì rốt cuộc sao nào nó đại biểu là “Lưu manh thái bảo” chứ? Còn một số cũng có thể như là Dương Đà Hỏa Linh, còn có Thất Sát, Thái Âm Hỏa Linh tổ, Phá Quân, Thiên Đồng gặp Hỏa Tinh … Thật đúng là không dễ gì hiểu thấu đáo sự ảo diệu trong đó để tìm ra tổ hợp tinh diệu của lưu manh thái bảo, nhưng mà nếu biết chút bí quyết trong đó, là có thể “định” ra cung vị suy đoán cát hung, lúc này hiệu quả của Tử Vi Đẩu Số liền có thể được nâng cao rất lớn.

Tinh diệu chúng ta thường dùng tuy rằng chỉ có khoảng hơn ba mươi sao, phối hợp với 12 cung tới loại hóa cho ra được hình tượng sự vật cũng có 384 loại tổ hợp, thế nhưng tái phối hợp quá trình “thùy tượng – thành hình – thành sự” của Thiên Địa Nhân bàn còn có thể huyễn hóa ra càng nhiều hình tượng hơn. Bởi vậy, sự đam mê nghiền ngẫm của toán mệnh thường là mối quan hệ giữa suy nghĩ và suy nghĩ làm thế nào để phân loại thành những thứ phù hợp với tượng sự vật trong hình thái sinh hoạt thường ngày.

Khí Hóa Của Sao

Tinh diệu trải qua tác dụng của Thiên can tứ hóa, làm cho tính chất của sao biến đổi gọi là “Hóa khí”. Ví dụ như trong đàm luận cát hung khi Liêm Trinh nhập Mệnh hạn có: “Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, hóa thứ đào hoa, sát tù tinh, là chủ quan lộc ..”, nói đúng là Liêm Trinh sau khi “Hóa” có chứa tính chất đào hoa, trước khi không bị “Hóa” thì không có đào hoa hoặc có đào hoa nhưng loáng thoáng, rốt cuộc Liêm Trinh vì sao mà hóa vậy? Điểm mấu chốt nằm chính ở Thiên can, Thiên can Giáp làm cho Liêm Trinh hóa Lộc, Thiên can Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị, cả Giáp và Bính đều làm cho Liêm Trinh tinh “Hóa khí” mà huyễn hóa xuất hiện đào hoa nhiều lên. Nếu như cung Phu Thê chủ chưởng về tình cảm, Liêm Trinh hóa Kị là thiên hướng đầy đủ đào hoa nhục dục, bởi vậy dễ gặp họa vì tai tiếng tình dục hoặc quan phi, nên có nói là “sát tù tinh”, đây là tiếp cận vế đầu tiên; cũng là sau khi Liêm Trinh hóa Kị hiện tương mới có, sở dĩ Liêm Trinh hóa Kị trừ đào hoa ra còn sẽ có thể đụng phạm pháp luật, thậm chí không tốt còn bị phán tử hình, cho nên sao này sau khi hóa Kị ác tính rất là nghiêm trọng, nếu là nhân viên công vụ thì mệnh vận rất dễ gặp cảnh bị điều tra hoặc mất chức, nếu là người dân thường cũng rất có thể khẩu khí ẩn nhẫn không đủ mà phạm phải sai lầm lớn. Cho nên Liêm Trinh sau khi hóa Kị nói chung là hiện tượng khí hóa tương đối hung ác.

Mà Liêm Trinh hóa Lộc rất là có nhân duyên đào hoa, là thuộc về đào hoa thuần khiết đoan chính đứng đắn, không dẫn khởi hiện tượng quan phi hoặc thất trinh, trái lại là chính trực, người giữ gìn trật tự cương trực công chính, là người giám sát hoặc nhân viên chấp chưởng điều tra giám sát bên tư pháp. Cho nên hiện tượng “Hóa khí” nếu như là “Hóa Lộc” hoặc “Hóa quyền” hoặc “Hóa khoa” thì thường thuộc may mắn, một khi gặp phải khí hóa là “Hóa kị” sẽ làm cho mặt trái của “Tinh diệu” hiển hiện rất rõ, sao lại gọi là “Mặt trái” mà không gọi là “Ác tính” vậy? Nguyên bởi một số tinh diệu đặc tính mặt trái của nó không phải là ác, thí dụ như sao Thiên Đồng khi hóa Kị thì có hiện tượng hay lười nhác, ẩn nhẫn, không tích cực nhưng lại không làm ác, vì thế chỉ có thể gọi đặc tính “Mặt trái” của tinh diệu thôi. Cái hiện tượng “Hóa khí” này là căn cứ vào [Thiên can], xem người muốn suy đoán là tình cảm hay là sự nghiệp, thì lấy Can cung cung nhân sự tương ứng tới phi hóa, xem là sao nào hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Kị liền có thể huyễn hóa thành hiện tượng sự kiện, cho nên phải thuộc lòng thành thạo [Thiên can Tứ hóa biểu]. Còn có “Khí hóa” có tính chất tác dụng theo thời, khí hóa của đại hạn thì có hiệu quả tác dụng chủ quản trong mười năm, trải qua đại hạn đó thì mất đi hiệu lực, không giống như “Chất hóa” và “Dị hóa” không có hạn chế giới hạn về thời gian tác động, nó tác động đến cả đời giống như địa lôi mai phục trên con đường của nhân sinh, một khi đương sự đụng phải tức thời đã đến và đạp phải nó sẽ nổ tung.

Còn có “Hóa khí” có hiệu ứng tầng tầng tăng mạnh, Tứ hóa của Can cung cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hoặc lưu niên phi xuất lai sẽ từng tầng cường hóa tác lực, cát lực sẽ được tăng mạnh, hung lực cũng sẽ tăng cường. Bởi vì tác dụng của “Hóa khí” sẽ tùy Tứ hóa của cung chủ sự ở bản mệnh, đại hạn hay lưu niên mà tăng giảm lực tác dụng, vì thế nó sẽ có “Thời kỳ phát tác” của nó, một khi tác dụng yếu bớt thì sẽ không phát sinh. Do đó, có thể dùng để kết luận thời kỳ phát tác của sự kiện, mà những cái như “Chất hóa”, “Dị hóa” lại không có được công năng này.

Cho nên một viên sao có bốn loại biến hóa diện hướng, các yếu tố liên quan đến việc tạo điều kiện cho sự thay đổi này đã được thuật ở trên, mong rằng độc giả suy nghĩ sâu xa được bí quyết ở trong đó, để có thể ứng dụng được thuận buồm xuôi gió.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để giải thích tình hình ứng dụng tinh diệu tứ hóa luận mệnh, những thứ khác không có quan hệ tới chủ đề này xin được tạm lược bớt đi.

Chủ nhân ví dụ này nói rằng:

Vào đầu năm năm 31 tuổi (năm Mậu Tý) người bạn trai qua lại với nhau đã được 12 năm rồi mà không hiểu tại sao lại mỗi người mỗi nơi, tình cảm sâu nặng, luôn lởn vởn trong đầu, ngày mùng 5 tết âm lịch thì tự sát, nhưng được Giáp tiên sinh cứu lên, trong những ngày tâm trạng xuống thấp Giáp tiên sinh vẫn luôn ở bên cạnh cổ vũ động viên giúp đỡ tôi, rồi có một ngày đột nhiên nói với tôi rằng: “Rất muốn được chăm sóc cô mọi lúc”.

Làm cho tôi có chút động lòng, nhưng hắn đã kết hôn, tuy rằng vợ chồng bọn họ lúc đó ở chung với nhau không êm thấm, lại vẫn có quan hệ hôn nhân bảo đảm, tôi không quan tâm nhiều danh phận nhưng lại rất sợ bị thương tổn lần nữa, không biết nên làm thế nào cho phải?

Những lời kể cặn kẽ mô tả quá trình tinh thần như mệnh lệ này cung cấp khá nhiều đầu đề nghiên cứu có thể dùng để tham khảo:

  • Vì sao cô ấy có đoạn tình cảm kéo dài được như vậy? Người bình thường thì nói chuyện khoảng ba năm là đã có kết quả rồi, là tinh diệu nào hoặc cái nhân tố gì trên mệnh bàn có thể cung cấp để cân nhắc xem xét sự biểu hiện của tượng này chứ?
  • Tinh diệu nào khiến cho đoạn tình cảm này tan vỡ nhanh vậy?
  • Vì sao tình cảm tan vỡ lại xuất hiện hành vi bản thân muốn kết thúc cuộc đời cơ chứ?
  • Vì sao khi tự sát lại có thể được giải cứu thoát khỏi hiểm nguy?
  • Tại sao sau khi được cứu vớt lại rơi vào lưới tình với người không hợp pháp vậy chứ?

Người viết chỉ là nhắc nhở mọi người nhằm vào mệnh lệ, phải từ trong lời tự thuật thông thường tìm ra bí kíp có thể nghiên cứu nhằm làm công lực của mình được nâng cao lên.

Trước tiên là nói về hiện tượng “Chất hóa”, cho nên trước đem tứ hóa năm sinh lược bớt đi, Thái Âm cư Hợi cung có thuyết “Dậu Tuất Hợi cung nhập miếu, Bính Đinh nhân tài quan cách, cát tinh chúng đại quý”, nhưng người này là người sinh năm Mậu, cũng không hợp tài quan cách, thế nhưng “Sao này thuộc Thủy, là chủ Điền Trạch cung, có phước lành, cung Mệnh có sao này tọa sáng lại có cát tụ tập, lấy hưởng phúc để luận”. Tuy rằng không hợp tài quan cách nhưng cũng có một phần được “hưởng phúc”, mà cung Hợi là Thủy vị, Thủy tinh nhập Thủy vị, thế Thủy càng vượng, “hưởng phúc” là đối với nam nhân thời cổ xưa mà nói vì thường nam nhân có tiền hay nạp thiếp. Nhưng mà thời hiện đại không như thế, huống chi là phụ nữ, vì thế Thủy vượng lại dẫn tới “tình cảm tràn động”, còn như “là người thông minh tuấn tú, tích cách đoan trang tao nhã thuần tường” cũng không cần luận nhiều đến bởi đây là chỉ đơn nhất Thái Âm tinh cư Hợi mà luận.

Thế nhưng còn có một sao quan trọng khác là Thiên Hình, vai trò không kém gì chủ tinh, ngũ hành thuộc Hỏa, [Hỏa] tinh nhập Thủy vị, đương nhiên bị giảm uy, “Thiên Hình thủ Mệnh Thân, không là tăng đạo, định chủ cô hình, không yểu thì nghèo”. Lại nói: “Hình cư Dần thượng tịnh Dậu Tuất, cánh lâm Mão vị tự quang vinh, tất ngộ văn tinh thành đại nghiệp,chưởng ác biên cương bách vạn binh”. Bởi vì là sao này chủ “vũ dũng, cô khắc”, nhưng mà không nhập vị trí miếu ở “Dần Mão Dậu Tuất” thì “vũ dũng” giảm đi mà “cô khắc” lại tăng lên, Thiên Hình kị nhất đồng cung với sao thuộc Thủy, huống chi còn lạc nhập Thủy vị! “Hỏa” tinh làm cho „Thủy” tinh bị giảm uy lực, lại còn bị cái mát của Thủy vị làm cho sức mạnh “vũ dũng” giảm đi. Cho nên tổ hợp Thái Âm với Thiên Hình sản sinh tác dụng “Dị hóa” mà có lời bình “Thiên Hình cư hãm địa được Nhật Nguyệt củng chiếu, cũng chủ phụ mẫu khí dưỡng, nhị tính duyên sinh, vi xướng tác tỳ, hoặc vi thiên phòng vi thiếp, chính thú phản nhi lợi phu tử” cùng với tính chất Thái Âm Hợi cũng có độ biến dị rất là lớn. Đương nhiên, chúng ta đem lời bình của cổ nhân áp dụng vào thời hiện đại thì cần có sự tu chỉnh cho thích hợp, thế nhưng nội hàm tinh thần trên cơ bản là bất biến. Vì thế mới có quá trình “Cùng với chồng người khác phát sinh cảm tình, muốn cùng chung với nhau bất kể danh phận” và “Hay là lấy làm vợ nhỏ” tương hợp.

Tiếp tục tới xem hành động “Khí hóa”, lúc này cần xem “Tứ hóa năm sinh” và “Tứ hóa Can cung”, cho nên trước tiên đem Tứ hóa năm sinh đới nhập.

Hóa Quyền tinh cư ở cung Mệnh: “Chưởng sinh sát chi thần, thủ Thân Mệnh, … hội Cự Môn Vũ Khúc, tất sự đại sự, chưởng ác binh phù, vi nhân cực cổ quái, đáo xử nhân dục kính; nữ nhân đắc chi, nội ngoại xưng ý”. Trên cơ bản, Hóa Quyền tinh cư Mệnh là người có cá tính kiên nghị, lòng tự trọng mạnh, cho nên “nơi nơi đều muốn người tôn trọng” nếu ngươi xem nhẹ hoặc đánh giá thấp lời của y, nhất định y không để ngươi yên. Thế nhưng, phía sau sự kiên cường ấy lại là yếu đuối, ngoài mặt nhìn như mạnh mẽ nhưng một khi gặp sự đả kích lớn phá đi lớp mặt nạ ấy thì y sẽ hiển hiện ra mặt yếu đuối, như nhất thời nghĩ không thông mà tự sát hoặc xung động mà làm chuyện ngốc nghếch … Bởi vì “Hóa Quyền” cũng có hàm ý hành động chấp trước, vừa nghĩ đến sẽ kiếm cách thực hiện, như nàng một khi gặp phải nam nhân yêu thích sẽ quyết một lòng theo hắn vài chục năm cũng không thay lòng đổi dạ.

Cho nên sợ nhất nó gặp phải chuyện xấu xung kích, bởi vì “Chất hóa và Dị hóa của Sao” đều hiển hiện tính chất “Mặt trái” của sao, tình cảm không như ý cũng rất dễ nghĩ đến “phá hủy bản thân”, huống hồ Can cung Phu Thê là Tân vừa lúc làm Văn Xương hóa Kị tới xung cung

Mệnh, làm cho Hóa Quyền tinh chuyển biến trở thành một loại năng lượng phá hủy bản thân, tại sao lại nói như vậy? Bởi vì lúc này Hóa Quyền tinh của cung Mệnh có hàm ý “sĩ diện chết”, cũng làm cho cô ấy miệng nuốt không trôi không buông bỏ được oán khí, mà “Thái Âm” của cung Mệnh cũng chỉ chính bản thân cô ấy, cung Mệnh bị xung rõ ràng là có sự bất lợi cho chính bản thân. Vì thế từ tượng “Khí hóa của Sao” đến xem, chỉ cần tình cảm (cung Phu Thê) không tốt sẽ dẫn phát mệnh tạo có ý nghĩ phá hủy bản thân mình, đó là một kết cấu mang hàm ý có tư duy lệch trong xử lý tình cảm ở cung Mệnh với cung Phu Thê.

Can cung Mệnh là Quý, làm Thái Âm tự hóa Khoa, có người nói Quý làm Thái Âm hóa Khoa mang tính đào hoa, quả thật không sai, thảo nào làm cho thương yêu “chồng của người phụ nữ khác”, nhưng cũng không thể quên nó cũng có tác dụng “gặp dữ hóa lành” cho nên khi tự sát được người khác giải cứu. Hơn nữa, Hóa Khoa tinh cũng có tác dụng “cứu giải” Hóa Quyền tinh làm giảm sự căng thẳng tăng hứng thú thư giãn; bởi thế sẽ đi tìm kiếm giải đáp, bất kể là mệnh lý, tôn giáo, hay là tâm lý học mà không phải là hỏi không rõ ràng lại chui đầu vào trong ngõ cụt. Bởi vậy, lúc này Thái Âm tự hóa Khoa đối với bản thân cô ấy (Thái Âm) là “Khí hóa” tinh rất có lợi, làm cho suy nghĩ xử sự thiên lệch có thể được chuyển biến dần dần tốt lên.

Mà “Loại hóa” của Sao đâu? Phía trước đã có nói nhiều lần, loại hóa “Thái Âm” tinh của cung Mệnh là phái nữ, là mẹ, là con gái, bản tạo là nữ nhân, cho nên có thể nói đây chính là bản thân cô ấy, mà Thái Âm hoá Khoa rõ ràng có nghĩa là “Hóa khoa” của chính cô ấy đã giải cứu được “mối nguy hiểm” của cô ấy và mang lại hiện tượng “Hoặc là lấy làm vợ nhỏ”.

Bởi vậy, khi giải thích mệnh bàn của một người thì độ sáng của tinh diệu chiếm vai trò quan trọng, và độ sáng này có bao hàm những biến đổi ẩn tàng từng tầng khác nhau của tinh diệu, mới có thể hiển hiện sinh động như thật sự đa dạng sắc màu cuộc sống của người. Tinh diệu tuyệt không phải là “cung Mệnh tọa sao nào cá tính ra làm sao”, đặc tính như vậy quá giản đơn, đó chỉ là kiến thức nhập môn cho người mới học Tử Vi Đẩu Số thôi, còn muốn đi sâu nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số thì phải hiểu rõ được tinh diệu đại biểu rất đa dạng sắc màu của cuộc sống, tinh diệu nhất định phải được trao cho các đặc tính nhiều tầng thứ khác nhau hoặc chủng loại khác nhau thì như vậy mới có thể bám sát tượng nhân sự vật trong sinh hoạt của con người. Lúc phân giải mệnh bàn thì cũng mới có thể lấy các hành vi hoặc sự vật trong cuộc sống để thuyết minh, mà sẽ không giống cổ nhân phê mệnh tổng hợp: “Phá Quân nhập miếu thế như sông lớn, chuyên quyền nắm giữ chấn chỉnh tám phương, Thất Sát cạnh cạnh (LC chú: nguyên văn là lăng lăng

  • ý chỉ góc do hai mặt phẳng tạo nên, cả Thất Sát với Phá Quân và Tham Lang luôn tạo thành thế tam giác trên đồ hình mệnh bàn) chủ chính lệnh, Tham Lang chiếu hợp được tương trợ, rõ ràng có sự tương trợ mà không thiên lệch, văn võ đều tài năng có thể ở bên phò tá …”, hành văn có vẻ tuy tốt nhưng ý nghĩa lại dễ làm người khác hiểu sai ý, làm cho người khác như trong sương mù, có xem mà không hiểu được.

Lúc sử dụng Tinh diệu, liên quan đến “Bốn loại biến hoá”, đây cũng là một loại quan hệ của “Tứ hóa”, đây là học tập thiên phú tinh diệu tuyệt đối không nên sao lãng, bốn loại biến hóa

này có sự tương hỗ như Biểu với Lý, cho nên không thể chỉ luận một loại “Miếu hãm lợi vượng” hay là “Tổ hợp tinh diệu”, mà còn phải chú ý đến hiện tượng “Loại hóa” và “Khí hóa” mới có thể làm cho hình tượng nhân sự vật được hiển hiện một cách rõ ràng, mà học tập tính chất của sao chính là phải biết bốn loại biến hóa: Chất hóa, Dị hóa, Loại hóa và Khí hóa của Tinh diệu.

Thức Mở Đầu Tứ Hóa Phi Tinh

Có rất nhiều độc giả gửi thư hoặc điện báo ngỏ ý mua “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích”, nhưng khi nhìn thì thấy phương thức phi hóa với ý nghĩa của tứ hóa còn nhiều chỗ cần phân giải, cho nên hiện tại dùng phương thức minh họa từng bước từng bước để giải thích.

Tứ hóa tinh chia làm: tứ hóa năm sinh, tứ hóa của các cung, tứ hóa đại hạn, tứ hoá lưu niên … mỗi một tứ hóa có sự phân chia thành từng cấp chưởng quản các sự kiện của giai đoạn đó có hiển tượng hay không, cho nên trước tiên phải nắm rõ được phương thức khởi phi và độ dài ngắn thời gian lực tác dụng có hiệu quả của những tứ hóa này.

*Tứ Hóa Năm Sinh

Trước tiên từ “Tứ Hóa Năm Sinh” nói tới, giả thiết có một mệnh bàn nam mệnh như hình trên, người này sinh năm Giáp Tý, bởi vậy căn cứ Thiên can Giáp của “Giáp Tý”, tìm theo bảng thập can tứ hóa thì biết Thiên can Giáp là Liêm Trinh hóa Lộc, thì tìm được Liêm Trinh trong mệnh bàn ở cung Điền Trạch, thì đánh dấu ở chữ Liêm Trinh (có thể dùng khung hoặc vòng tròn đều được); Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân thì ở Phụ Mẫu, thì cũng đánh dấu ngay chỗ sao Phá Quân ở cung Phụ Mẫu; Vũ Khúc hóa Khoa ở Tật Ách, đánh dấu ngay dưới Vũ Khúc; Thái Dương hóa Kị , Thái Dương ở Tài Bạch, ngay phía dưới Thái Dương tinh đánh dấu lại. Chú ý tứ hóa và vị trí tinh diệu không thể hỗn loạn lệch chỗ với nhau, nếu không sẽ không rõ được là sao nào tham gia tứ hóa, hơn nữa sao khác nhau hóa tinh sẽ khác nhau nên ý nghĩa cũng sẽ có sự khác nhau, bởi vậy hóa tinh nên viết ở chính xác vị trí phía dưới của tinh diệu mới là tốt!

Như vậy là có thể biết “Tứ hóa năm sinh” phi nhập vào cung vị nào và sao nào xuất hiện biến hóa, bởi vậy chúng ta có thể nói:

  • Hóa Lộc năm sinh nhập Điền Trạch
  • Hóa Quyền năm sinh nhập Phụ Mẫu
  • Hóa Khoa năm sinh nhập Tật Ách
  • Hóa Kị năm sinh nhập Tài Bạch

Cung vị mà Tứ hóa năm sinh rơi vào, đối với cung vị và sao ở bên trong đó sẽ sản sinh tác dụng “Biến đổi về bản chất”, đặc tính tinh diệu sẽ bởi “Khí hóa” mà bay hơi phát xuất khí “Cát” hoặc “Hung”. Khi vận đồ có sự bay hơi đó sẽ xuất hiện biến hóa, tập trung hướng đến mệnh bàn ví dụ trên, căn cứ vào cung vị Tứ hóa năm sinh lạc nhập có thể giải thích là …

  • Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch: biểu thị mệnh tạo rất lo cho gia đình, quan tâm đến các chuyện lớn nhỏ trong nhà.
  • Phá Quân Quyền nhập Phụ Mẫu: đối với cha mẹ nói chuyện thái độ tương đối thẳng thắn, tương đối sĩ, có lúc hơi to tiếng, nếu không có sự tu sửa thêm rất dễ almf cho người khác cảm thấy mình đối với cha mẹ bậc bề trên không biết lớn nhỏ, không có lễ phép.
  • Vũ Khúc Khoa nhập Tật Ách: dung mạo khi lớn lên nhìn không mập không ốm, hình thể cân xứng, không dễ nhiễm dính bệnh dịch, một khi bị bệnh tật dễ gặp được thầy giỏi thuốc tốt.
  • Thái Dương Kị ở Tài Bạch: tâm tư đều đặt ở tiền tài, làm sao dư tiền? Làm sao tiết kiệm tiền? Làm sao kiếm tiền? Dùng tiền có biểu hiện hay tính toán chi li, dùng tiền không hào phóng, tính toán tỉ mỉ chút một.

Hóa tinh do Thiên can năm sinh phi xuất ra có lực ảnh hưởng lâu dài, đối với mệnh tạo đều sẽ sản sinh tác dụng cả đời, tuy rằng ngày sau giáo dưỡng có thể cải biến đặc tính của người, nhưng trong tiềm thức vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tứ hóa tiên thiên, biểu hiện ở hành vi cử chỉ, mô thức tư duy … trong sinh hoạt hàng ngày.

Cái này giống như là thuyết pháp căn bản thông thường dễ gặp, còn cần đi sâu tham khảo thêm nữa.

Liêm Trinh Lộc ở Điền Trạch:

Có Thiên Phủ với Thiên Diêu đồng cung, với cung Điền Trạch mà nói thì tổ hợp Liêm Trinh, Thiên Phủ là cát lợi. Thiên Phủ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, người hiện đại làm về nông tương đối ít đi, có thể nói rằng điền địa có hiệu quả kinh tế rất cao, khi thêm Hóa Lộc càng tăng thêm năng lực có thể có hoặc nắm giữ bất động sản, có thể thấy được bản thân mệnh tạo có một sự quan tâm mạnh mẽ trong đầu tư về bất động sản, nhưng nó cũng cho thấy tình cảm dành cho gia đình của bản thân mệnh tạo rất sâu đậm, hiển rất rõ, đây là lấy Lộc năm sinh nhập Điền Trạch để luận. Thiên Diêu cũng nhập Điền Trạch, Thiên Diêu là sự vật tốt đẹp, là vật điểm tô cho đẹp hoặc trang sức, đại biểu sự bố trí ở trong nhà tương đối lộng lẫy, hoa văn thiết kế có thể là mời những nhà thiết kế nổi tiếng về thiết kế cho, mua các sản phẩm kỹ nghệ hoặc sản phẩm trang trí về làm đẹp cho căn nhà.

Còn như có thể có nhiều điền trạch hay không hoặc là vì đầu tư bất động sản mà kiếm tiền, do liên quan tới hành động đầu tư và sự tốt xấu của tài vận, nên cần tham khảo thêm các cung vị khác, không phải là chỉ nhìn Điền Trạch mà thôi. Đây chỉ là hàm ý của Hóa Lộc năm sinh nhập cung Điền Trạch.

Mà Can cung Điền Trạch là Mậu:

  • Tham Lang hóa Lộc ở Nô Bộc: Tham Lang là giao tế xã giao, biểu thị rất thích tiếp đón khách vào nhà, thích được chiêu đãi giống như đàm luận cổ phiếu hoặc đầu tư vậy (Tham Lang Hỏa Tinh), mọi người đều được hưởng lợi từ nhau (Hóa Lộc).
  • Thái Âm hóa Quyền ở Quan Lộc: Thái Âm là chủ điền trạch, hóa Quyền là thành tựu, bởi vậy sé đem nhà cửa thu xếp cho sạch sẽ gọn gàng liên tục làm cho người khác vừa nhìn thì tôn sùng người chủ của nhà này, sẽ rất chú ý nhà, quản lý trông nom việc nhà như thế nào cho ổn thỏa, bản thân nghe xong cũng sẽ rất đắc ý (Hóa Quyền).
  • Hữu Bật hóa Khoa ở Thiên Di: Hữu Bật là tình người, ở Thiên Di biểu thị vì quan hệ gia đình nhà mình mà ở bên ngoài có danh dự tương đối tốt.
  • Thiên Cơ hóa Kị ở Phu Thê: Thiên Cơ có hàm ý chỉ biến động với suy tính, bởi vậy vợ chồng đôi bên rất dễ vì chuyện trong nhà mà tính toán chi li, dẫn tới tranh chấp hoặc ẩu đả, vì thế khiến cho bên kia dễ ngoại tình.

Bởi vậy tổng hợp lại các điều thuật ở trên, có người vì sĩ diện mà mời đồng sự hoặc bằng hữu tới nhà ăn uống nhậu nhẹt, bàn luận trên trời dưới bể nhằm chứng tỏ bản thân rất có thành tựu, nhưng lại đem vấn đề dọn dẹp sạch sẽ cho phối ngẫu xử lý, kết quả là quan hệ vợ chồng bất hòa, thậm chí ly hôn, cái này là tổ hợp tứ hóa thôi!

Phá Quân Quyền ở Phụ Mẫu:

Có Lộc Tồn, Linh Tinh đồng cung, Phụ Mẫu phiếm chỉ những người có thể quản thúc ta như thầy cô giáo, cơ quan chính phủ, chủ quản công ty, người có vai ngang với cha của ta … Vì là Phá Quân hóa Quyền, Phá Quân vốn có tính làm trái, Hóa Quyền càng tăng thêm dạng đặc tính làm trái, không cùng lòng với mình nữa này lên, cho nên khi tiếp xúc nói chuyện với bề trên thì giọng nói hoặc khí thế như muốn đem đối phương đè xuống, bởi vậy dễ làm xung quanh cảm thấy trong từ ngữ như không có tôn ti, không phân biệt lớn nhỏ, nói một câu chặn một câu, dễ lời qua tiếng lại với bề trên dẫn tới tranh chấp. Bởi vậy quan hệ đối đãi giữa bản thân với phụ mẫu cũng không tốt, Phá Quân là tinh diệu vốn chủ làm trái ngược, ý thức bản thân rất mạnh, cho dù cha mẹ yêu cầu rất nghiêm túc, cũng dám đối trị, vì thế thỉnh thoảng xuất hiện xung đột giữa cha con hoặc mẹ con dẫn tới khó có thể dự liệu được kết quả ví dụ như là rời nhà trốn đi hoặc lầm

vào lạc lối, nhưng mà đó là cha mẹ đối với ta là “hà khắc, ngược đãi” hay là “tình yêu thương sâu đậm, trách nhiệm thiết thực” đây? Sẽ khán Tứ hóa của Can cung cung Phụ Mẫu, đơn cử ví dụ mà nói như rất nhiều đầu đảng lão đại xã hội đen đối với con cái của mình vẫn là “Chỉ giới tình thâm” (LC chú: ý chỉ tình thâm nhưng giá trị như tờ giấy), đối với con cái mà nói thì khả năng của cung Phụ mẫu chính là tình hình tề tụ của các trưởng bối bề trên. Thế nhưng tứ hóa của Can cung Phụ Mẫu cũng phi bố (LC chú: phi là phi hóa, bố là bài bố) đến trong tam phương của mệnh bàn, thì có thể phán đoán tình cảm của phụ thân đối với hắn rất là sâu đậm.

Nhưng nếu Hóa Lộc ở cung Thiên Di thì lại có chút khiếm khuyết, bởi vì cha mẹ sẽ không có nhiều biểu hiện quan tâm thương yêu con cái ra bên ngoài mà chỉ len lén quan tâm cho nên con cái sẽ không cảm thụ được sự thương yêu của cha mẹ mà có hồi báo, sẽ khán Tử nữ Mệnh cung cung Can tứ hóa (LC chú: dòng này dịch nguyên văn, không rõ ý tác giả chỉ về việc khán ở hành hạn hay đang nói ở trên nguyên cục, nếu nói ở nguyên cục thì có điểm không được khớp về Can cung, độc giả lưu ý), như ví dụ này “Phá Quân Quyền, Lộc Tồn, Linh Tinh” thì cha nhất định là người rất quả quyết táo bạo, độc đoán độc hành, nhưng con cái thì lại vẫn hay tranh luận với cha mình.

Nhưng Tứ hóa của Can cung – Bính:

  • Thiên Đồng hóa Lộc  – lạc nhập Thiên Di àchiếu cung Mệnh.
  • Thiên Cơ hóa Quyền  – lạc nhập Phu Thê à chiếu Quan Lộc
  • Văn Xương hóa Khoa – lạc nhập Nô Bộc
  • Liêm Trinh hóa Kị– lạc nhập Điền Trạch

Hóa Lộc Hóa Quyền phi nhập “chiếu” tam hợp của cung Mệnh, bởi vậy tuy rằng cha mẹ đối với mệnh tạo tương đối nghiêm khắc, nhưng mà xuất phát từ tâm thái trách nhiệm thương yêu thiết thực mà không phải là ngược đãi. Đương nhiên, quan hệ giữa mệnh tạo với cha mẹ về sau tương đối gần gũi thân thiết, sẽ không vì cha mẹ nghiêm khắc đối với mình mà có sự xa cách, cái này là hiện tượng cát lợi.

Vũ Khúc Khoa ở Tật Ách:

Hóa Khoa năm sinh tiến nhập vào trong cung Tật Ách, đại biểu thân thể cá nhân lớn lên tương đối cân xứng, không cao không lùn không mập cũng không ốm, hơn nữa không dễ mắc bệnh, cho dù sinh bệnh cũng có thể khám và chữa trị đúng lúc mà khỏi bệnh, thời khắc nguy hiểm trí mạng kề bên cũng có thể chuyển nguy thành an, đây chỉ là hiện tượng có “Hóa Khoa” ở Tật Ách. Còn như tổ hợp sao tọa ở trong cung cũng có ảnh hưởng, ở ví dụ này: Vũ Khúc Khoa, Vũ Khúc là khí quản, cũng bởi hóa khí thành Khoa cho nên khí quản không dễ mắc bệnh. Đồng

cung còn có Thiên Tướng, Văn Khúc đều thuộc tinh diệu cát lợi, bởi vậy không dễ bị mắc phải tật bệnh ác tính khó trị liệu.

Thế nhưng hệ thống tiết niệu sẽ tương đối kém, hiển hiện ra ngoài chính là thường xuyên đi tiểu hoặc tiểu khó, cảm giác giống như rất khó loại bỏ sạch sẽ, đôi lúc cứ giọt giọt khiến hổ thẹn, đây chính là nhược điểm về thể chất do tiên thiên mang tới.

Can cung Tật Ách là Nhâm:

Khiến cho sao Vũ Khúc trong cung Tật Ách hóa thành Kị, mới vừa có nói qua Vũ Khúc chỉ khí quản, hóa Kị đương nhiên khí quản sẽ nhược hóa, có hiện tượng dị ứng mũi hoặc thở hổn hển, nếu đã có Hóa Khoa bảo hộ thì có còn mắc những chứng bệnh như thế hay không? Đáp án của ta là – có, không cách nào tránh được, bởi vì Vũ Khúc Hóa Khoa đã bị Vũ Khúc Hóa Kị phá hủy, trái lại còn làm cho bệnh tình càng khó trị liệu, đây là quan hệ tứ hóa có hàm ý “kéo dài dây dưa”, cảnh ngộ tốt cũng không được mà xấu cũng không đến nỗi chết, với sự khống chế trong phạm vi có thể, lại tật bệnh đeo bám nhiều năm, tạo thành sự quấy nhiễu phức tạp đối với cuộc sống của mệnh tạo mà thôi.

Thái Dương Kị ở Tài Bạch:

Kị tinh năm sinh có hàm ý khiếm khuyết, thiếu khuyết hoặc mong cầu chưa đủ, ở Tài Bạch đương nhiên sẽ biểu hiện ra những tính chất đặc biệt này, tỷ như vì là không có tiền cũng rất keo kiệt, hoặc mong cầu nhưng không đủ mà liều mình kiếm tiền, nhưng cuối cùng vẫn cảm giác mình không có tiền, đây là hàm ý được gọi là “Thiếu nợ Kị” của Kị năm sinh, thiếu nợ ở “Tài Bạch” nên phải nỗ lực kiếm tiền để trả nợ, bởi vậy khiến cho bản thân tận lực kiệt sức. Tiếp tục nhìn đến tính chất của sao thì Thái Dương chủ bác ái, Thiên Lương là thiện cho nên tiền tài của bản thân thì cam tâm tình nguyện vì người mà hao tổn ở phương diện phụng sự hoặc làm việc thiện, là “mang tiền của mình đi giúp đỡ người khác”. Hơn nữa Thái Dương chủ nam nhân, là phu tinh, mà mệnh tạo lại là nam nhân, cho nên tiền tài bản thân kiếm được không nhiều lắm hoặc vì tiêu xài nhiều mà hết, khả năng chi phối vận dụng tiền tài của bản thân không nhiều, cũng có khả năng tiền tài của bản thân bị người thân là nam giới phá. Vì thế gặp phải người thân thuộc là nam giới tới vay tiền thì phải đặc biệt coi chừng, làm theo khả năng, không nên để tài lực bản thân bị thương tổn.

Tiếp tục tới nhìn tứ hóa của Can cung là Quý thì:

  • Phá Quân hóa Lộc nhập cung Phụ mẫu
  • Cự Môn hóa Quyền nhập cung Thiên Di
  • Thái Âm hóa Khoa nhập cung Quan Lộc
  • Tham Lang hóa Kị nhập cung Nô Bộc

Hóa Lộc, Quyền, Khoa cũng không có hình thành nên góc độ tam hợp cho nên tác dụng là nhỏ, sự trợ giúp đối với bản thân không lớn, mà Tài Bạch hóa Phá Quân Lộc nhập Phụ Mẫu, mà phụ mẫu là gì vậy? Đem Nô Bộc coi như cung Mệnh thì Phụ Mẫu chính là cung Tài Bạch của Nô Bộc, mà Tài Bạch của ta hóa Lộc tiến nhập Tài Bạch của Nô Bộc, hàm ý chính là “tiền tài của ta tiến nhập vào túi của bạn bè” mà Tham Lang hóa Kị lại ở Nô Bộc cũng có hàm ý là tiền tài bay đến chỗ bằng hữu, đem hai loại tứ hóa này tổng hợp lại để đồng thời khán, tại sao phải tổng hợp để khán? Bởi vì “Lộc tùy Kị tẩu”, tiền mang cho bằng hữu có đôi khi được hồi báo rất hậu hĩnh, thế nhưng ở ví dụ này thì phi hóa Lộc hóa Kị đều ở cung Nô Bộc và cung Tài Bạch của Nô Bộc, rất rõ ràng tiền tài đều đến phía bằng hữu, nếu dùng từ để giải thích phù hợp theo hiện tượng xã hội nay hàm ý chính là bị “Lừa đảo”. Bởi vậy, qua lại với bằng hữu có liên quan về tiền bạc phải đặc biệt coi chừng cẩn thận, tránh tường hợp tiền không có mà bằng hữu cũng mất. Vì thế có bằng hữu tới vay tiền thì nên thoái lui, hoặc là chỉ cho mượn chút ít thôi, tránh cho hao tổn tới mức quá nặng.

Phía trên đây là nói về quan hệ của tứ hóa năm sinh và tứ hóa cung vị tiên thiên, vận đồ đại hạn cũng sẽ cùng với tứ hóa cung vị tiên thiên và tứ hóa năm sinh hình thành góc độ “hiệu

ứng” sản sinh ra loại phản ứng nào đó, đây là biến hóa của “vận đồ”. Mệnh bàn tiên thiên là thùy tượng, là đặc điểm bẩm sinh, khi còn nhỏ thì tuân theo khuôn phép của trẻ nhỏ, sau khi lớn lên phần nhiều vẫn là tuân theo pháp luật, khi còn bé có thể bướng bỉnh gây sự, sau khi lớn lên đại để phần nhiều dễ vi phạm pháp luật hơn. Bất quá cũng không dám nói, cũng có một số ít chuyển biến, cho nên tiên thiên mệnh chính là quan sát mức biến hóa của vận đồ tương lai, ở Đẩu Số xưng là “thùy tượng”.

*Tứ Hóa Đại hạn:

Vận đồ chính là cung Mệnh đại hạn chuyển động mà 11 cung vị khác cũng theo đó mà chuyển dời mà hiện tượng khởi phục tiêu trưởng các hạng sự vật được sản sinh, cái này phải thông qua quan hệ giữa mệnh bàn đại hạn và mệnh bàn tiên thiên để quyết định trạng thái “khởi phục tiêu trưởng”, cho nên trước hết phải đem mệnh bàn tiên thiên y theo đại hạn chuyển dời thành đại hạn bàn cục, phải chuyển dời như thế nào chứ?

  • Quyết định là “âm nam dương nữ” hay là “dương nam âm nữ”, nếu âm nam dương nữ thì chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ, nếu dương nam âm nữ thì chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Xem Thiên can năm sinh là gì: các can Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là can dương, các can Ất Đinh Kỉ Tân Quý là can âm, ví dụ như người nam sinh năm Giáp Tý thì can trong đó là dương cho nên là dương nam và đại hạn sẽ theo chiều thuận của kim đồng hồ mà chuyển dời.
  • Quyết định thời điểm bắt đầu và kết thúc một đại hạn: xem mệnh bàn thuộc cục số nào, như ở ví dụ trước có nói là Thủy nhị cục, cho nên bắt đầu từ 2 tuổi, mỗi khi gặp 2 thì đổi đại hạn, như 2 ~ 11 tuổi là đại hạn thứ nhất, 12 ~ 21 tuổi là đại hạn thứ hai, 22 ~ 31 tuổi là đại hạn thứ ba … còn lại cứ loại suy thôi.

Như ở ví dụ người nam ở phía trước sinh năm Giáp Tý (1984) đến năm Mậu Tý 2008 là được 25 tuổi tính cả tuổi mụ, cho nên cung Mệnh đại hạn đã tiến vào cung Mão, bởi vậy đại hạn bàn cục thứ ba trở thành một mệnh bàn mới.

Để có thể vừa xem thấy ngay, giảm thiểu phức tạp, đại hạn mệnh bàn chỉ giữ lại ba cung là cung Mệnh đại hạn, Quan Lộc đại hạn và Tài Bạch đại hạn, còn lại toàn bộ bỏ bớt đi không viết, nhưng không phải không chọn dùng, như khán vận đồ tử nữ thì vẫn phải mượn dùng cung Tử Nữ đại hạn.

Tứ Hóa Của Các Cung Vị Đại Hạn Bàn:

Trước tiên nói rõ tứ hóa đại hạn bàn cục phải phối hợp với tứ hóa tiên thiên bàn cục, xem xét góc độ hình thành giữa chúng để quyết định cát hung. Vì hóa thì nhiều cho nên chỉ nói giản lược về hóa cung Mệnh, 11 cung vị khác có thể phỏng theo phương thức này, tham khảo sách này hoặc trong “Tử Vi Đẩu Số Mệnh Vận Phân Tích” có tiết lộ về kỹ thuật và ví dụ luyện tập tương tự.

Đầu tiên, trước quan sát tình trạng tổ hợp tinh diệu của tam hợp cung Mệnh đại hạn, xem có hóa tinh năm sinh tiến nhập hay không, liền có thể nắm được đại khái tình hình đại hạn.

Như cách cục ở Mão hạn của ví dụ này: cung Mệnh đại hạn có Kình Dương tọa, đối cung có Thái Dương Kị, Thiên Lương, Kình Dương của cung Mệnh thì cũng cho thấy ở đại hạn này dễ gặp tai họa đến bất ngờ, lại gặp phải Thái Dương mà Thái Dương chủ nam cũng chủ quan lộc. Vì thế đại hạn này sự nghiệp tất sẽ dễ gặp chèn ép hoặc trắc trở hoặc dễ gặp phiền phức với quan trên dẫn đến không thuận lợi lên chức giành được trọng dụng; bản thân cũng phải cẩn thận chú ý kẻo thương tổn, cả hai sự việc lớn này đều sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự bình thuận của vận đồ đại hạn này. Đặc biệt Thái Dương vì là Kị tinh năm sinh cho nên mười năm vận đồ của đại hạn này đều sẽ bị ảnh hưởng,

Mệnh bàn Đại hạn

Đại cục một năm vận đồ tùy tổ hợp tinh diệu đại khái cũng có thể sáng tỏ được năm sáu

Trở lại lấy Thiên can Đinh cung Mệnh đại hạn phi tứ hóa:

  • Thái Âm hóa Lộc nhập Quan Lộc nguyên cục (Phúc Đức đại hạn)
  • Thiên Đồng hóa Quyền nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)
  • Thiên Cơ hóa Khoa nhập Phu Thê nguyên cục (Tài Bạch đại hạn)
  • Cự Môn hóa Kị nhập Thiên Di nguyên cục (Quan Lộc đại hạn)

Cung vị mà những hóa tinh này phi nhập là cung nào đó trên mệnh bàn tiên thiên lại là cung vị đại hạn sau chuyển dời, vậy phải lấy cái nào làm chuẩn?

Đương nhiên, phải lấy tiên thiên mệnh bàn làm chuẩn, nhưng có một số trường hợp đặc biệt lấy đại hạn bàn làm chuẩn, trước nhớ kĩ, “tứ hóa đại hạn phải hóa nhập tiên thiên mệnh bàn” mới tốt, đối tượng của “hóa nhập” này bao gồm bốn viên hóa tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kị. Chỉ có Lộc, Quyền hóa nhập tiên thiên mệnh bàn, khí thế tương đối ảo, không qua nổi bấp bênh thăng

trầm, một khi gặp phải suy bại thường thường những thứ sở hữu đều tổn hao, không có cách nào khác bảo tồn. Giả như chỉ có Lộc, Khoa hóa nhập mệnh bàn là “tiền văn nhã”, như dựa vào thanh danh của kỹ nghệ chuyên môn nào đó để kiếm tiền, hoặc là tác gia nổi danh … Mà hóa Quyền, Khoa nhập tiên thiên mệnh bàn, chính là dựa vào năng lực chuyên môn để kiếm tiền, nhưng khổ cực hơn so với tổ hợp Lộc, Khoa; với Lộc, Quyền, Khoa mà nói khi gặp phải ngăn trở xung kích thì vì có Khoa tinh bảo hộ cho nên có thể hóa giải nguy nan, vượt qua cửa ải khó khăn. Nếu là tài vận sẽ không đến nỗi phải bồi thường sạch trơn, túi trống rỗng như lúc đi tắm, chí ít còn có thể bảo tồn nguyên khí, chờ mong tương lai có cơ hội chuyển biến thừa cơ gây dựng lại.

Tại sao viết hai cái Lộc chồng lên nhau vậy? Bởi vì tứ hóa của cung Mệnh đại hạn và cung Mệnh tiên thiên vừa vặn trùng điệp ở một chỗ, vốn có tác dụng “gia thừa”, tốt xấu đều sẽ gấp bội, Hóa Kị của cung Mệnh tiên thiên và hậu thiên đều ở cung Thiên Di, hình thành “Kị xung cung Mệnh”, cũng chính là bàn cục có cách “Hóa Kị của cung Mệnh đại hạn tới xung cung Mệnh tiên thiên”, mà “cung Mệnh tiên thiên hóa Kị nhập cung Thiên Di” hình thành “Song Kị xung Mệnh”,

bởi vậy, một viên Kị tinh xung Mệnh có chút phiền phức nhưng còn có thể chịu đựng được, nhưng hai viên Kị xung Mệnh thì phải cẩn thận, rốt cuộc là phải cẩn thận “chuyện gì” đây chứ? Nếu là “xung cung Mệnh” đương nhiên có tương liên đến sinh mệnh của ta rồi, làm không tốt sẽ có nguy hiểm tới tính mệnh, mà cung Mệnh đại hạn là cung Phúc Đức tiên thiên, trong đó cung Phúc Đức nó chủ chưởng trạng thái tinh thần của cá nhân cho nên là bởi vì trạng thái tinh thần mà nguy hiểm tới tính mệnh, các vấn đề về trạng thái tinh thần ví dụ như tự sát, làm chuyện điên rồ, ma quỷ nhập thân, bệnh tâm thần … Như ở ví dụ này mệnh tạo là vì mắc chứng u buồn mà có khuynh hướng không biết thương xót bản thân mình, nhưng mà Hóa Lộc, Quyền, Khoa của mệnh tạo khá tốt đều tập trung ở tam phương mệnh cục vì thế có tác dụng gặp dữ hóa lành, hai lần định tìm đến tự tử đều được người phát hiện hoặc tìm người khác thổ lộ hết mà giải tỏa giác ngộ được.

Cho nên những cái khác như “Thiên Cơ hóa Khoa, Thái Âm hóa Lộc” hội chiếu ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, Thiên Đồng hóa Quyền ở Thiên Di đều ở trong tam phương tứ chính của cung Mệnh, đại biểu khí thế của cung mệnh còn rất cường vượng, vì thế mặc dù có Cự Môn Kị xung, vẫn có tác dụng bảo hộ, nếu như không có ba tam cát hóa tinh này nhập trong tam phương tứ chính cung Mệnh, như vậy người này cũng rất có khả năng “hồi khứ” rồi. (LC chú: hồi khứ ý chỉ sự quay trở về, trở lại, có thể có rồi mất, lên cao rồi rơi xuống …)

Mệnh lệ này tại sao lại mắc chứng u buồn vậy? Cái này phải xem hóa tinh, tới xung cung Mệnh chính là “Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị”, Thiên Đồng hóa Quyền là muốn “Có biểu hiện, không chịu thua kém, nơi nơi đều muốn cầu hoàn mỹ” còn Cự Môn hóa Kị chính là “Khẩu thiệt thị phi, lời đồn chuyện nhảm”, cho nên trong công tác đều rất nỗ lực chăm chú nhưng kết quả lại nghe được một số lời châm chọc chê cười, vì thế mới mắc chứng u buồn, trải qua trị liệu dược lý với tâm lý nhằm kiềm chế mới có thể từ từ hồi phục.

Như vậy góc độ hình thành của tứ hóa đại hạn ở ví dụ này ở mệnh bàn tiên thiên có phải là cách cục “Tam kỳ gia hội” hay không vậy? Cũng có thể coi là cách này, nhưng lại không có cách “Tam kỳ gia hội” của tiên thiên tới tương hỗ chiếu rọi, chỉ có đại hạn thành cách mà thôi, khó coi là “cát tường” được, chỉ bất quá làm cho y ở đại hạn này bình ổn một chút mà thôi, cho nên mắc chứng u buồn còn có thể đi đến bác sĩ khám và chữa bệnh, không phải đại hạn cung Mệnh độc tọa một viên sát tinh Kình Dương lắm khả năng sẽ áp dụng thủ đoạn phá hủy bản thân.

Bởi vậy, “Tứ hóa đại hạn phải chiếu xạ đến Mệnh bàn tiên thiên” xem có hình thành góc độ đặc thù :

  • Tam kỳ gia hội
  • Xung
  • Chiếu
  • Hội
  • Nhập

hay không, mới có thể xuất hiện hiệu ứng “Cát hung”, đương nhiên còn cần xem xét cân nhắc nhân tố “Tổ hợp tinh diệu” mới có thể, không được phép chỉ nhìn một nhân tố liền võ đoán quả quyết, người viết vẫn hay nhấn mạnh phải “tổng quan toàn cục” thì mới có thể “khái quát toàn cảnh”.

Người viết từng thấy trong một cuốn sách có nói rằng “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Đại hạn bàn cục” tới quan sát cát hung, này là sai lầm, đại hạn bàn là một bàn mượn dùng một đại hạn chuyển dời, toàn bộ đại hạn bàn cũng chuyển dời theo đó. Tiếp tục căn cứ quy tắc suy lý “Thiên địa nhân” bàn, đại hạn bàn trưng tượng đột hiển sẽ ứng nghiệm ở “Lưu nguyệt”, cho nên chuẩn xác mà nói thì phải là “Đại hạn tứ hóa phải hóa nhập Lưu niên bàn cục” mới đúng. Quan sát đại hạn tứ hóa có hình thành góc độ hiệu ứng “Tam hợp, xung, chiếu, hội, nhập” có ở lưu niên bàn cục hay không, thì mới có thể suy đoán tiếp lưu nguyệt ứng nghiệm. Bởi vậy nếu không biết quan hệ ở trong đó, một cung có ba tầng ý nghĩa: cung tiên thiên bàn, cung đại hạn bàn, cung lưu niên bàn, nếu không nắm được quan hệ “Phụ thuộc” trong đó, cũng không biết phải tách xuất ra từng tầng để phán đoán suy luận cát hung.

Bởi vậy đại hạn là một trạm kiểm soát trọng yếu, nó muốn hướng lên tiên thiên tiếp nhận thùy tượng sự vật để sau đó giao cho lưu niên để hiển hiện tượng nhân sự vật của sự kiện.

Mệnh bàn Lưu niên

Nếu như trạm kiểm soát này mất liên lạc thì “Sự kiện” không cách nào có thể hình thành được, vì thế mỗi mười hai năm đi qua cái cung đó không nhất định sẽ phát sinh “sự kiện”. Mà là đại hạn đòi hỏi phối hợp mới có thể thành sự, đại hạn là một trạm chuyển tiếp dẫn dắt trọng yếu, khai triển công năng xe chỉ luồn kim làm cho sự kiện từ thùy tượng mà thành hình thành sự một mạch tương thừa, sự kiện mới phát sinh. Vì vậy, trọng điểm phải quan sát của tứ hóa của đại hạn bàn cục là:

  • Một: đại hạn và tiên thiên bàn cục có hình thành góc độ đặc thù gì không?
  • Hai: nếu như có hình thành một góc độ đặc thù của sự việc hạng mục nào đó mà có khả năng ứng nghiệm thì tra xem quan hệ của đại hạn bàn cục và lưu niên bàn cục để tìm ra năm ứng nghiệm.

*Lưu Niên:

Phi bố Lưu niên Tứ hóa Mệnh bàn

Như vậy thì “Lưu niên” lúc suy luận mệnh bàn thì nó có vai trò gì? Tứ hóa có hiệu lực và tác dụng gì không? Thông thường người ta khi toán mệnh thường hay phân giải cát hung lưu niên, căn cứ quy tắc suy luận Tử Vi Đẩu Số là từ “Tiên thiên mệnh bàn” để khởi điểm “Đại hạn mệnh bàn” làm trung gian dẫn dắt quan hệ “Xung chiếu hội nhập” làm chất xúc tác để dẫn phát sự kiện mà ứng nghiệm trong “Lưu niên bàn cục”. Cho nên lưu niên bàn là một “Thụ thể” tiếp nhận góc độ đặc thù hoặc sự diễn hóa tính chất của tinh diệu ở trên tiên thiên và đại hạn mệnh bàn mà làm cho sự kiện xuất hiện. Bởi vậy, giai đoạn lưu niên chủ yếu là quan sát góc độ hình thành của tứ hóa giữa tiên thiên với đại hạn bàn mà suy đoán lưu niên ứng nghiệm, do đó vai trò của lưu niên đã trở nên rất rõ ràng.

Tuy nhiên chưa chắc nó đã hoàn toàn là như vậy, bởi vì góc độ mà tứ hóa cấu thành của tiên thiên với đại hạn bàn nó không chỉ đơn giản có “Tam kỳ gia hội, xung, chiếu, hội, nhập” thôi, còn có một số không thể hoàn toàn quy nạp vào năm loại góc độ đặc thù này, lúc này cần ánh tượng của “Tứ hóa lưu niên” tới đột hiển sự kiện, lúc này cũng giống như Cung Can khởi phi tứ hóa của Cung “Lập tượng”, xem xem góc độ phân bố trên mệnh bàn có hình thành các góc độ với tiên thiên hoặc đại hạn hoặc tứ hóa đã thuật ở trên hay không nhằm quyết định xem hiện tượng là cát hay là hung.

Như ví dụ người sinh năm Giáp Tý thuật ở trên, năm 22 tuổi (năm Hợi) vừa lúc tiến nhập vào tuyến có Thiên Cơ hóa Khoa và Thái Âm hóa Lộc, cũng là tuyến Quan Lộc – Phu Thê, cái này nó đại biểu hàm ý gì? Biểu hiện trong lòng hắn muốn có thành tích về phương diện sẹ nghiệp, một loại tư duy muốn có biểu hiện; thế nhưng Thiên Đồng hóa Quyền và Cự Môn hóa Kị

  • cung Thiên Di lại xung đến cung Mệnh, cũng là vị trí cung Phúc Đức của lưu niên năm 22 tuổi, mà Thiên Đồng và Cự Môn có hàm ý có sự tự mâu thuẫn. Hơn nữa cung Mệnh còn có Đà La tinh cũng là tinh diệu nhìn trước ngó sau, do dự không quyết, rất muốn thể hiện nhưng lại do dự, đó không phải là tự tìm khổ não hay sao? Bởi vậy tình huống như này dễ mắc chứng u buồn.
  • ví dụ này mà nói thì lưu niên Hợi chỉ là tiếp nhận kết quả của tiên thiên với đại hạn, mà ứng nghiệm ở năm Hợi, mà hoàn toàn không cần phải đi xem xét tứ hóa năm Hợi rốt cuộc là phân bố ở tiên thiên bàn cục hoặc lưu niên bàn cục.

Nếu muốn phi bố lưu niên Mệnh cung tứ hóa cũng có thể làm cho bàn cục thêm rõ ràng:

Dùng hình bát giác đóng khung ở chính chỗ tứ hóa lưu niên (LC chú: ở đây tác giả dùng hình bát giác để làm dấu phân biệt tứ hóa lưu niên, còn chúng ta có thể tùy chọn dùng hình hoặc kí hiệu khác nào đó để phân biệt cũng được), bởi vì mệnh bàn quá nhỏ cho nên đem Lộc và Kị của Thiên Cơ với Thái Âm viết sang hai bên trái phải, sau khi cộng thêm vào thì càng nhìn ra rõ ràng mâu thuẫn Lộc Khoa Kị ở trên tuyến Quan Lộc – Phu Thê này. Rất nhiều người sẽ vì cái này mà không biết rõ là pahir giải thích hiện tượng này như thế nào. Trước tiên, cung Mệnh là trạng thái nội tâm của “Ta”, hóa Lộc Quyền Khoa Kị của tiên thiên cùng đại hạn của “Ta” đều ở tuyến Quan Lộc – Phu Thê, biểu thị bản thân rất có lòng có ý thức trách nhiệm với sự nghiệp, nhưng mà Thiên Đồng hóa Quyền tại Thiên Di chủ về muốn thể hiện để giành được sự tôn trọng hoặc được coi trọng lại có một viên Cự Môn hóa Kị tinh làm cho những lời thủ thỉ hoặc lời đồn chuyện nhảm gây tổn hại đến danh tiếng khiến “Ta” canh cánh trong lòng sự nghi ngờ, đối với bản thân có áp lực rất lớn. Cho nên đây là hiện tượng “mong muốn được thể hiện mà đồng sự lại ngầm hãm hại mà dẫn đến tinh thần gặp áp lực khiến sự tình thêm phức tạp”,

Hiện tại hóa Lộc Quyền Khoa Kị của lưu niên cũng phi nhập vào trong tam phương mệnh bàn tiên thiên; Thiên Cơ hóa Lộc của lưu niên ở Phu Thê, Thái Âm hóa Kị thì ở Quan Lộc, bàn cục xuất hiện “Lộc – Kị giao xung” làm cho “tinh thần áp lực khốn nhiễu” đã nói phía trước cộng thêm chất xúc tác từ Thái Âm hóa Kị càng làm cho lực ảnh hưởng tăng mạnh thêm khiến cho “Ta” không chịu nổi mà phá lên. Lúc này sẽ xin thầy thuốc giúp đỡ, như thế trong lưu niên bàn cục có thể nhìn ra cái chất xúc tác này từ đâu đến đâu không? Đương nhiên có thể, chẳng phải Tử Vi Đẩu Số muốn “Xu cát tị hung” giúp người đó sao, đương nhiên phải tìm được “nguồn khởi điểm tai họa” mới có thể nhắm đến mục tiêu cải sửa, không phải là xin giúp đỡ “Khai vận giới” hay “Đổi vận thạch” một cách mù quáng là có thể có hiệu quả! (LC chú: khai vận giới với đổi vận thạch ở đây theo từ gốc thì ý chỉ những lời răn cấm, sự phòng bị chưa hẳn đã khai mở được vận, đeo vòng đá chưa chắc đã chuyển được vận hoàn toàn) Trước tiên căn cứ vào tâm lý học mà nói, căn cứ vào thống kê cho thấy một cá nhân bị hai loại stress cũng một lúc biểu hiện thường rất thống khổ và thường rơi vào trạng thái suy sụp, còn nếu như mà chịu tới ba loại áp lực khiến stress thì sẽ không cách nào chịu đựng được mà dẫn đến sụp đổ. Như ở ví dụ này thì mệnh tạo phải chịu hai loại áp lực: áp lực công việc và áp lực trong quan hệ nhân tế với những người cùng trang lứa, lúc này rất cần có sức mạnh từ bên ngoài tới trợ giúp để vượt qua cửa ải khó khăn. Thế nhưng Thái Âm hóa Kị lại đóng vai trò như “làm một cọng rơm cuối cùng để nghiền nát lạc đà”, làm cho y suy sụp; Thái Âm là nữ nhân mà đóng ở Quan Lộc tức xung đến Phu Thê, còn mệnh tạo lại là nam nhân nên đây là hiện tượng bạn bè trai gái dễ biệt ly. Vốn dĩ bạn gái cũng đã cổ vũ tinh thần để chống chọi với kỳ vọng khá cao, cho nên trong công việc khi gặp phải các loại áp lực vẫn còn có người để trút bầu tâm sự nên cũng được an ủi giảm bớt phần nào áp lực trầm trọng ấy. Bởi vậy, Thiên Cơ hóa Lộc nhập Phu Thê này biểu thị cái năm này đối với bạn gái đặc biệt tốt, có lòng muốn bạn gái thành đối tượng để kết hôn nhưng lại gặp phải kết quả trái ngược, ở vào loại tình cảnh này có mấy người không suy sụp đâu chứ!

Sở dĩ, thêm tứ hóa lưu niên càng làm cho mức “cụ thể hóa” ánh tượng “nhân sự vật” càng thêm rõ ràng, khiến chúng ta càng có thể nắm được điểm mấu chốt sự kiện phát sinh, rồi sau đó mới có thể căn cứ đó để cải thiện mệnh vận mà không phải là loạn cải vận một lần, cho nên đối với những tuyên bố có thể “Sửa vận, khai vận” gì đó thực khó có thể tán đồng.

Không tìm được điểm mấu chốt ở đâu có thể nào sửa vận, nó cũng giống như bệnh ung thư dùng hóa liệu cũng như thuốc đạn bắn chim, đem tế bào tốt xấu đều giết hết, giết được các bệnh tật mắc phải thì bản thân cũng hấp hối, điều tốt hơn là sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu mới nhất để có hiệu quả.

Sau khi ra sách có một số độc giả đi tìm hỏi mệnh lý, có vị bác sĩ phu nhân có đến hỏi vận đồ của chồng như thế nào? Vừa nhìn đã nói phải cẩn thận khoảng dịp Tết nguyên đán sức khỏe thân thể dễ xảy ra vấn đề, cũng đặc biệt dặn dò phải đi cùng ở bên cạnh anh ấy. Đối phương lại đáp lời rằng chồng cô ấy là bác sĩ ngày thường rất chú trọng chăm sóc thân thể, chắc sẽ không sao đâu! Nhưng ngó trái ngó phải còn chưa có vừa ý, thế là có viết rõ tháng một của năm cần chú sức khỏe ấy lên mệnh bàn, nào ngờ trước Tết nguyên tiêu năm ấy có nhận được điện thoại và nói rằng đã xảy ra chuyện. May thay còn có cô ấy đi cùng, vừa nhìn thấy không ổn liền nhanh chóng tự mình lái xe đưa đến bác sĩ. Nếu không, giống như bộ trưởng chưa kịp nhậm chức đã khuất bóng, có cứu cũng đã quá muộn. Mà tại sao lại phải nhắc nhở “cô ấy” bất luận thế nào đều phải đi cùng bên cạnh anh ấy, chính là trên mệnh bàn nhìn ra kiếp số của hắn do người nào đó đến giải trừ mà đặc biệt nhắc nhở, mà cô ấy cũng có thể loại bỏ khó khăn khi ở bên cạnh mà nguy cơ được hóa giải.

Bây giờ đơn cử một mệnh lệ để thuyết minh!

Mệnh tạo này cung Mệnh tọa Vũ Khúc, Thiên Phủ, Hỏa Tinh gặp Thất Sát ở đối cung hình thành “Vũ Khúc, Thất Sát, Hỏa Tinh” là cách cục “nhân tài bị kiếp”, tựa hồ rất bất lợi về tiền tài, nhưng giả như có lòng thiện tâm đem tiền quyên góp đi cứu giúp người, bản thân trở nên nghèo khó thì có là tiền tài bị cướp không? Liệu có thể phá giải ác cách “nhân tài bị kiếp” này hay không, lúc ở đại học hắn có thi đỗ công chức thì nó có liên quan đến Cự Môn Quyền tọa ở cung Quan Lộc ở đại hạn thứ hai làm cho hắn đọc sách học tập có thành hay không?

Trước tiên, bắt đầu phân tích từ mệnh cách bản mệnh:

Nếu đã biết hắn “quyên góp số tiền đáng kể” chúng ta có thể thông qua “nghịch hướng công trình” để truy tung manh mối hiển hiện trong mệnh bàn, loại dấu vết manh mối này không ngoài sự tồn tại quỹ tích của “tứ hóa phi tinh” với “tổ hợp tinh tính”, cẩn thận tỉ mỉ phối hợp với nhau nhất định có thể lần theo dấu vết tìm ra bí mật ẩn tàng.

Phương pháp suy đoán của bằng hữu ở những môn phái khác cũng có thể muốn tính toán sự khác biệt trước tiên, tuy trong đó có sự tương đồng nhưng cũng có khác biệt.

Mệnh bàn có 12 cung, hành vi quyên hiến là phải xem ở cung vị nào đây? Cho nên tất cần phải lý giải thấu triệt suy đoán mà 12 cung chủ chưởng mới có thể tìm ra cung vị tương ứng. Nói chung, hành vi “quyên hiến” cho công chúng không chỉ định là khán “Phúc Đức” hoặc “Nô Bộc”, nếu lấy tiền cho “người trong nhà” thì do cung cần tới đại biểu, như đem cho con cái thì khán cung Tử Nữ.

Hành vi phụng hiến không vụ lợi loại này của mệnh tạo, thì có quan hệ không nhỏ đến cung Phúc Đức. Tham Lang vốn chủ dục vọng, nhập Phúc Đức chắc là yêu tiền tài hơn nữa là người thích hưởng thụ, thế nhưng lại gặp Địa Không, hóa giải bớt dục vọng của Tham Lang mà chuyển hóa thành ý tưởng của tình yêu lớn “thương xót cho người, muốn trợ giúp người khác”. Có rất nhiều tu đạo nhân sĩ đều là Tham Lang hóa Kị, cho nên trong Toàn Thư nói không có sai, không phải là mê hoa yêu rượu thì là phá đãng tổ nghiệp, một mai sau khi hóa Kị lại thành “nghiên cứu các học thuật thần bí”. Bởi vậy Tham Lang hóa Kị ở Phúc Đức thì vì Phúc Đức là cung đại biểu về tinh thần mà Hóa Kị lại có hàm ý thiếu khuyết, sự “khuyết thiếu về trạng thái tinh thần” có thể giải thích hàm ý là “tinh thần ở trạng thái hư không hoặc vô ngã”. Bởi vì trống rỗng nên lại cần có món ăn tinh thần tới bù đắp, hoặc cần phải có tôn giáo tới gia trì, thì cõi lòng mới sẽ không rơi vào tình thế không nơi nương tựa phiêu bạt bất lực. Do đó, một khi có tín ngưỡng tôn giáo sẽ ăn nhập rất sâu, chiếm một phần không nhỏ trong lĩnh vực sinh hoạt tinh thần, nên đây có thể coi là nguyên do ngày sau quyên hiến số tiền không nhỏ.

Tiếp tục nhìn tứ hóa của cung Phúc Đức, thì Liêm Trinh hóa Lộc nhập Tài Bạch.

Phá Quân hóa Quyền nhập Phu Thê, Vũ Khúc hóa Khoa nhập cung Mệnh, Thái Dương hóa Kị nhập Phụ Mẫu, trong đó thì hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa không có nhập Mệnh hay chiếu Mệnh, cho nên cung Phúc Đức đối với mệnh tạo mà nói đây là cung vị trọng điểm hắn rất quan tâm.

Mà cung Tài Bạch tọa [Liêm Trinh, Thiên Diêu, Địa Kiếp] , có hai sao một chủ tư pháp một chủ đào hoa, cho nên nếu làm công việc về giấy tờ đất đai lại phù hợp với đặc tính của Liêm Trinh, mà Liêm Trinh cũng có ý “tham tranh” nhưng lại gặp phải Địa Kiếp cùng với Địa Không của cung Phúc Đức chiếu hội mà dẫn tới thái độ về tiền tài sẽ không có sự so đo tính toán chi li tiền bạc. Trong Tử Vi chư tinh thì Không Kiếp nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức đại biểu mệnh tạo có tuệ căn tôn giáo, tư tưởng tương đối gần với “trống không, siêu hình” của nhà Phật hoặc tư tưởng Đạo gia. Cho nên một khi ảnh hưởng chiếu hội được tăng cường không chỉ đặc tính của Liêm Trinh, Tham Lang tiêu biến mà trái lại sẽ với trách trời thương dân, trong lòng ôm ấp từ bi muốn dùng tài vật để sắp xếp nên đã đem tiền của mình mà đi cứu tế người khác. Cái này phù hợp với biểu hiện về đặc tính của Địa Không, Địa Kiếp ở tuyến Phúc Đức – Tài Bạch.

Tiếp tục nhìn cung Điền Trạch tọa Cự Môn Quyền, biểu thị hắn rất lo cho gia đình, cũng cho thấy hắn trong điền trạch rất có quyền lực hoặc thành tích. Mà công việc làm đại diện liên quan đến giấy tờ buôn bán đất đai này, vị trí then chốt là bởi mua bán đôi bên tạo được sự tin tưởng lẫn nhau, cũng chính vì tạo được sự tin tưởng trong mua bán giữa đôi bên mà giao phó cho hắn quyền lực. Cái này cũng có liên quan đến Thiên Cơ, bởi Thiên Cơ chủ huynh đệ, chủ nhân vật ngang vai cùng trang lứa nên Thiên Cơ hóa Quyền có thể dẫn dụ làm “vì giành được sự tín nhiệm nên được giao cho quyền lực nhằm thi hành thực hiện công việc”. Cự Môn là khẩu thiệt, cũng chính là phối hợp giao tiếp, cho nên tổng hợp lại thì mệnh tạo rất thích hợp đảm nhiệm công việc làm đại diện.

Phân tích quan hệ tứ hóa tiên thiên:

Theo lý hẳn là đi phân tích từng cung từng cung, để tiết kiệm số trang chỉ đi phân tích các cung vị có liên quan. Ở ví dụ này cung “Lập tượng” bởi vì là quyên hiến số tiền tích cóp được nên hẳn là ở cung Tài Bạch, cung Tài Bạch tiên thiên có Thiên can là Canh, phi xuất tứ hóa phân bố như sau:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ Mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Phụ mẫu
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Xin hỏi cung Phụ Mẫu là cung gì? Không nên quên rằng nó là cung Tài Bạch của cung Nô Bộc, hiện tại Tài Bạch của ta hóa Lộc với hóa Khoa nhập túi tiền Nô Bộc, là tiền tài của ta tiến nhập Tài Bạch của bạn bè. Mà hóa Lộc đại biểu nhiều, hóa Khoa đại biểu chủ động, cho nên việc “chủ động quyên ra một số tiền lớn” đã tạo nên hiện tượng này. (LC chú: hiện tượng ở đây chính là chỉ tiền của y chảy vào túi giao hữu thông qua việc quyên góp tiền)

Tại sao lại là quyên góp từ thiện cho cơ sở tôn giáo chứ? Thái Dương và Thái Âm đều chủ chiếu sáng bốn phương, trong thiên hạ cũng phải cần có ánh sáng với nhiệt để sinh trưởng sinh sôi nảy nở, cho nên là một loại sự tình hoặc hoàn cảnh “chiếu khắp chúng sinh”. Mà cung

Phụ Mẫu cũng là có thể quản chế hoặc ước thúc việc trái việc phải hoặc hoàn cảnh của chúng ta, như cơ quan cảnh sát, thầy cô giáo… mà tôn giáo chùa miếu cũng có thể nói là đơn vị loại này. Từ hai nhóm nhân tố tinh diệu với cung vị này tổ hợp khởi lai thì có thể đem nhân sự vật “cụ thể hình tượng hóa” chính là “tôn giáo từ thiện đoàn thể”, cho nên tiên thiên bàn cục cũng có thùy tượng sẽ có hiện tượng “đem một số tiền đáng kể đi quyên góp từ thiện cho tôn giáo đoàn thể”, đem sự kiện tuy nhỏ nhưng mà hiển hiện ra cụ thể.

Còn như Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh, loại hiện tượng này là có thành tựu về tiền tài, biểu thị ngày sau sẽ tương đối có thành tựu về tiền tài ví dụ như đảm nhiệm kế toán trưởng quản lý tài vụ … Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ biểu hiện quan hệ qua lại về tiền tài với huynh đệ không được tốt, không có tiền tài qua lại.

tuổi tiến nhập đại hạn Nhâm Tuất, cung Mệnh đại hạn có [Phá Quân Lộc] tọa, không đồng cung với chính tinh khác, Thiên can của cung Mệnh đại hạn là Nhâm, làm cho:

  • Thiên Lương tinh của cung Nô Bộc hóa Lộc – đây là thân cận với bằng hữu, có hàm ý sẽ đem tiền tài trợ giúp bằng hữu, cũng có hàm ý như “gom góp tài lợi cá nhân cùng với những người khác”.
  • Tử Vi tinh của cung Quan Lộc hóa Quyền – muốn có sự khác biệt trong sự nghiệp của mình, vốn đại hạn là sẽ tích cực, sẽ nỗ lực ở sự nghiệp, hướng đến mục tiêu của chính mình để phấn đấu.
  • Tả Phụ tinh của cung Huynh Đệ hóa Khoa – ở chung cùng với huynh đệ ở đại hạn này sẽ có sự khích lệ giúp đỡ động viên tinh thần lẫn nhau, làm việc cùng nhau cho kỳ thi, có những chủ đề phổ biến có thể cùng nhau thảo luận học tập mà làm cho tình cảm trở nên thân thiết hơn.
  • Vũ Khúc tinh của cung Mệnh hóa Kị – chúng ta gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị nhập cung Mệnh”, cung Mệnh là cung Phúc Đức của đại hạn Nhâm Tuất, Vũ Khúc là tài tinh, khi mà hóa Kị thì tiền tài do Vũ Khúc chủ chưởng cũng liền có “tổn thất”. Hơn nữa trong cung Mệnh còn có tài tinh khác là Lộc Tồn, hai sao tài tinh đụng phải Vũ Khúc hóa Kị lại còn có “Dương Đà giáp Kị”, đối cung của Phúc Đức đại hạn cũng là Tài Bạch đại hạn bị Vũ Khúc hóa Kị gây ảnh hưởng và cái này được coi là “xung”, gọi là “cung Mệnh đại hạn hóa Vũ Khúc Kị xung Tài Bạch đại hạn”, vì thế tiền tài sẽ có tổn thất. Bởi vì do cung Mệnh hóa Kị nhập Phúc Đức mà dẫn tới, cho nên là vì tín ngưỡng tôn giáo mà cam tâm tình nguyện bỏ ra, như: quyên góp tiền dầu thơm hoặc quyên góp cho giáo hội một phần mười thu nhập, nó có bản chất như vậy. Bởi vậyđối với mệnh tạo mà nói đó không phải là tổn thất mà là “đắc lợi” về mặt tinh thần cho cuộc sống. Do vậy ta dùng dấu móc ngoặc cho hai chữ tổn thất nhằm biểu thị đó là quan điểm của chúng ta về thế tục.

Phân tích quan hệ tứ hóa hậu thiên:

Thiên can cung Tài Bạch đại hạn là Mậu, phi xuất tứ hóa như sau:

  • Tham Lang hóa Lộc nhập Tài Bạch
  • Thái Âm hóa Quyền nhập Phụ Mẫu
  • Hữu Bật hóa Khoa nhập Điền Trạch
  • Thiên Cơ hóa Kị nhập Điền Trạch

Thiên Cơ hóa Kị tại cung Điền Trạch cũng chính là cung Mệnh năm Mão, hơn nữa Thiên Đồng Kị của Tài Bạch tiên thiên phi xuất ở Tài Bạch của năm Mão. (LC chú: ở đây ý chỉ Can của cung Tài nguyên cục là Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị ở cung Hợi, cung này là cung Tài của năm Mão) Cho nên, Kị tinh của Tài Bạch tiên thiên và đại hạn phi xuất đã hình thành góc độ tam hợp ở năm Mão, cái này tương tự “Tam hợp Kị” mà ta đã nói trong chương “Đàm luận thời gian ứng nghiệm sự kiện” trong cuốn “Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích” trước đó, cho nên qua năm tới sẽ có biến động về tiền tài. (LC chú: phần Tam hợp Kị độc giả có thể tham khảo chương số 24 quyển Tử Vi Đẩu Số Mệnh vận Phân tích đã được dịch Việt ngữ public trên trang Tuvi.cohoc.net cùng một số fanpage huyền học khác)

Lưu niên năm 27 tuổi

Cung Mệnh lưu niên ở Mão, có Thiên can là Ất làm cho:

  • Thiên Cơ hóa Lộc cung Mệnh lưu niên (cung Điền Trạch) : tượng này là “tự hóa Lộc”, là hàm ý của “Lộc xuất”, cũng chính là sự biểu thị “tiền tài bỏ ra”. Mà cung Mệnh lưu niên lại tọa Cự Môn Quyền, hàm ý của Quyền là “chủ động, hoán đổi hành động”, vì thế hắn sẽ tự mình chủ trương đem tài lộc bỏ ra, mà bỏ ra không phải là bị lừa hay bị gạt, hay là lòng không chịu tình không muốn. Cho nên năm nay bản thân đã chi ra một số tiền đáng kể trong một tình huống tự quyết.
  • Thiên Lương hóa Quyền của cung Nô Bộc: Quyền mang hàm ý có thành tựu, quản chế, nên đây là chiều hướng “ta sẽ đi kết bạn”. Mà đại hạn tứ hóa lại có tượng “đem tài lộc mang tới cho giao hữu”, cho nên tượng sở thuộc hiển hiện của tứ hóa cung Mệnh của đại hạn cùng với lưu niên cho thấy rất rõ ràng là “đem tiền tài đi kết giao bằng hữu”. Chẳng trách sẽ đem nhiều tiền của tích cóp được chi ra, mà cung Nô Bộc có Thiên

Lương tinh tọa, sao Thiên Lương là quý nhân tinh, chủ chưởng khả năng “phùng hung hóa cát”, quyên góp cho cơ quan từ thiện chính là muốn để cho những hộ gia đình có thu nhập thấp phải chịu khổ chịu khó khăn sẽ nhận được trợ lực “gặp dữ hóa lành” giúp họ thoát ly biển khổ. Kết hợp cả tính chất của sao cùng với tứ hóa sẽ giúp cho chúng ta càng giải thích đầy đủ được ý nghĩa của tượng xuất hiện trong đó.

  • Tử Vi hóa Khoa của cung Quan Lộc: Khoa chủ chưởng “khảo thí, công danh”, tiến nhập Quan Lộc mà nói, tham gia các kì kiểm tra sát hạch trong nước nhất định có thể tên đề bảng vàng, mà đại hạn lại hóa Tử Vi Quyền đến cung Quan Lộc. Hóa Khoa, hóa Quyền cả hai tăng cường, một là nỗ lực phấn đấu, một là vận thi cát tường, quả nhiên y sau khi trải qua một năm nỗ lực học tập đã tham gia và đỗ kỳ thi cao cấp. Trước khi đi làm đã đem tiền tích góp nhiều năm quyên góp cho cơ quan tổ chức từ thiện để hành thiện.
  • Thái Âm hóa Kị của cung Phụ Mẫu: Kị chủ khốn đốn, không thuận, tiến nhập cung Phụ Mẫu cũng chủ phụ mẫu có hạn tượng như này, nhưng may thay còn có Thái Âm Khoa bảo hộ, mặc dù có không thuận nhưng không đến nỗi khổ sở. Đương nhiên khi thi đỗ được rồi sẽ y theo chỉ lệnh phân công công tác của thượng cấp mà đi đến tỉnh khác làm việc, có lúc rời xa cha mẹ. Dĩ nhiên đối với cha mẹ mà nói sẽ có chút không muốn và khổ sở, thế nhưng chuyện thi đỗ có thể coi là “quang tông diệu tổ” cho nên với cha mẹ mà nói tuy có thương cảm nhưng trong đó lại có chút vui mừng thậm chí kiêu ngạo nữa! Đó là lý do mà “Kị” gặp Khoa năm sinh có hàm ý như này. Ở đây cũng đồng thời cải chính một chút sự ngộ nhận của một số người về “Khoa Kị không Kị”. Cái gọi là “Khoa Kị không Kị” không phải là “Hóa Kị” sở chủ điềm xấu chuyện xấu, vì là có quan hệ của Hóa Khoa tiêu trừ mất đi, mà là lưỡng tượng tốt xấu cùng tồn tại khiến cho trong kết quả yếu tố tốt chiếm nhiều hơn bù đắp cho tượng của cái xấu. Ví dụ như mệnh lệ này thì hiện tượng đó chính là may mắn thi đỗ nhưng lại được cấp trên điều phối đi làm việc ở nơi xa khiến cho cha mẹ thương cảm”.

*Tổng Kết:

Tiên thiên Tài Bạch tứ hóa “thùy tượng” – quyên ra một số tiền lớn đến Tài Bạch của bằng hữu, hơn nữa cùng Tài Bạch đại hạn ở năm Mão làm bàn cục xuất hiện “Tam hợp Kị”, đã hình thành điều kiện quan trọng thông qua đại hạn mà “thành hình”. Cho nên chỉ đợi thời cơ thích ứng để “thành sự” mà thôi, mà năm Mão là “thời cơ thích hợp”, nhưng tại sao lại là năm Mão vậy? Bởi vì Tài Bạch của tiên thiên hóa Kị ở Tài Bạch của năm Mão, đại hạn hóa Kị tại cung Mệnh năm Mão vì thế năm Mão thành sự.

Vì sao còn phải xem nhập thêm “cung Mệnh” nữa chứ? Đừng quên rằng cung Mệnh là nguyên tắc chung, là đầu mối then chốt trong biến hóa của vận đồ, nó liên kết tới mười một cung khác. Cho nên phải để một cung trong đó lập tượng, tất nhiên là nó lấy một cung chiếu xạ đến mười một cung khác, sao tọa trong cung Mệnh cũng đồng thời đóng vai mười một loại tượng, phải tùy theo cung vị mà người phân tích mà hoán tượng mới có thể tương ứng với tượng nhân sự vật phức tạp.

Trải qua ba giai đoạn “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” từng tầng từng tầng chắt lọc lựa chọn từng bước đem “Sự kiện” từ hình tượng mông lung mà từ từ rõ ràng minh xác thực hóa, thông qua mối quan hệ xuyến liên giữa “Tứ hóa” với “Tinh tính” làm cho quan hệ giữa “Bản mệnh, Đại hạn, Lưu niên” được liên kết khởi lai, thì có thể từ trong “Cung vị”, “Tinh tính” và “Tượng” trong mệnh bàn cung cấp cho thông tin ở trong đó. Từ đó có thể chắt lọc lấy ý nghĩa ẩn chứa bên trong mà có thể dùng những từ nó sát với “ý tượng sinh hoạt” trong sinh hoạt đời thường mà giải thích cho người hỏi mệnh hiểu rõ.

Bởi vậy, một chuyện phải trải qua thùy tượng “Bản mệnh”, thành hình ở “Đại hạn” cho đến thành sự ở “Lưu niên”, ba cái giai đoạn này Phi tinh phái dùng “Thiên bàn”, “Địa bàn”, “Nhân bàn” để gọi tên chúng, cái này cùng với hiện tượng “tâm linh khác” không có quan hệ gì, không nên bị ngộ đạo; mà suy diễn Thiên Địa Nhân bàn thì Thiên can tứ hóa xuyên suốt toàn cục cho nên là phải thuần thục cách dùng tứ hóa mới có thể nắm được sự bí ẩn về Tử Vi Đẩu Số của Phi tinh phái.

Mà từ trong mệnh bàn suy đoán hình tượng của sự vật phải thấu đáo nhuần nhuyễn tính chất của sao mới có thể phân giải dùng những từ ngữ chuẩn xác giúp cho người hỏi mệnh có thể hiểu ngầm trong lòng! Công phu này nếu không có ý tượng sâu sắc đối với sinh hoạt thường ngày thì rất khó nói hoặc phân giải kỹ càng. Đương nhiên, còn có sự từng trải và kinh nghiệm trong sinh hoạt của người giải bàn cũng rất có quan hệ, nếu như người không biết hoặc là chưa mở mang được kiến thức cũng sẽ không cách nào nói ra được câu cú đầy huyền cơ: “ngươi một khi dọn nhà nhất định sẽ kiếm được tiền”.

Tin rằng thông qua giải thích bản án lệ (LC chú: bản án lệ ở đây ý tác giả chỉ về trường hợp ví dụ thực tế được phân tích ở phía trên), đối với quan hệ và cách dùng giữa “Cung vị, Tinh tính, Mệnh hạn niên hóa tượng” mà có thể hoàn chình khái niệm sơ bộ. Tính chất của sao đối với Tứ hóa Phi tinh phái mà nói thực sự là mắt xích trọng yếu, chỉ là sự vận dụng của chúng ta về tính chất của sao có sự bất đồng với Tam hợp phái, nó chỉ khác nhau ở thủ pháp vận dụng mà thôi!

Góc Độ Quan Hệ Của Vận Đồ Mệnh Hạn Với Hóa Kị

Hóa Kị có thể nói là một viên sao rất trọng yếu trong tứ hóa, từ trên danh từ mà khán thì Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Khoa đều là hóa tinh tốt, mà chỉ có một viên hóa luôn không tốt. Dường như trong tứ hóa tỉ lệ phân chia tốt với xấu cũng không có đều nhau, hóa tinh cát lợi có ba viên mà hóa tinh không cát chỉ có một viên mà thôi, có đúng như vậy hay không? Không phải, sau khi xúc tác diễn hóa một viên sao nào đó cũng sẽ biến đổi bản chất tốt lành của Lộc, Quyền, Khoa mà viên tinh then chốt này chính là Hóa Kị.

Ngẫm lại trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có rất nhiều chuyện, có đúng là có rất nhiều loại hiện tượng này không?

  • Vừa mói bắt đầu gây dựng sự nghiệp thì nghiệp vụ đáp ứng không xuể, làm ăn tốt vô cùng, buôn bán lời một chút tiền, nhưng cuối cùng lại thua lỗ một khoản mà còn không có đường lùi.
  • Hoặc lúc mới bắt đầu nghiệp vụ cũng không được tốt lắm nhưng càng làm càng thuận lợi, sự nghiệp ngày càng lớn.

Một là trước cát sau hung, còn một là trước hung sau cát, rốt cuộc là thuộc về loại tình trạng nào thì phải phân tích từ trạng thái phân bố tứ hóa. Tình hình phân bố tứ hóa phải xem xét

mấu chốt ở “thời” của bản mệnh với hạn vận, cũng là phải quan sát trạng thái phân bố tứ hóa của cung nào đó của bản mệnh và đại hạn cùng một cung sở thuộc phi xuất, xem góc độ giữa chúng có hình thành một trong bốn loại trạng thái “Xung”, “Hội”, “Nhập” hoặc “Hợp” hay không để phán đoán cát hung. Phía trước đề cập qua, trong tứ hóa thì “Hóa Kị” càng có vai trò then chốt trong sự biến hóa của cát hung, cho nên chương này sẽ lấy góc độ hình thành của “Kị” tinh của cung vị “Bản mệnh” và “Đại hạn” phi hóa xuất trên mệnh bàn để phân tích ý nghĩa cát hung.

Muốn đàm luận về Hóa Kị tinh không thể quên hiện tượng “Kị nhập” và “Kị xuất”, cái này đều là quy tắc cơ bản vận dụng Hóa Kị, sáng tỏ “Nhập” và “Xuất” là yếu lĩnh cơ bản trong vận dụng tứ hóa. Hiện tượng cát hung của hai cái này hiển hiện là khác nhau, cho nên lúc đụng phải “tứ hóa” thì trước tiên cần nắm rõ đó là hiện tượng của “Nhập” hay là “Xuất”, đối với “Hóa Kị” mà nói thì:

  • Kị nhập có hàm ý là “Thu liễm”, sự vật có thể tập trung mà không phân tán, cho nên đối với cái sự vật đó có thể nắm giữ được hoặc buông bỏ điều đó, cho nên ta có thể “kiểm soát sở hữu”. Nếu như cung Phúc Đức có tượng này thì tinh thần tập trung thần thái sáng láng; nếu là cung Tài Bạch thì tiền tài vận dụng thoải mái hoặc là tài nguyên có tượng tụ hội, hàm ý “thu được”, “đạt được” cho nên tiền tài có thể kiếm được.
  • Kị xuất có hàm ý là “Phát tán”, sự vật phân tán, có hiện tượng nắm giữ không được bắt không xong, người có thì tinh thần rệu rã, nên bài vở học tập không tốt; có một số thì tiền tài không nắm không cầm được để xoay vòng cho làm ăn, không sử dụng thoải mái được, nên hàm ý chính là “Mất đi”, “Tổn thất”. Còn để giải thích và vận dụng từ ngữ cho chuẩn xác hơn thì phải tùy theo sự biến hóa của cung vị mà dùng cho thích hợp.

Chúng ta dùng hình 1 để giải thích sự khác biệt về “Kị nhập” và “Kị xuất” của Hóa Kị tinh giữa bản mệnh với cung vị đại hạn. Nhưng ý nghĩa của cát hung lại cần phải nhắm vào sự khác biệt của sự vật mà có sự khác nhau, không thể hết thảy đều lấy hai cách phân chia giản đơn “Kị nhập” là cát, “Kị xuất” là hung để giải thích, đây là nhận thức cơ bản thiết yếu. Chúng ta luận mệnh thường đơn giản lấy “Nhập” hoặc “Xuất” để luận sự tình, này là không tốt rất dễ khiến cho người hỏi mệnh nghe được ngôn từ sợ hãi bởi vì các hiện tượng trong cuộc sống có định nghĩa quy phạm luân lý xã hội, cái gì là hợp pháp, cái gì là không hợp pháp. Cho nên là lấy hợp pháp là cát, lấy phi pháp là hung để phán đoán, nhưng cũng có chút phi pháp không phải là hung, chẳng hạn như, giả như cung Phu Thê xuất hiện “Kị nhập” mệnh cục là hiện tượng “sống chung với nhau” thì loại tình huống này coi là “cát” hay là “hung” đây? Tuy là quan hệ hôn nhân không hợp pháp nhưng không có trở ngại bởi gia đình ngầm đồng ý. Còn có rất nhiều tình huống tương tự khác như thế nữa, tùy theo các quốc gia khác nhau hoặc là cùng quốc gia nhưng thời gian khác nhau, pháp luật hoặc quan điểm xã hội có hiện tượng điều chình phát sinh, những cái không hợp pháp trước đây nay đã được xã hội tiếp nhận, ví dụ như đồng tính luyến ái. Bởi vậy chỉ có thể lấy hiện tượng “Kị nhập” là “Thu liễm”, “Kị xuất” là “Phát tán” để giải thích, tiếp đó dùng tính chất sao ở cung vị khác nhau cùng hoàn cảnh trạng thái hiện thực để phân biệt đó là thuộc về “Cát” hay là thuộc về “Hung”.

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị phi nhập Tài Bạch (tức Kị nhập Tài Bạch), đây là Kị nhập, khi lưu niên đi tới cung Tý, Mão thì chủ đắc tài, sẽ có thu hoạch tiền tài, mức độ nhiều hay ít thì xem tổ hợp tinh tú.

ví dụ Kị nhập

Cung Tài Bạch đại hạn hóa Kị nhập Phúc Đức (tức Kị xung Tài Bạch), đây là Kị xuất, khi lưu niên đi tới cung Dần, Thân thì chủ thất thoát tiền tài, mức độ tổn thất tiền tài nhiều ít thì cần xem tổ hợp tinh tú.

Sẽ có bốn loại tình huống “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” mà Đại hạn bàn cục xuất hiện ở Tiên thiên mệnh cục, mà cung cùng loại ở đại hạn cũng có quan hệ “Xung, Chiếu, Hội, Nhập” với cung cùng loại của bản mệnh, tổng cộng có bao nhiêu loại tổ hợp độc giả có thể tự mình tham khảo thêm. Cho nên lợi ích của một viên Hóa Kị tinh từ “Bản mệnh với Đại hạn” và “Đại hạn với Bản mệnh” có thể thấy quan hệ diễn hóa ra giữa chúng rất phức tạp, nên đối với người mới học vừa nhìn thấy cũng cảm thấy đau đầu, vì thế cần đơn giản hóa quan hệ đó thành “Kị nhập” và “Kị xuất” để đàm luận về “Hóa Kị” tinh.

Trước tiên, nếu như Tiên thiên mệnh bàn xuất hiện quan hệ “Kị xuất” đối với Đại hạn bàn cục, mà Đại hạn bàn cục lại hình thành quan hệ “Kị nhập” đối với Tiên thiên mệnh bàn, vậy lúc này nên giải thích hiện tượng “Kị nhập” như thế nào? Rốt cuộc là “Thu liễm” hay là “Phát tán” đây?

Loại tình huống này cũng có hàm ý phát tán, cũng có người trong bản mệnh bàn cục có “Kị xuất”, trong cuộc sống mệnh vận tương đối bất lợi, thường thường nắm giữ cơ hội không tốt, thậm chí cơ hội đến mà còn mù mịt không tự chủ được dẫn đến hiện tượng cơ hội đến mà trôi mất uổng phí. Cũng bởi vì đương sự không tự chủ, trái lại rất có khả năng “chẳng chỗ nào được, cũng chẳng mất chỗ nào”, tỉnh tỉnh mê mê mà sống qua ngày, những lời này có thể coi là những lời thỏa đáng thích hợp nhất dùng để giải thích cho mệnh cục có “Kị xuất”! Nhưng mà khi đương sự đã cao tuổi sau khi nhìn lại cuộc đời hoặc những chuyện đã xảy ra, cẩn thận nhớ lại các chi tiết thì sẽ phát hiện cơ hội để mất từ phía họ. Bởi vậy người có bàn cục loại này, người viết kiến nghị trau dồi tăng mạnh độ nhạy cảm làm sao từ trong dấu vết phát giác ra cơ hội chất chứa trong đó mà nắm bắt lấy nó.

Người viết có một đồng sự phụ trách giáo dục đào tạo, thường xuyên nhận được điện thoại hỏi xem có khóa học nào không, trong đó có một số chương trình dạy học chưa từng được thiết lập, hắn nhận được hồi đáp có phần khiêm nhường rằng không có. Sau khi cúp điện thoại cũng không có hoạt động gì tiếp tục hoặc dẫn phát ý tưởng nào đó, hắn cứ làm như chuyện chưa từng xảy ra, đương nhiên những biểu hiện cho thấy không được tốt và nên đổi chuyển sang người khác thì hơn.

Thế rồi ta cũng có quan hệ với đồng sự khác, gặp phải tình huống tương tự, thì vẫn hỏi đối phương làm nghề nghiệp nào? Tại sao muốn khóa học này? Trong giới nghề nghiệp thì ai là học giả có địa vị, ai là người nghiên cứu? Từ đó mới có thể khai mở ra được nhiều chương trình học trước đó chưa có, thành tích đương nhiên cũng được nâng cao lên nhiều. Người phía trước là mệnh cục có “Kị xuất”, không hiểu được nắm được cơ hội, làm cho nguồn khóa học với nguồn khách hàng đều cuốn trôi đi mất, cho nên làm rất mệt mỏi, khiến cho không cách nào hoàn thành được mục tiêu tăng trưởng trong năm năm mà công ty đề ra. Chính điều này đã làm cho người viết muốn nghiên cứu mệnh cục và quan hệ dùng người trong cơ cấu tổ chức công ty.

Bởi vì phục vụ đơn vị là cơ quan cố vấn doanh nghiệp lớn trong nước, khi công cụ quản lý truyền thống không cách nào giải quyết được vấn đề kinh doanh của công ty thì cũng hướng ra phía ngoài nhờ giúp đỡ một số phương án giải quyết lĩnh vực ấy. Ví dụ như công cục tâm lý học nhằm phân tích tính chất đặc biệt trong nhân cách, đem con người phân chia ra các hình thái khác nhau như chim khổng tước, lão hổ (ý chỉ kẻ tham ô), chim gõ kiến … phối hợp với các đặc tính của các ngành các tổ chức như nhân sự, tài vụ, chế tạo … mà đưa ra các điều chỉnh về nhân sự, cũng có thể giải quyết tranh chấp giữa các khâu làm cho tổ chức vận hành được thông thuận, từ đó giải quyết vấn đề quản lý. Cũng từng đưa vào học thuyết “Tập quán lĩnh vực” nhằm tham khảo làm sao kích phát tiềm năng của con người, rồi lại đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng về tuổi tác thì hình thức tư duy công việc cũng theo đó mà có sự biến đổi phù hợp với thói quen của con người, diễn hóa hành vi mô thức vì thế mà truy ngược căn nguyên nhằm làm sao có được sự cải cách thay đổi về mô thức tư duy trong tinh thần tiến tới làm cho tâm trí được hoạt bát để ứng phó được với biến đổi lớn do vấn đề tuổi tác mang đến. Đương nhiên người viết đảm nhiệm chủ quản bộ phận cũng cố gắng tiếp thu những kiến thức liên quan, cũng suy nghĩ sâu sắc về sở học “Tử Vi Đẩu Số” của mình phải làm sao để có thể kết hợp đặc điểm của tổ chức cùng với sách lược lựa chọn nguồn nhân lực nhằm làm cho tổ chức vận hành được thông thuận linh hoạt, năng lực sản xuất được nâng cao. Đương nhiên xí nghiệp thì càng kiếm được tiền, dĩ nhiên là không thể tùy thích làm rối loạn công ty, trái lại còn làm nhiều vấn đề lớn xuất hiện thêm, cho nên trải qua nghiệm chứng tìm tòi khoảng bảy tám năm, có lòng tin nói rằng nó chắc chắn tốt hơn các công cụ kể trên.

Loại tình huống Kị xuất này, lúc mà đại hạn “Kị nhập” bản mệnh thì sẽ đem hiện tượng bản mệnh “Kị xuất” đại hạn càng thêm cường hóa. Bởi vậy cái cung mà tượng nhân sự vật chủ chưởng sẽ có hiện tượng “xói mòn, tổn thất, tiêu mất”, nên lúc giải thích phải đặc biệt chú ý loại hiện tượng này.

Loại hiện tượng này giống như là hiện tượng lúc mới vào sòng bạc thì người ta cho ngươi chút ngon ngọt, càng về sau lại đau đớn, cái số thắng được lúc đầu về sau cũng mất, hoặc như là vừa mới bắt đầu kiếm được chút tiền liền mở rộng đầu tư dẫn đến kết quả tiền còn chưa kiếm được thì tiền kiếm được lúc trước đó đều tổn thất một số tiền bạc lớn, này là loại hiện tượng sụt giảm nhiều, có thể nói hình thái vận đồ là “trước sướng sau khổ”, “trước dễ sau khó”.

Giả như, tiên hậu thiên bàn cục đều là “Kị xuất”, không cần nói, Hết trag111

nhất định là chiều hướng “tổn thất”, cho dù nỗ lực ra sao cố gắng thế nào thì vẫn khổ tâm không đạt được mà còn lãng phí khí lực, vẫn là bị mất đi, đây là cách cục đặc biệt không tốt. Nhưng mà có thời điểm bắt đầu lại từ đầu tuy đều không có được ngày vui, nhưng thói quen còn có thể cam lòng như lúc ban đầu, dù không như hình thái tứ hóa thuật ở phía trước, nhưng nó cũng làm cho người ta có thể rơi từ trên mây xuống dưới. Tuy loại khổ sở này với người khác khó có thể chịu đựng được, tuy không là cát nhưng chí ít nỗi thống khổ cũng được giảm tương đối thấp rồi.

Ví dụ như có người sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên cũng không nỗ lực dốc sức làm việc, suốt đời đều nghèo khổ qua ngày, hắn trái lại có thể “sống thanh bần đạo hạnh” dù bần hần vẫn tự tại, không màng danh lợi ngày sau, nhưng với hắn cảm thấy đó cũng không phải là gì xấu cả, bởi vì thói quen.

Dường  như bản mệnh bàn cục Hóa Kị còn có một loại tình huống cũng là thuộc về hàm của Kị xuất, như hình ví dụ dưới đây, cung Tài Bạch can Bính làm cho Liêm Trinh ở cung Phúc Đức hóa Kị, cung Phúc Đức là đối cung của cung Tài Bạch, nó giống như một đường thẳng đến cung vị đối diện, đặc biệt xưng là “Hóa xuất Kị”, kỳ thực hàm ý chính là cung Tài Bạch hóa

“Kị nhập” cung Phúc Đức. Cho nên tình huống đem Hóa Kị từ bản cung sở thuộc đến cung đối, toàn bộ gọi là Hóa xuất Kị, một cung nào đó có tình huống hóa Kị xuất thì cái cung sở chủ sự vật đều có hàm ý trôi đi mất, nhưng mà trôi đi chưa chắc đã là mất. Thí dụ như Tài Bạch hóa Kị nhập Điền Trạch chiều hướng là mua nhà cửa hoặc sản xuất, đối với Tài Bạch mà nói đó là “trôi đi”, đối với Điền Trạch mà nói đó là “nhận được”, chỉ là đem “động sản” chuyển hoán thành “bất động sản” mà thôi chứ “tổng tài sản” nhìn chung không có tổn thất cho nên sự xói mòn trôi đi này không lấy không cát luận, chỉ là hiện tượng “mua nhà để làm ăn sản xuất”. Giả như đổi một cung vị rơi xuống khác, ví dụ Tài Bạch hóa Kị nhập Nô Bộc, là Tài Bạch của ta trôi đến tay của bằng hữu, đương nhiên là ta tổn thất, lúc này lại lấy không cát để luận giải. Vì vậy sự được mất trong đó cần dựa theo vấn đề mà phân giải, không thể câu nệ rập khuôn theo văn tự từ nghĩa, mà là cần khán quan hệ giữa cung vị Hóa Kị được khởi phi và cung vị mà Hóa Kị rơi xuống thì mới có thể phân biệt cát hung. Lúc giải thích mệnh bàn thì cũng không thể bỏ qua tình huống như vậy.

Can Bính của cung Tài Bạch làm Liêm Trinh hóa Kị phi nhập Phúc Đức, gọi là Tài Bạch hóa xuất Kị, cũng là “Kị xuất” đại biểu tiền tài có chiều hướng trôi đi, chủ về tiền tài có tổn thất.

Trở lại khán hình 2, cung Tài Bạch hóa Kị đến Phúc Đức, cung Phúc Đức là cung vị hưởng thụ, vừa có tiền liền tìm cách thụ hưởng, có một số người ngay khi có một chút tiền rất thích dùng cho hưởng thụ, đối với người có tiền mà nói cũng không cảm thấy đau, ngược lại là loại hưởng thụ, đối với bọn họ mà nói không phải là tượng “bất cát”. Mặt khác, nếu là người kinh tế không dư dả, dùng tiền hưởng thụ sẽ đau lòng, nhưng không thụ hưởng cũng khổ, đứng giữa hai cái cũng không biết làm sao cho khéo, đương nhiên cái này đối với họ mà nói loại mong muốn nhưng bị dằn vặt này chính là “bất cát”. Cho nên loại mệnh cục này nên đi làm văn phòng hưởng lương, ta cũng kiến nghị họ nên có dự trữ, cho dù là cất giữ ký gửi hay là mua vàng đều có thể, bắt buộc bản thân dự trữ, mà một số ông chủ hoặc người có tiền thì sao? Chỉ cần lúc làm ông chủ không mang tiền đi tiêu hoang là tốt rồi, ví dụ như những nơi phong hoa tuyết nguyệt vừa nhìn thấy khách hàng tới cửa đều gọi “ông chủ” này, “ông chủ” kia,

ung dung phục vụ cho lâng lâng, và một số người đang mất rất nhiều tiền hoặc bị lừa gạt khi thưởng thức loại hình hưởng thụ vô ích này. Ví dụ loại như thế này rất nhiều, cho nên người có tiền mà có loại mệnh cục này nên cảnh giác loại hình hưởng thụ hư ảo này.

Đại hạn bàn

Hóa Kị của đại hạn bàn cục sẽ cùng tứ hoá năm sinh và tứ hóa của Bản mệnh bàn cục sản sinh tác dụng mà khiến cho có chút biến hóa làm cho hiệu ứng hóa được tăng cường hoặc yếu đi. Góc độ hình thành của Hóa Kị bản mệnh và Hóa Kị đại hạn đều có “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” … những cái này đều sẽ vì cường hóa tác dụng của Kị tinh mà dẫn khởi hiệu ứng cát hung. Giả như không có hình thành các góc độ đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu” thì cũng sẽ không sản sinh cường hóa tác dụng của Kị tinh khiến cho sự kiện phát sinh. Tuy nói là như thế, nhưng mà những khốn đốn hoặc ngăn trở “nhỏ” sẽ vẫn có, bởi vì uy lực của một viên tinh tương đối nhỏ, vẫn chưa tới mức khiến cho người ta đau lòng lưu lại ấn tượng sâu sắc. Vì thế người thường cũng sẽ không quá lưu tâm đến nó, nhưng với đồng hữu có lòng học tập mệnh lý thì lại lưu tâm suy đoán lĩnh hội, còn là có thể cảm nhận được uy lực hiệu ứng của “đơn Kị”.

Muốn ứng dụng tứ hóa luận mệnh thì trước tiên phải có quan niệm về “có tác dụng trong thời gian định tính” của tứ hóa, tứ hóa của bản mệnh sẽ phát sinh hiệu ứng trong suốt cuộc đời, tứ hóa của đại hạn chỉ có phát sinh lực tác dụng trong đại hạn đó, nếu qua khỏi đại hạn thì cũng mất đi lực tác dụng ấy. Tương tự đối với lưu niên cũng chỉ có phát sinh tác dụng trong năm đó, một khi qua cái năm đó thì lực ảnh hưởng của tứ hóa lưu niên cũng mất.

Ví dụ như mệnh lệ sinh năm Tân Mão này, cung Phu Thê có Can là Kỷ làm Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền, Văn Khúc hóa Kị nhập cung Mệnh, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Mệnh đại biểu phu thê bất lợi đối với ta, viên tinh này hiệu lực vẫn tồn tại, nó có làm cho đương sự cảm thấy được hay không? Chưa chắc đã cảm thấy được bởi vì nó chỉ là tác dụng loáng thoáng mà thôi, nếu không có sát tinh phối hợp, giống như là chẳng cảm nhận được gì, nó cần đại hạn phối hợp để dẫn phát hung tính của nó, đại hạn phải như thế nào để phối hợp dẫn phát đây? Lúc này sẽ quan sát Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn có hình thành góc độ đặc thù nào đó với Hóa Kị tinh của cung Phu Thê bản mệnh ở trong cung Mệnh hay không, nếu có sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung; còn nếu không có hình thành các góc độ đặc thù thì cũng sẽ không có xuất hiện phản ứng cát hung.

Giả như bàn cục của ví dụ này, đại hạn đi ngược chiều đồng hồ, lúc cung Mệnh đại hạn tiến nhập cung Tử Nữ thì cung Tật Ách [Bính Thân] liền trở thành cung Phu Thê của đại hạn, Can cung là Bính làm cho Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Tài Bạch ở Dậu, mà cung Phu Thê tiên thiên phi Văn Khúc Kị nhập cung Mệnh ở Sửu, mà Tị Sửu là tam hợp, cho nên Văn Khúc hóa Kị của cung Sửu cùng với Liêm Trinh hóa Kị của cung Dậu hình thành “Tam hợp Kị” Tị Dậu Sửu. Lúc này Hóa Kị của cung Phu Thê của đại hạn với tiên thiên sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung tương đối mãnh liệt, bởi vì là Hóa Kị tinh ngầm dấy lên, nên là hiện ra phản ứng có tính hung.

Mọi người có thể sẽ hỏi rằng, cung Mệnh với cung Tài Bạch chẳng phải đều là ngã cung hay sao? Tại sao tha cung hóa nhập ngã cung lại là hung, muốn trả lời vấn đề này mọi người trước tiên phải hiểu nguyên nhân dẫn tới thất bại hôn nhân là cái nào, thất nghiệp không có tiền tài thu nhập liệu vợ chồng có tranh cãi ầm ĩ thậm chí ly hôn hay không? Tiền tài do cung Tài Bạch chủ chưởng mà, hơn nữa mọi người cũng gọi cung Phu Thê là cung vị đối đãi của vợ chồng mà! Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch, chính là ám chỉ quan hệ đối đaiã của vợ chồng không được tốt đẹp lắm, nguyên nhân dẫn tới không êm thấm là do liên quan tới tiền bạc, cho nên mặc dù là “tha cung hóa nhập ngã cung” cũng không luận cát được. Trước đây từng nghe người ta nói rằng “Kị nhập” là đạt được, cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Tài Bạch hàm ý chỉ “sau khi kết hôn kiếm được tiền hoặc được tiền tài nhờ phối ngẫu”, đại khái cũng có thể là vì như vậy, kết quả sau kết hôn mới phát hiện phối ngẫu chỉ là tốt đẹp ở bề ngoài thôi, không có chút tiền là quan hệ đối đãi của vợ chồng lại xảy ra vấn đề. Đây chính là hiện tượng “chờ mong càng cao thất vọng càng sâu”, với người thứ ba mà nói không chừng phối ngẫu hắn đúng là có tiền thật, do đó kiểu phương thức phi hóa “Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch” này nếu không có chút tài sản làm căn cơ có lẽ không nên mơ mộng “Điếu kim quy”, “Đương thừa long khoái tế” (LC chú: ý hai câu này chỉ không nên mơ mộng kiểu câu rùa đá, ngồi ngai rồng tuyển rể hiền), một khi gặp phải biến động về tiền bạc, thường thường hôn nhân dễ bắt đầu xảy ra điềm xấu. Nói đến đây nghĩ đến có người thường nói : Đẩu Số dễ học khó tinh thông, mấu chốt nằm chính ở chỗ không phân rõ được về các tình huống rủi ro của con người, tưởng là quy tắc của Tử Vi Đẩu Số nhất thể sử dụng, không cần phân lục thân cung hoặc các cung vật chất như tiền tài, điền sản là có khác nhau, cho nên mới dẫn đến dễ phán đoán lầm. Vì thế khi giải đoán cát với hung cần suy tính sự khác nhau về tính chất của cung vị mà có những chỉnh sửa cho hợp lý.

Còn như phải suy tính thế nào để biết năm nào sẽ phát sinh chuyện? Thì từng năm từng năm mà tra xem ứng nghiệm ở lưu niên nào, trọng điểm suy đoán có mấy điểm cần nắm như dưới đây:

Năm nào cung Mệnh lưu niên bị Hóa Kị của góc độ đặc thù xung đến? Hoặc cung Mệnh lưu niên có Hóa Kị của góc độ đặc thù tọa?

Năm nào cung Mệnh lưu niên có sát tinh tụ tập thành đàn?

Năm nào cung Phu Thê lưu niên có sát tinh hội tụ thành đàn?

Năm nào lưu niên tiến nhập vị trí trong tam phương có Hóa Kị tinh của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh, lúc này lấy Hóa Kị tinh tọa Phu Thê bản mệnh là nghiêm trọng nhất, lưu niên bị xung đến là kế đó, tiếp tục quan sát tổ hợp sao của cung Phu Thê năm này có sát tinh tụ tập thành đàn hay không?

Liền có thể biết được một năm nào sẽ xảy ra chuyện, giả như suy đoán ra được lưu niên xảy ra chuyện nhưng mà cái năm ấy đã thoát ra khỏi phạm vi của đại hạn thì cái ảnh hưởng của Kị tinh do góc độ đặc thù cũng sẽ theo đại hạn mà di chuyển tiêu biến, làm cho hung tính cũng sẽ không sản sinh ở lưu niên ấy.

Căn cứ bí quyết thuật phía trước chúng ta tiến tới cân nhắc xem xét xem năm nào phát sinh chuyện ở thí dụ này:

  • Năm 35 tuổi, vừa khéo trùng điệp với cung Mệnh nguyên cục, mà cung Mệnh lưu niên có Văn Khúc Kị của cung Phu Thê hóa đến tọa, tam phương còn có Liêm Trinh Kị của cung Phu Thê đại hạn hội nhập hình thành góc độ đặc thù là tam hợp. Hơn nữa cung

Phu Thê đại hạn phi một viên Liêm Trinh Kị tiến nhập cung Tài Bạch, cung Tài Bạch là cung vị đối đãi của Phu Thê, dùng để so sánh quan hệ đối đãi tốt xấu của vợ chồng trong đó. Bởi vậy năm này phu thê đối đãi sẽ có “hung tướng” xuất hiện, mức độ nghiêm trọng thì như thế nào đây? Bởi vì cung Phu Thê nguyên cục hóa Vũ Khúc Lộc, Tham Lang Quyền nhập cung Mệnh (cung Mệnh lưu niên), Lộc chủ tình duyên, Quyền chủ ước thúc, đại biểu năm này tuy là có xung đột nhưng tình cảm vợ chồng vẫn còn sâu, không đến mức nghiêm trọng không thèm nể mặt nhau.

Tiếp tục khán năm 36 tuổi: tuy rằng cung Phu Thê lưu niên có Thiên Đồng tự hóa Kị,

Lưu niên bàn xem năm phát sinh chuyện

nhưng mà còn có Thái Âm tự hóa Khoa, Khoa có khả năng hóa giải Kị . Cung Mệnh lưu niên tọa Lộc Quyền, lại không cùng Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn với bản mệnh hình thành góc độ tam hợp, nên là không đến nỗi sinh sự.

Năm 37 tuổi thì sao? Cung Mệnh lưu niên bị Liêm Trinh hóa Kị của cung Phu Thê xung đến, mà cung Phu Thê lưu niên lại có Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh, mà cung Phu Thê lưu niên tụa hóa Văn Xương Kị, năm này sự tình tương đối nghiêm trọng. Tự hóa Kị cóhàm ý “xong hết mọi chuyện, cùng lắm thì mặc kệ, không đếm xỉa đến nữa”, năm này là có chút dòng suy nghĩ xung kích muốn giải quyết triệt để, cho nên là một năm rất nghiêm trọng. Lại tiếp tục kiểm tra từng năm từng năm thì có thể phát hiện năm 41 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này cũng rất có khả năng, nhưng là năm nào sẽ xảy ra chuyện? Sẽ truy ngược từng năm so sánh xem giữa các năm có thể xảy ra chuyện thì năm nào phát sinh sự nghiêm trọng nhất thì lấy đó là năm xảy ra chuyện, tỷ dụ như ví dụ này thì năm 37 tuổi là nghiêm trọng nhất, cho nên năm này quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng phải đặc biệt cẩn thận kẻo sinh biến.

Vậy còn các lưu niên sau năm 45 tuổi thì sao? Bởi vì tuổi tác khi ấy đã chuyển sang đại hạn kế tiếp (45 ~ 54 tuổi), cho nên nhất định phải trước khán Hóa Kị của cung Phu Thê đại hạn đó, xem hình thành góc độ cát hung với Hóa Kị của cung Phu Thê bản mệnh như thế nào; rồi tiếp đến cân nhắc cát hung lưu niên, nếu không có hình thành góc độ đặc thù gì thì cát hung lưu niên chỉ là tiểu thị phi, tranh cãi nhỏ mà thôi, quan hệ đối đãi giữa vợ chồng ở mệnh cục tiên thiên sẽ không sản sinh ảnh hưởng.

Bởi vậy, Hóa Kị của Mệnh với Hạn ngoại trừ phải hình thành góc độ vật lý đặc thù như “đồng cung, tam hợp, hội chiếu”sẽ sản sinh tác dụng cường hóa lực của Hóa Kị tinh để làm cho sự kiện phát sinh ra thì lúc giải thích cần phải so sánh quan hệ mà cung vị sở chủ ý tượng và nhân tình sự cố, nhằm sử dụng từ ngữ phù hợp với tình hình cát hung, không thể chỉ có khái niệm mang tính chung chung như “tha cung hóa nhập ngã cung là cát” hay là “ngã cung hóa nhập tha cung là hung” để giải thích cát hung mà cung nhân sự hoặc vật chất sở chủ, đây là quan niệm cơ bản mà người mới học cần phải nắm rõ.

Cũng bởi là đàm luận vấn đề góc độ Hóa Kị mệnh hạn hình thành, cho nên không bàn vấn đề cách cục với tinh tính của mệnh với đại hạn, thế nhưng lúc ứng dụng thực tế thì hai cái này là tham số tham khảo rất trọng yếu mới sẽ không bỏ sót.

Muốn suy đoán lưu niên cần luyện tập nhiều hơn, nghiên cứu nhiều ví dụ thực tế mới có thể vận dụng được thuần thục, nhưng cũng như phía trước đã nói, vẫn cần cẩn thận kiên trì suy xét đánh giá từng năm.

*Tiểu Hạn –Dùng Để Tham Khảo

Có người hỏi: “Có nói tới đại hạn vì sao không có đàm luận tiểu hạn vậy?” Đây là vấn đề thường nhìn thấy, chúng ta có thể đem sự kiện chia làm hai loại là “nội phát” và “ngoại lai”. Ví dụ như tai nạn xe cộ do người khác lái xe tới đụng vào là thuộc sự kiện của “ngoại lai”, nhưng mà bản thân say rượu lái xe mà phát sinh tai nạn xe cộ hoặc là tai nạn xe cộ ở trên đường cao tốc do uống rượu say là thuộc sự kiện có tính “nội phát”. Hai loại sự kiện như này dấu hiệu hiện lên trên mệnh bàn có tương đồng hay không? Chúng ta thường hay gặp người khác hỏi “Năm nay tiểu hạn tốt không?” Tiểu hạn là kết quả của các hành động khác nhau mà bản thân đã thực hiện trước đó, hiển tượng thành sự kiện, đây là kết quả của nghiệp chướng mà nên, đương nhiên có xấu có tốt rồi! Giống như hiện tượng tai nạn xe cộ được mô tả phía trên, mà “lưu niên” thì là tác động ngoại lai để sự kiện tạo thành, ví dụ như tượng loại tai nạn xe cộ đầu tiên đã thuật ở trên thì chỉ sợ bản thân có thể tránh nó và biết sẽ tai nạn ở nơi nào không? Cho nên, những người theo cách luận tiểu hạn ủng hộ loại lập luận này và vẫn chủ trương tiểu hạn cũng có công hiệu sử dụng.

Người mới học có thể khảo nghiệm nhiều mặt xem các luận điểm có được thiết lập hay không, thu thập nhiều các trường hợp cụ thể để xác minh nghiệm chứng xem có thể thiết lập “luận pháp tiểu hạn” hay là không.

Cung Mệnh lưu niên đang ở đâu vậy? Như năm nay là năm Ất Sửu thì cung Mệnh lưu niên ở cung Sửu, giản đơn minh bạch, thế còn “tiểu hạn” thì ở đâu? Là theo quy tắc dưới đây từ “Địa Chi của năm sinh” để quyết định, khởi pháp như sau:

  • Năm Dần, Ngọ, Tuất: lấy “Thìn” khởi 1 tuổi
  • Năm Thân, Tý, Thìn: lấy “Tuất” khởi 1 tuổi
  • Năm Hợi, Mão, Mùi: lấy “Sửu” khởi 1 tuổi
  • Năm Tị, Dậu, Sửu: lấy “Mùi” khởi 1 tuổi1

Khẩu quyết khởi tiểu hạn:

Tiểu hạn nhất niên nhất độ phùng; Nam thuận nữ nghịch bất tương đồng

Dần Ngọ Tuất nhân Thìn Thượng khởi; Thân Tý Thìn nhân tự Tuất cung

Tỵ Dậu Sửu nhân Mùi cung thủy; Hợi Mão Mùi nhân khởi Sửu cung

Nghĩa là:

Tiểu hạn mỗi năm chuyển một cung; Nam thuận nữ nghịch chẳng giống nhau

Năm Dần Ngọ Tuất : Thìn thứ nhất ; Năm Thân Tý Thìn : Tuất làm đầu

Năm Tỵ Dậu Sửu : Mùi đếm trước ; Năm Hợi Mão Mùi : từ Sửu cung

Tiểu hạn là một trong ba cung quan trọng dùng để xem vận hạn hàng năm (2 cung khác là Đại hạn và Lưu niên đại vận) mà Nam phái thường sử dụng.

Quan Lộc đại hạn

Sau đó, tiếp tục phân chia nam nữ, giới tính nam thuận kim đồng hồ chuyển, như người nam mà sinh năm Dần thì 2 tuổi là Tị, 3 tuổi là Ngọ; giới tính nữ nghịch kim đồng hồ chuyển, như nữ nhân sinh năm Dần thì 2 tuổi ở Sửu, 3 tuổi ở Tý.

Như ví dụ trên, nam sinh năm Mão, tiểu hạn từ cung Sửu khởi 1 tuổi, thuận kim đồng hồ chuyển động, cho nên đem số tuổi tiểu hạn của Tử Nữ đại hạn đánh dấu ở trên mệnh bàn, mọi người có thể đối chiếu với lưu niên bàn. (LC chú: chỗ này dịch nguyên văn, cần hiểu đây là tác giả nói đại hạn đang ở cung Tử Nữ nguyên cục)

Còn như làm sao sử dụng tiểu hạn đây? Có thể nói giản đơn như sau:

  • Trước tiên, đem hạn Lộc Tồn, hạn Kình Dương, hạn Đà La bài nhập mệnh bàn, ví dụ như mệnh tạo ở ví dụ này cung Mệnh đại hạn ở cung Tử nữ, mà Can cung là Mậu thì Lộc Tồn nhập Tị cung, Kình Dương nhập Ngọ cung, Đà La nhập Thìn cung (trong mệnh bàn dùng khung vuông ghi chú rõ rồi – LC chú: tác giả dùng khung vuông ghi chú nhưng chúng ta dùng kí hiệu nào đánh dấu thì tùy mỗi người).
  • Tiếp tục đem đại hạn chuyển hoán bắt đầu lại từ đầu theo Ngũ hổ độn, đem cung Can điền nhập các cung, ví dụ như Mậu hạn thì Thiên can là Canh, một lần nữa lấy Can Mậu của cung Mệnh đại hạn dùng Ngũ hổ độn Dần thủ. Bởi vậy Dần thủ Thiên can là Giáp, y theo thứ tự đem Thiên can điền nhập vào các cung, (trong mệnh bàn có dùng ghi chú bằng khung vuông), đây là phương thức rất đặc thù phải nhớ kĩ sau khi đại hạn chuyển hoán mới sử dụng Thiên can Dần thủ mới để phi tứ hóa.

Đại hạn bàn nhưng dùng Can năm sinh khởi Thiên can của Ngũ hổ độn, còn Tiểu hạn thì sao? Thì một lần nữa sử dụng Thiên can các cung khởi Ngũ hổ độn, từ chỗ rơi cung vị khi phi tứ hóa tiến nhập đại hạn mệnh bàn xem có hình thành các góc độ đặc thù gì không? Rồi quyết định mức độ cát hung hiện tượng sự vật.

Còn về việc phải dùng cung vị nào để phi tứ hóa? Trong rất nhiều sách thường chỉ viết dùng cung Mệnh đại hạn hoặc cung Mệnh tiểu hạn để phi tứ hóa mà thôi, thế nhưng chúng ta mỗi ngày đối mặt với rất nhiều các loại sự việc khác nhau như là gia đình, sựn nghiệp, vợ chồng, con cái … từng khía cạnh đều có các hiện tượng với mức độ cát hung khác nhau, lẽ nào đều là chỉ lấy mỗi cái cung Mệnh ấy đại biểu toàn bộ? Cho nên là không thể nào, cần phải phân ra các sự vật khác nhau để định ra các cung chủ chưởng sự vật khác nhau nhằm phi tứ hóa để tìm cát hung mới đúng.

Bởi vậy, lúc xem cung chủ sự của đại hạn phi tứ hóa có cùng hình thành các góc độ hiệu ứng cát hung với cung chủ sự của tiểu hạn hay không, tới phán đoán cát hung,

Tứ hóa của cung Phu Thê đại hạn phi xuất thì dùng hình tứ giác vuông điền nhập vào trong mệnh bàn:

  • Thái Dương hóa Lộc nhập Phụ mẫu
  • Vũ Khúc hóa Quyền nhập cung Mệnh
  • Thái Âm hóa Khoa nhập Huynh Đệ
  • Thiên Đồng hóa Kị nhập Huynh Đệ

Đại hạn Phu Thê hóa Thái Dương Lộc ở Quan Lộc đại hạn là hiện tượng “Lộc xuất”, biểu thị duyên phận vợ chồng có sự xa cách, mà Thái Âm Khoa và Thiên Đồng Kị xung đến Tài Bạch của đại hạn cho thấy mối quan hệ đối đãi giữa hai vợ chồng kém đi, tình cảm trở nên không nồng ấm, đương nhiên quan hệ hôn nhân sẽ dễ sinh biến hóa, là năm nào đây?

Kết quả vừa nhìn, cung Mệnh đại hạn bị sát tinh Kình Dương, Đà La từ tam phương tới hội tụ gây trắc trở, cung vị đối đãi của đại hạn lại bị Thiên Đồng Kị xung kích. Tiểu hạn năm 37 tuổi tọa vào đúng vị trí Kị của Phu Thê tiên thiên bay tới, mà cung Phu Thê tiểu hạn năm 39 tuổi có Văn Khúc Kị tinh của Phu Thê tiên thiên hóa nhập, hai cái niên hạn này đều phải chú ý. Tiếp tục sẽ dùng Phu Thê của tiểu hạn để phi bố tứ hóa xem xét (dùng Thiên can Dần thủ mới khởi), cung Phu Thê tiểu hạn năm 37 tuổi ở Hợi có Can là Quý : Tham Lang hóa Kị nhập cung Mệnh, bởi vậy có thể thấy năm này quan hệ đối đãi giữa vợ chồng có chuyển biến xấu. Năm 39 tuổi thì cung Phu Thê tiểu hạn ở Sửu có Can là Ất : Thái Âm hóa Kị, mà Thái Âm lại chủ phái nữ, chủ vợ hoặc con gái, hiện tại người này là nam mệnh luận hôn nhân đương nhiên là lấy chuyện vợ con để xem. Nếu Thái Âm tinh hóa Kị, quan hệ với vợ tất nhiên chuyển biến xấu, cho nên năm 39 tuổi quan hệ vợ chồng thay đổi theo hướng xấu, hơn nữa Thái Âm hóa Kị thì vợ không muốn nhân nhường nữa, không im hơi lặng tiếng hay uyển chuyển để tìm cầu toàn mà sẽ làm cho phu thê rùm beng. Hơn nữa đồng thời còn có Kình Dương và Đà La của đại hạn càng tăng sự soi xét, liệu nó có đến mức nối giáo cho giặc không, như ví dụ này thì may là không có hình thành góc độ đặc thù ở cung Mệnh với cung Phu Thê của niên tuế, nên là hung lực gây họa không quá lớn.

Bởi vậy, tiểu hạn là cách luận có thể phụ trợ cho lưu niên, khi hai cái này đều hiển hiện hiện tượng nào đó một cách đột hiển thì cái năm này phải đặc biệt coi chừng.

Còn có một số người không phải là dùng tứ hóa mà là dùng “lưu niên tướng tiền chư tinh” để suy đoán sự vật sự việc của lưu niên, có thực có chuyện này hay không? Ta chưa từng thực nghiệm, mọi người có thể đi nghiệm chứng khảo nghiệm, lúc rảnh rỗi có thể viết chuyên thư tới thảo luận, bởi vì chỉ thấy có người nói điểm chút tới mà chưa thấy ai phán đoán suy luận sự kiện tỉ mỉ kỹ càng bằng “lưu niên tướng tiền chư tinh” cả. Vì thế ta suy đoán đây là “hư chiêu” dẫn dụ người vào phương hướng nghiên cứu lầm lối, nếu ta suy đoán sai xin được hoan nghênh chỉ điểm ra chỗ sai.

Cá nhân có cần dùng tiểu hạn như thói quen không, bởi vì y theo trình tự suy lý “Tại Thiên thùy tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự”, nếu lưu niên bàn hoặc tiểu hạn bàn là mắt xích cuối cùng, thừa thụ thùy tượng của tiên thiên mệnh bàn với đại hạn bàn để sự vật thành hình thì hẳn là tượng sự vật cũng sẽ có sự tương đồng. Bởi thế cá nhân người viết để đơn giản hóa trình tự, tránh cho phải điền nhập quá nhiều thứ làm rối hình lá số, không biết làm sao để nắm bắt mà nói cho nên là chỉ dùng lưu niên mà thôi.

(Tử vi mệnh vận phân tích thực lệ – Từ Tăng Sinh. Linh Chi biên dịch)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button