Tử vi

Tuế hạn kinh nghiệm phán đoán suy luận

△ một, đấu phân

Đi hạn phân nam Bắc Đẩu, dương nam Âm nữ và người phương nam lấy Nam Đẩu tinh là phúc, trọng điểm xem Nam Đẩu tinh, gặp nam sát tai nhẹ, gặp bắc sát tai nặng; âm nam dương nữ và người phương bắc lấy Bắc Đẩu tinh là phúc, trọng điểm xem Bắc Đẩu tinh, gặp bắc sát tai nhẹ, gặp nam sát tai nặng. Đại nạn năm năm đầu lấy Bắc Đẩu tinh làm chủ, năm năm sau lấy Nam Đẩu tinh làm chủ, trung thiên tinh mười năm đều quản. Tiểu hạn nửa năm đầu lấy Bắc Đẩu tinh làm chủ, sáu tháng cuối năm lấy Nam Đẩu tinh làm chủ, trung thiên tinh một năm đều quản. Đấu quân nửa tháng đầu ứng Bắc Đẩu tinh, nửa tháng sau ứng Nam Đẩu tinh.

△ hai, tuế hạn kinh nghiệm phán đoán suy luận chú giải

◇ “Mệnh thực vận kiên, ruộng lúa được mưa; mệnh suy hạn yếu, cỏ non bị sương”: Tức cung Mệnh Thân tốt, tuế hạn cũng tốt, phúc tự nhiên tới. Như mạng cư hãm địa, lại có tứ phía cát ủi, cũng luận là phúc. Lại như mệnh cư hung địa, vận gặp ác sát, tức là cỏ non bị sương, tất chủ tai hối.

◇ ” Tiên phú hậu bần, chích vi vận phùng kiếp sát “: Như trong Mệnh Thân chính tinh miếu vượng lại có cát ủi, thiếu niên luận cát hạn, đi hạn đến tuổi già sau gặp Không Kiếp sát tinh lại kiêm gặp tuyệt địa, thì tiên phú hậu bần.

◇ ” Vận suy hạn suy hỉ tử vi lai giải hung ác “: Đại tiểu hạn không gặp cát tinh, mà thân mệnh có Tử Vi thủ chiếu, thì hạn mặc dù hung mà bình ổn.

◇ ” “Điếu khách tang môn, lục châu hữu trụy lâu chi ách “: Đại tiểu hạn, gặp trước có Tang môn, sau có Điếu khách, Thái Tuế gặp hung tinh, tất có mạo hiểm. (bản cung hung luận như vậy, bản cung cát không sao).

◇ ” Hạn chí thiên la địa võng, khuất nguyên nịch thủy nhi vong”: Nhị hạn đi tới Thìn Tuất hai cung, gặp Vũ khúc Tham Lang, lại có Thái Tuế, Tang môn, Bạch Hổ,

Không Kiếp, Tứ Sát, hoặc gặp một trong số đó xung chiếu, hạn hung nhất. (gặp may mới bắt đầu cho đến vận cuối năm gặp tai).

◇ ” Vận ngộ Không Kiếp, tắc hữu bần khốn chi khổ”: Nhị hạn gặp kiếp không, dù nhiều cát, cũng Tài đến Tài đi, nếu gặp lưu niên sát tinh hung diệu, định chủ nghèo khó. Hạn vận gặp Không Kiếp Đại Hao Phá Toái đều chủ tổn hại bại nghiệp. (như mạng cung cát, chỉ chủ lưu niên này khó khăn, qua thì tốt).

◇ ” Mệnh không hạn không vô cát thấu, công danh thặng đặng”: Nếu mạng hạn đều gặp Không Kiếp Tứ Sát, công danh tất không thể liền. Hoặc tuy có chính tinh cát hóa, gặp Không Kiếp hạn năm, cũng chủ đèn đuốc vất vả cần cù, không được.

◇ ” Thạch sùng hào phú, hạn hành kiếp địa nhi vong gia”: Đại tiểu hạn lâm hãm lại gặp Không Kiếp, càng gặp lưu đà các loại, tất phá tán.

◇ “Nhan về chết yểu, Văn Xương rơi vào Thiên Thương “: Như người sinh năm

Sửu, an mệnh Dần cung, gặp Văn Xương và Thiên Thương cùng nhập vào Mùi cung.

Nhưng nhất định phải chờ lưu niên lại gặp Thất Sát và Kình Đà trùng lặp, như thế phán đoán. Tiểu hạn gặp Thương, Sứu, lưu Kình, Hóa Kị tại đúng cung, là năm tất hung.

◇ “Cự môn kỵ tinh đô bất cát, vận thân mệnh hạn kỵ tương phùng. Canh kiêm thái tuế Quan Phù chí, khẩu thiệt thị phi quyết bất không”: Hóa Kị, Cự môn nhị tinh là thần đa quản, mười hai cung, nhị hạn gặp, đều chủ không tốt; Cự môn vốn thị phi cát tinh, hãm hóa cát cũng chủ không tốt. Thái Tuế Quan Phù nhị tinh, vốn là thần hưng tụng, mà Cự môn là sao thị phi, lại thêm Hóa Kị cùng lâm, thị phi cãi vã tất khó tránh khỏi.

◇ “”Điếu khách Tang Môn hựu tương phùng, định giáo tai bệnh lưỡng tương công”: Điếu khách Tang Môn nhị tinh, bản chủ hình hiếu, nhưng không gặp Thất Sát, Kình Đà, chỉ là bệnh tai mà thôi. Nếu là thêm gặp Thất Sát, Kình Đà, Hóa Kị, thì tử tang sự tình khó tránh khỏi.

◇ “Quan Phù giáp hình sát vu thiên di, ly hương tao phối”: Nếu lưu niên Quan Phù và đương sinh Quan Phù kẹp hình sát tại cung Thiên di, lại gặp Thái Tuế tiểu hạn đến đây, ắt gặp biếm phối, xa quê.

△ ba, tuế hạn hỉ kị

1, năm sinh kị chạy nhị hạn và lưu niên:

Chú thích: Lấy địa chi năm sinm làm chuẩn để an, gặp địa chi chủ tai hối hận, kiện cáo, có tang, mất cướp, phá tài, hình tổn thương, tử vong, lại gặp tam phương tứ chính và Thái Tuế hung thần, tất gây tai họa. Ví dụ như người sinh năm Tý, phải tránh đại tiểu hạn nhập Dần Thân cung và Dần Thân lưu niên, lại kị gặp Ngọ lưu niên tương xung, đều tai vạ nặng. Nếu cung hung, tam phương tứ chính cung gặp sát, đại hung.

2, tuế hạn hỉ hành cung độ

Người Hỏa cục hỉ đi Dần Ngọ Tị, người kim cục người hỉ Tị Dậu Thân, người mộc cục hỉ Hợi Dần Mão, người thủy cục hỉ Thân Tý Thìn, người thổ cục hỉ Thân Mùi Tuất. (chú thích: Bên trên là đại tiểu hạn đều là hỉ hành chi địa, đại tiểu hạn nhập những cung độ này thì cát, nhưng cũng cung đó được trường sinh, đế vượng, lâm Quan, quan đái là phải tính; gặp mộ tuyệt tử suy bệnh là ngược, dù cho gặp cát cũng vô dụng).

3, hạn đi ngược: Hỏa hành Tuất Hợi là hung, Kim hành Sửu Dần có hại, mộc đến Thân Dậu không tường an, thuỷ thổ Thìn Tị sẽ suy. (chú thích: Đại tiểu hạn gặp cung ngược, lại gặp mộ tuyệt tử suy bệnh và ác diệu, ứng nghiệm.)

4, Ngũ Hành cục kị hành cung: Kim cục gặp Tý mệnh là tổn thương, mộc cục gặp Ngọ có tai hoạ, thủy gặp Sửu Dần ứng trục trặc, thổ cục chớ gặp Mão Thìn Tị, hỏa cục gặp Dậu họa tiến đến, cần phòng máu mủ và kinh hoảng, dù cho cát tinh đến chiếu, cũng có kiện cáo thị phi.

△ bốn, lưu niên một chút kinh nghiệm

1, Mệnh Thân cung chủ tinh thất hãm (cát thì bất lực, hung thì càng hung), lại gặp hao tổn nhiều đại ác sát thủ chiếu, nhị hạn hung thì hung tượng. Lại gặp lưu niên lưu kình lưu đà hoặc Thất Sát trùng phùng, là dữ nhiều lành ít; lại thêm lưu niên Thái Tuế Tang Môn điếu khắc Bạch Hổ lâm tại Mệnh Thân cùng tam phương tứ chính, càng là đã rét vì tuyết lại lạnh vì sương; lại gặp Thiên Thương thiên khốc thủ hoặc kẹp, đoán có khả năng tử vong. Đại tiểu nhị hạn, Thái Tuế trùng điệp, hoặc gặp thời điểm giao tiếp cát hạn và hung hạn, lại Thái Tuế, tiểu hạn đều hung cũng rất hung. Bệnh phù thêm hung sát tinh thủ chiếu Mệnh Thân, nhị hạn lâm, lại thêm thương sứ cùng thủ hoặc kẹp, cũng hung.

2, sinh vượng phát tới mộ tuyệt dừng lại, mộ tuyệt phát tới sinh vượng cuối cùng: Mệnh cung tại cung sinh vượng, kị đi hạn niên mộ tuyệt; mệnh cung gặp cung mộ tuyệt, kị đi niên hạn sinh vượng.

3, thiên la địa võng nhập Hỏa xà (tức hỏa đà nhị tinh nhập Thìn Tuất cung), nhị hạn gặp thì nhiều tai hoạ, nếu chủ tinh trong mệnh yếu, hồn phách gặp Diêm Vương.

4, đảo hạn: Nhị hạn Thái Tuế cung Đại Hao (Đại tiểu hạn Thái Tuế và Đại Hao cùng cung), lại thêm lộc ngược lại là hung (Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn gặp bại gặp Không Kiếp, triệt, tuần không, Đại Hao thủ chiếu là đảo lộc, không phải bạo bại thì là sinh mệnh hấp hối; Thiên Mã gặp là đảo mã cũng vậy).

5, cự liêm Không Kiếp Hỏa Linh vị, nhị hạn đều đến không nên lâm, tham phá liêm sát đa hình, tam phương thủ chiếu là hung.

Chú thích: Cự, liêm thêm Không Kiếp Hỏa Linh, đại tiểu hạn đến cung này, có hình khắc tai ương, tam phương lại thấy tham phá liêm sát, lão nhân trẻ nhỏ tối kỵ đi hung địa, thanh niên gặp cũng lo. Đồng tử hạn như phao trên nước, lão nhân hạn như ánh đèn trong gió, gặp sát kị mà không có chế nhiều hung.

6, lưu niên ác sát chiếu hạn: Xem ác sát, Tam Sát tam hợp xung, Thái Tuế, Bạch Hổ, bệnh phù, tử phù chiếu hạn, cửu tử nhất sinh. (chú thích: Nếu tiểu hạn ở cung Mão, cung đó có thất hãm ác sát, lưu niên Thái Tuế lại trị cung đó, chủ tiểu hạn này không tốt, nếu tam hợp phương Hợi cung, Mùi cung và đối cung có ác sát xung chiếu, chủ tiểu hạn này tất hung; lại như cung tiểu hạn và tam phương tứ chính đều gặp Bạch Hổ, bệnh phù, tử phù, Thái Tuế, chủ có sinh tử nguy hiểm; nếu tiểu hạn lại rơi vào cung đại nạn, nhị hạn trùng phùng, càng hung, sinh cơ xa vời.)(chú thích: Tử phù tức tiểu hao). Gặp hung sát hỉ gặp không vong, có thể phản hung là cát.

7, Thái Tuế nhập mệnh cung, gọi là Thái Tuế đương đầu, không cát chính là hung. Thái Tuế toại mệnh, bản cung và tam phương tứ chính có cát tinh thủ chiếu, là chủ Phúc Lộc. Nếu gặp sát tinh thủ chiếu, tất nhiên hung ác, nhất là rơi vào cung Thìn Tuất càng hung, nhẹ thì phá tài bại nghiệp, nặng thì mất mạng.

Đại tiểu hạn và Thái Tuế trùng điệp tại Mệnh Thân, cát thì càng cát, hung thì càng hung. Trùng điệp cung khác cũng vậy.

8, gặp đại nạn, tiểu hạn, lưu niên Thái Tuế đều hung, thì rất hung. Đại tiểu hạn hung, Thái Tuế cát là có thể cứu, không đến mức tử; đại nạn Thái Tuế hung mà tiểu hạn cát cũng là có thể cứu.

9, đại tiểu hạn đến đất trường sinh đế vượng lâm quan chủ cát, gặp cát càng cát, gặp hung giảm hung; gặp đất tử mộ tuyệt mộc dục chủ hung.

10, phàm đi hạn đến cung Dần Thân Kỷ Hợi Tý Ngọ, gặp Tử Phủ Nhật Nguyệt Xương Khúc Thiên đồng Lộc Tồn Hóa Lộc cát tinh, chủ thịnh vượng, sinh sôi nảy nở. Đi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi Mão Dậu, gặp ác sát, Liêm trinh, Thiên thương, Thiên sứ, Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kị, chủ tửu sắc hoang đàng, nghèo khó chết yểu. Đi hạn gặp Tả Hữu Xương Khúc, người làm quan thăng quan thăng chức, bình dân thì phát tài, phụ nhân có việc vui, làm ăn được lợi, tăng đạo cũng lợi. Nhị hạn gặp Tử Phủ Vũ Lộc đa phần lên chức khai sáng phát tài.

11, phàm đại tiểu nhị hạn và Thái Tuế, sợ đến đất Thương Sứ Không Kiếp Kình Đà, sợ gặp Kình Đà xung chiếu, lại sợ Thương Sứ Kiếp Không Kình Đà kẹp tuế hạn, đại hung, cần có Tử Vi Thiên đồng Thiên lương Tham Lang tọa mệnh mới có thể giải cứu.

12, Nhị hạn gặp Sát Phá Lang Liêm Cự, hãm thêm sát có nhiều họa, tam phương gặp Lục Sát giao nhau chiếu kẹp, nam nhân dễ lưu luyến nơi phong hoa tuyết nguyệt, nữ nhân dễ có ngoại tình mà thất thân, nhiều thì bị lừa bán; cung Phu thê hung, dễ có tư tình bị lộ, tróc gian bị phạt.

13, tuế hạn bản cung vô chính diệu: ① mệnh vô chính diệu, gặp hung càng hung, nếu tam phương gặp sát, có khả năng tử vong. Đối cung gặp hung sát càng hung. ② bản cung vô chính diệu, lại gặp Kình Đà và Sát Phá Lang, có khả năng khai đao. ③ lưu niên gặp bản cung vô chính diệu, thường vô chủ kiến, phương châm sách lược không cách nào xác định, đi vận đa phần khốn đốn, sự nghiệp khó bền. ④ bản cung vô chính diệu, cung Tài lại không tốt, Tài phá rất mạnh, nhất là đại nạn gặp thì càng xấu. Nếu tam phương tứ chính nhiều cát tinh cũng có thể đỡ.

14, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp Sát Phá Lang, hãm địa thêm Thất Sát, Tang, Điếu, Hổ, Thương, Sứ, Khốc, Hư, Đại Hao là hung, hoặc gặp Kình Đà kẹp, Không Kiếp kẹp, Hỏa Linh kẹp, Thương Sứu kẹp, Mã đảo Lộc nghiêng (tức Lộc Mã gặp không), đều chủ hung, sát tụ đại hung. Thái Tuế xung chiếu những cung vị này nhân sự cũng chủ hung. Sự tình phát triển rất nhanh. Cũng cần nguyên mệnh, đại nạn hung thì đại hung.

15, lưu niên Thất Sát bay vào Mệnh Thân cung, lại gia hội Tang, Điếu, Bạch Hổ, Âm sát, Đại hao, Thiên thương, Thiên sứ, Thiên khốc, Thiên hư là đại hung, tất có tang phục.

16, phàm gặp nguyên Mệnh Bàn Hóa Kị và đại tiểu hạn lưu Kị cùng thủ một cung, gọi là Kị mang Kị, tại cung nào, tức biểu thị loại thần của cung đó không tốt. Nếu rơi vào cung Tật ách, sẽ có bệnh tật, thương vong ngoài ý muốn; nếu vào cung Quan lộc, thì sự nghiệp bất lợi; nhập cung Điền trạch thì người nhà, điền sản ruộng đất bất lợi; nhập cung Tử tức thì con cái bệnh tật tổn thương. Là năm bản thân cũng sẽ bất lợi.

17, Thái Tuế đi tới Quan phù, Thiên thương, Thiên sứ, Kình Đà, Hỏa Linh, Bạch Hổ, Tang môn, Không Kiếp, Hóa Kị, gặp một hai sao chủ người ly tài tán, bệnh tật xuất hiện, nếu gặp tuế hạn trùng điệp, đại hung, quan lại bị giáng chức, thường nhân gây tai hoạ, phụ nhân tổn hại thai, bệnh nhân tử vong. Nếu không có cát tinh đến giải, Mệnh không có cứu, năm đó khó thoát vận rủi.

18, Thái Tuế là Sát Thần, hỉ phù không hỉ hình, hỉ là thiện túc đồng độ, ác sát đồng hành thì hung, nhất là tại cung Thìn Tuất cùng Thất Sát trùng phùng hoặc Kình Đà trùng phùng cũng vậy, càng hung.

19, đại tiểu hạn nhập hãm cung, chủ nhiều bất lợi, nhưng tam phương cát ủi cũng lợi, nếu thêm sát tinh thì hung.

20, Thái Tuế xung tiểu hạn, vượng cát không sao, nếu hãm địa thêm sát tinh thì hung, phá tài tổn thương bệnh tật, tai vạ bất ngờ ngoài ý muốn, nhiều thì bỏ mình; can chi tương xung càng hung. Lưu niên và tiểu hạn can chi giống nhau là phục ngâm, nhiều bệnh tai. Cung tiểu hạn xung đại nạn cung cũng bất lợi (hãm địa thêm sát luận hung), can chi xung càng hung, ứng với cung tiểu hạn đối ứng nguyên bàn cung đại biểu người và sự việc.

21, đại nạn tiểu hạn hoặc lưu niên địa chi thành tam hợp là cát, dù cho gặp Sát Phá Lang Kình Đà cũng không sao (hỉ hợp không hỉ xung).

22, lưu niên cung Phụ mẫu tam phương gặp Thái âm Hóa Kị, nguyên bàn Phụ mẫu cung Tật ách hung hoặc gặp đại nạn Hóa Kị nhập, chủ mẹ mất, thêm sát Tang Điếu Bạch Hổ càng nghiệm.

△ năm, tuế hạn ứng chú ý mấy loại hung cách:

1, Thất Sát trùng phùng: Mệnh cung có Thất Sát thủ chiếu, mà đại tiểu hạn lưu niên lại gặp Thất Sát cung. Kị gặp Kình Đà trùng điệp, đại hung. Gặp Kình Đà Không Kiếp Thương Sứ nhất định có hình tổn thương. Thất Sát nhập miếu gặp Tử, Tướng, Lộc Tồn, Hóa Lộc tam phương thủ chiếu có thể giải.

2, Kình Đà trùng điệp: Nguyên Mệnh Bàn mệnh cung hoặc đối cung có Kình Đà, mà lưu niên lại gặp lưu Kình lưu Đà bay vào cung đó, là Kình Đà trùng điệp. Nếu đại tiểu hạn trùng phùng tại cung đó hoặc đối cung, không có cát tinh hóa giải, chủ đại hung. Ví dụ như, người sinh năm canh tọa mệnh tại Dậu, Dậu gặp Kình; canh lưu niên, lưu Kình tại Dậu, lưu Đà tại Mùi, là Kình Đà trùng điệp.

3, Trúc La Tam hạn: Phàm mệnh cung gặp Sát Phá Lang thủ, gọi là “Trúc la”, nếu đại nạn và tiểu hạn hoặc lưu niên lại đồng thời trị Sát Phá Lang (tức nguyên mệnh cung, đại nạn cung, cung tiểu hạn hoặc lưu niên cung nhất định phải đều là Sát Phá Lang thủ), gọi là Trúc La Tam hạn, nếu như tam tinh thất hãm lại không có cát tinh thủ chiếu tới cứu, tất chủ đại hung, nhưng phải lưu niên hung sát hội tụ mới ứng hung. Nhất là ba hạn đều tọa Thất Sát, hợp với Cự môn Tang Điếu Bạch Hổ, chủ năm cửu tử nhất sinh. Đại nạn Sát Phá Lang, tiểu hạn Kình Đà trùng điệp, đề phòng thương vong ngoài ý muốn. Gặp “Trúc la” tại cung miếu vượng, lại được Tử Phủ Xương Khúc Vũ Tướng Đồng Lương Tả Hữu Khôi Việt Lộc Mã cát tinh thủ chiếu hợp, ngược lại có cục diện khai sáng, nhưng là xung phá nan quan mà lấy được thành tựu. Sát Phá Lang không vào nguyên cục Mệnh Thân, nhị hạn gặp cũng là “Trúc la”, gặp hung cũng hung, nhưng hung tính yếu bớt, nguyên mệnh cát cũng không chủ hung mà chủ cục diện đổi mới khai sáng, gặp cát càng cát. Tiêu cực tinh (như Đồng Âm Lương) gặp Sát Phá Lang hạn năm, sẽ có biến động, cát thì biến tốt, hung thì gây tai hoạ. Nhị hạn gặp Sát Phá Lang, bình thường nhập cung năm sinh tử mộ tuyệt mộc dục là hung; bản cung Hóa Kị có sát, tuần không, Tang Sứ Bạch Hổ thì hung, lại gặp Thương Sứ kẹp hoặc Kình Đà kẹp, kiếp số khó thoát, đúng cung Hóa Kị cũng vậy.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Bạn đang xem: Tuế hạn kinh nghiệm phán đoán suy luận

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tuế hạn kinh nghiệm phán đoán suy luận

△ một, đấu phân

Đi hạn phân nam Bắc Đẩu, dương nam Âm nữ và người phương nam lấy Nam Đẩu tinh là phúc, trọng điểm xem Nam Đẩu tinh, gặp nam sát tai nhẹ, gặp bắc sát tai nặng; âm nam dương nữ và người phương bắc lấy Bắc Đẩu tinh là phúc, trọng điểm xem Bắc Đẩu tinh, gặp bắc sát tai nhẹ, gặp nam sát tai nặng. Đại nạn năm năm đầu lấy Bắc Đẩu tinh làm chủ, năm năm sau lấy Nam Đẩu tinh làm chủ, trung thiên tinh mười năm đều quản. Tiểu hạn nửa năm đầu lấy Bắc Đẩu tinh làm chủ, sáu tháng cuối năm lấy Nam Đẩu tinh làm chủ, trung thiên tinh một năm đều quản. Đấu quân nửa tháng đầu ứng Bắc Đẩu tinh, nửa tháng sau ứng Nam Đẩu tinh.

△ hai, tuế hạn kinh nghiệm phán đoán suy luận chú giải

◇ “Mệnh thực vận kiên, ruộng lúa được mưa; mệnh suy hạn yếu, cỏ non bị sương”: Tức cung Mệnh Thân tốt, tuế hạn cũng tốt, phúc tự nhiên tới. Như mạng cư hãm địa, lại có tứ phía cát ủi, cũng luận là phúc. Lại như mệnh cư hung địa, vận gặp ác sát, tức là cỏ non bị sương, tất chủ tai hối.

◇ ” Tiên phú hậu bần, chích vi vận phùng kiếp sát “: Như trong Mệnh Thân chính tinh miếu vượng lại có cát ủi, thiếu niên luận cát hạn, đi hạn đến tuổi già sau gặp Không Kiếp sát tinh lại kiêm gặp tuyệt địa, thì tiên phú hậu bần.

◇ ” Vận suy hạn suy hỉ tử vi lai giải hung ác “: Đại tiểu hạn không gặp cát tinh, mà thân mệnh có Tử Vi thủ chiếu, thì hạn mặc dù hung mà bình ổn.

◇ ” “Điếu khách tang môn, lục châu hữu trụy lâu chi ách “: Đại tiểu hạn, gặp trước có Tang môn, sau có Điếu khách, Thái Tuế gặp hung tinh, tất có mạo hiểm. (bản cung hung luận như vậy, bản cung cát không sao).

◇ ” Hạn chí thiên la địa võng, khuất nguyên nịch thủy nhi vong”: Nhị hạn đi tới Thìn Tuất hai cung, gặp Vũ khúc Tham Lang, lại có Thái Tuế, Tang môn, Bạch Hổ,

Không Kiếp, Tứ Sát, hoặc gặp một trong số đó xung chiếu, hạn hung nhất. (gặp may mới bắt đầu cho đến vận cuối năm gặp tai).

◇ ” Vận ngộ Không Kiếp, tắc hữu bần khốn chi khổ”: Nhị hạn gặp kiếp không, dù nhiều cát, cũng Tài đến Tài đi, nếu gặp lưu niên sát tinh hung diệu, định chủ nghèo khó. Hạn vận gặp Không Kiếp Đại Hao Phá Toái đều chủ tổn hại bại nghiệp. (như mạng cung cát, chỉ chủ lưu niên này khó khăn, qua thì tốt).

◇ ” Mệnh không hạn không vô cát thấu, công danh thặng đặng”: Nếu mạng hạn đều gặp Không Kiếp Tứ Sát, công danh tất không thể liền. Hoặc tuy có chính tinh cát hóa, gặp Không Kiếp hạn năm, cũng chủ đèn đuốc vất vả cần cù, không được.

◇ ” Thạch sùng hào phú, hạn hành kiếp địa nhi vong gia”: Đại tiểu hạn lâm hãm lại gặp Không Kiếp, càng gặp lưu đà các loại, tất phá tán.

◇ “Nhan về chết yểu, Văn Xương rơi vào Thiên Thương “: Như người sinh năm

Sửu, an mệnh Dần cung, gặp Văn Xương và Thiên Thương cùng nhập vào Mùi cung.

Nhưng nhất định phải chờ lưu niên lại gặp Thất Sát và Kình Đà trùng lặp, như thế phán đoán. Tiểu hạn gặp Thương, Sứu, lưu Kình, Hóa Kị tại đúng cung, là năm tất hung.

◇ “Cự môn kỵ tinh đô bất cát, vận thân mệnh hạn kỵ tương phùng. Canh kiêm thái tuế Quan Phù chí, khẩu thiệt thị phi quyết bất không”: Hóa Kị, Cự môn nhị tinh là thần đa quản, mười hai cung, nhị hạn gặp, đều chủ không tốt; Cự môn vốn thị phi cát tinh, hãm hóa cát cũng chủ không tốt. Thái Tuế Quan Phù nhị tinh, vốn là thần hưng tụng, mà Cự môn là sao thị phi, lại thêm Hóa Kị cùng lâm, thị phi cãi vã tất khó tránh khỏi.

◇ “”Điếu khách Tang Môn hựu tương phùng, định giáo tai bệnh lưỡng tương công”: Điếu khách Tang Môn nhị tinh, bản chủ hình hiếu, nhưng không gặp Thất Sát, Kình Đà, chỉ là bệnh tai mà thôi. Nếu là thêm gặp Thất Sát, Kình Đà, Hóa Kị, thì tử tang sự tình khó tránh khỏi.

◇ “Quan Phù giáp hình sát vu thiên di, ly hương tao phối”: Nếu lưu niên Quan Phù và đương sinh Quan Phù kẹp hình sát tại cung Thiên di, lại gặp Thái Tuế tiểu hạn đến đây, ắt gặp biếm phối, xa quê.

△ ba, tuế hạn hỉ kị

1, năm sinh kị chạy nhị hạn và lưu niên:

Chú thích: Lấy địa chi năm sinm làm chuẩn để an, gặp địa chi chủ tai hối hận, kiện cáo, có tang, mất cướp, phá tài, hình tổn thương, tử vong, lại gặp tam phương tứ chính và Thái Tuế hung thần, tất gây tai họa. Ví dụ như người sinh năm Tý, phải tránh đại tiểu hạn nhập Dần Thân cung và Dần Thân lưu niên, lại kị gặp Ngọ lưu niên tương xung, đều tai vạ nặng. Nếu cung hung, tam phương tứ chính cung gặp sát, đại hung.

2, tuế hạn hỉ hành cung độ

Người Hỏa cục hỉ đi Dần Ngọ Tị, người kim cục người hỉ Tị Dậu Thân, người mộc cục hỉ Hợi Dần Mão, người thủy cục hỉ Thân Tý Thìn, người thổ cục hỉ Thân Mùi Tuất. (chú thích: Bên trên là đại tiểu hạn đều là hỉ hành chi địa, đại tiểu hạn nhập những cung độ này thì cát, nhưng cũng cung đó được trường sinh, đế vượng, lâm Quan, quan đái là phải tính; gặp mộ tuyệt tử suy bệnh là ngược, dù cho gặp cát cũng vô dụng).

3, hạn đi ngược: Hỏa hành Tuất Hợi là hung, Kim hành Sửu Dần có hại, mộc đến Thân Dậu không tường an, thuỷ thổ Thìn Tị sẽ suy. (chú thích: Đại tiểu hạn gặp cung ngược, lại gặp mộ tuyệt tử suy bệnh và ác diệu, ứng nghiệm.)

4, Ngũ Hành cục kị hành cung: Kim cục gặp Tý mệnh là tổn thương, mộc cục gặp Ngọ có tai hoạ, thủy gặp Sửu Dần ứng trục trặc, thổ cục chớ gặp Mão Thìn Tị, hỏa cục gặp Dậu họa tiến đến, cần phòng máu mủ và kinh hoảng, dù cho cát tinh đến chiếu, cũng có kiện cáo thị phi.

△ bốn, lưu niên một chút kinh nghiệm

1, Mệnh Thân cung chủ tinh thất hãm (cát thì bất lực, hung thì càng hung), lại gặp hao tổn nhiều đại ác sát thủ chiếu, nhị hạn hung thì hung tượng. Lại gặp lưu niên lưu kình lưu đà hoặc Thất Sát trùng phùng, là dữ nhiều lành ít; lại thêm lưu niên Thái Tuế Tang Môn điếu khắc Bạch Hổ lâm tại Mệnh Thân cùng tam phương tứ chính, càng là đã rét vì tuyết lại lạnh vì sương; lại gặp Thiên Thương thiên khốc thủ hoặc kẹp, đoán có khả năng tử vong. Đại tiểu nhị hạn, Thái Tuế trùng điệp, hoặc gặp thời điểm giao tiếp cát hạn và hung hạn, lại Thái Tuế, tiểu hạn đều hung cũng rất hung. Bệnh phù thêm hung sát tinh thủ chiếu Mệnh Thân, nhị hạn lâm, lại thêm thương sứ cùng thủ hoặc kẹp, cũng hung.

2, sinh vượng phát tới mộ tuyệt dừng lại, mộ tuyệt phát tới sinh vượng cuối cùng: Mệnh cung tại cung sinh vượng, kị đi hạn niên mộ tuyệt; mệnh cung gặp cung mộ tuyệt, kị đi niên hạn sinh vượng.

3, thiên la địa võng nhập Hỏa xà (tức hỏa đà nhị tinh nhập Thìn Tuất cung), nhị hạn gặp thì nhiều tai hoạ, nếu chủ tinh trong mệnh yếu, hồn phách gặp Diêm Vương.

4, đảo hạn: Nhị hạn Thái Tuế cung Đại Hao (Đại tiểu hạn Thái Tuế và Đại Hao cùng cung), lại thêm lộc ngược lại là hung (Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn gặp bại gặp Không Kiếp, triệt, tuần không, Đại Hao thủ chiếu là đảo lộc, không phải bạo bại thì là sinh mệnh hấp hối; Thiên Mã gặp là đảo mã cũng vậy).

5, cự liêm Không Kiếp Hỏa Linh vị, nhị hạn đều đến không nên lâm, tham phá liêm sát đa hình, tam phương thủ chiếu là hung.

Chú thích: Cự, liêm thêm Không Kiếp Hỏa Linh, đại tiểu hạn đến cung này, có hình khắc tai ương, tam phương lại thấy tham phá liêm sát, lão nhân trẻ nhỏ tối kỵ đi hung địa, thanh niên gặp cũng lo. Đồng tử hạn như phao trên nước, lão nhân hạn như ánh đèn trong gió, gặp sát kị mà không có chế nhiều hung.

6, lưu niên ác sát chiếu hạn: Xem ác sát, Tam Sát tam hợp xung, Thái Tuế, Bạch Hổ, bệnh phù, tử phù chiếu hạn, cửu tử nhất sinh. (chú thích: Nếu tiểu hạn ở cung Mão, cung đó có thất hãm ác sát, lưu niên Thái Tuế lại trị cung đó, chủ tiểu hạn này không tốt, nếu tam hợp phương Hợi cung, Mùi cung và đối cung có ác sát xung chiếu, chủ tiểu hạn này tất hung; lại như cung tiểu hạn và tam phương tứ chính đều gặp Bạch Hổ, bệnh phù, tử phù, Thái Tuế, chủ có sinh tử nguy hiểm; nếu tiểu hạn lại rơi vào cung đại nạn, nhị hạn trùng phùng, càng hung, sinh cơ xa vời.)(chú thích: Tử phù tức tiểu hao). Gặp hung sát hỉ gặp không vong, có thể phản hung là cát.

7, Thái Tuế nhập mệnh cung, gọi là Thái Tuế đương đầu, không cát chính là hung. Thái Tuế toại mệnh, bản cung và tam phương tứ chính có cát tinh thủ chiếu, là chủ Phúc Lộc. Nếu gặp sát tinh thủ chiếu, tất nhiên hung ác, nhất là rơi vào cung Thìn Tuất càng hung, nhẹ thì phá tài bại nghiệp, nặng thì mất mạng.

Đại tiểu hạn và Thái Tuế trùng điệp tại Mệnh Thân, cát thì càng cát, hung thì càng hung. Trùng điệp cung khác cũng vậy.

8, gặp đại nạn, tiểu hạn, lưu niên Thái Tuế đều hung, thì rất hung. Đại tiểu hạn hung, Thái Tuế cát là có thể cứu, không đến mức tử; đại nạn Thái Tuế hung mà tiểu hạn cát cũng là có thể cứu.

9, đại tiểu hạn đến đất trường sinh đế vượng lâm quan chủ cát, gặp cát càng cát, gặp hung giảm hung; gặp đất tử mộ tuyệt mộc dục chủ hung.

10, phàm đi hạn đến cung Dần Thân Kỷ Hợi Tý Ngọ, gặp Tử Phủ Nhật Nguyệt Xương Khúc Thiên đồng Lộc Tồn Hóa Lộc cát tinh, chủ thịnh vượng, sinh sôi nảy nở. Đi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi Mão Dậu, gặp ác sát, Liêm trinh, Thiên thương, Thiên sứ, Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kị, chủ tửu sắc hoang đàng, nghèo khó chết yểu. Đi hạn gặp Tả Hữu Xương Khúc, người làm quan thăng quan thăng chức, bình dân thì phát tài, phụ nhân có việc vui, làm ăn được lợi, tăng đạo cũng lợi. Nhị hạn gặp Tử Phủ Vũ Lộc đa phần lên chức khai sáng phát tài.

11, phàm đại tiểu nhị hạn và Thái Tuế, sợ đến đất Thương Sứ Không Kiếp Kình Đà, sợ gặp Kình Đà xung chiếu, lại sợ Thương Sứ Kiếp Không Kình Đà kẹp tuế hạn, đại hung, cần có Tử Vi Thiên đồng Thiên lương Tham Lang tọa mệnh mới có thể giải cứu.

12, Nhị hạn gặp Sát Phá Lang Liêm Cự, hãm thêm sát có nhiều họa, tam phương gặp Lục Sát giao nhau chiếu kẹp, nam nhân dễ lưu luyến nơi phong hoa tuyết nguyệt, nữ nhân dễ có ngoại tình mà thất thân, nhiều thì bị lừa bán; cung Phu thê hung, dễ có tư tình bị lộ, tróc gian bị phạt.

13, tuế hạn bản cung vô chính diệu: ① mệnh vô chính diệu, gặp hung càng hung, nếu tam phương gặp sát, có khả năng tử vong. Đối cung gặp hung sát càng hung. ② bản cung vô chính diệu, lại gặp Kình Đà và Sát Phá Lang, có khả năng khai đao. ③ lưu niên gặp bản cung vô chính diệu, thường vô chủ kiến, phương châm sách lược không cách nào xác định, đi vận đa phần khốn đốn, sự nghiệp khó bền. ④ bản cung vô chính diệu, cung Tài lại không tốt, Tài phá rất mạnh, nhất là đại nạn gặp thì càng xấu. Nếu tam phương tứ chính nhiều cát tinh cũng có thể đỡ.

14, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp Sát Phá Lang, hãm địa thêm Thất Sát, Tang, Điếu, Hổ, Thương, Sứ, Khốc, Hư, Đại Hao là hung, hoặc gặp Kình Đà kẹp, Không Kiếp kẹp, Hỏa Linh kẹp, Thương Sứu kẹp, Mã đảo Lộc nghiêng (tức Lộc Mã gặp không), đều chủ hung, sát tụ đại hung. Thái Tuế xung chiếu những cung vị này nhân sự cũng chủ hung. Sự tình phát triển rất nhanh. Cũng cần nguyên mệnh, đại nạn hung thì đại hung.

15, lưu niên Thất Sát bay vào Mệnh Thân cung, lại gia hội Tang, Điếu, Bạch Hổ, Âm sát, Đại hao, Thiên thương, Thiên sứ, Thiên khốc, Thiên hư là đại hung, tất có tang phục.

16, phàm gặp nguyên Mệnh Bàn Hóa Kị và đại tiểu hạn lưu Kị cùng thủ một cung, gọi là Kị mang Kị, tại cung nào, tức biểu thị loại thần của cung đó không tốt. Nếu rơi vào cung Tật ách, sẽ có bệnh tật, thương vong ngoài ý muốn; nếu vào cung Quan lộc, thì sự nghiệp bất lợi; nhập cung Điền trạch thì người nhà, điền sản ruộng đất bất lợi; nhập cung Tử tức thì con cái bệnh tật tổn thương. Là năm bản thân cũng sẽ bất lợi.

17, Thái Tuế đi tới Quan phù, Thiên thương, Thiên sứ, Kình Đà, Hỏa Linh, Bạch Hổ, Tang môn, Không Kiếp, Hóa Kị, gặp một hai sao chủ người ly tài tán, bệnh tật xuất hiện, nếu gặp tuế hạn trùng điệp, đại hung, quan lại bị giáng chức, thường nhân gây tai hoạ, phụ nhân tổn hại thai, bệnh nhân tử vong. Nếu không có cát tinh đến giải, Mệnh không có cứu, năm đó khó thoát vận rủi.

18, Thái Tuế là Sát Thần, hỉ phù không hỉ hình, hỉ là thiện túc đồng độ, ác sát đồng hành thì hung, nhất là tại cung Thìn Tuất cùng Thất Sát trùng phùng hoặc Kình Đà trùng phùng cũng vậy, càng hung.

19, đại tiểu hạn nhập hãm cung, chủ nhiều bất lợi, nhưng tam phương cát ủi cũng lợi, nếu thêm sát tinh thì hung.

20, Thái Tuế xung tiểu hạn, vượng cát không sao, nếu hãm địa thêm sát tinh thì hung, phá tài tổn thương bệnh tật, tai vạ bất ngờ ngoài ý muốn, nhiều thì bỏ mình; can chi tương xung càng hung. Lưu niên và tiểu hạn can chi giống nhau là phục ngâm, nhiều bệnh tai. Cung tiểu hạn xung đại nạn cung cũng bất lợi (hãm địa thêm sát luận hung), can chi xung càng hung, ứng với cung tiểu hạn đối ứng nguyên bàn cung đại biểu người và sự việc.

21, đại nạn tiểu hạn hoặc lưu niên địa chi thành tam hợp là cát, dù cho gặp Sát Phá Lang Kình Đà cũng không sao (hỉ hợp không hỉ xung).

22, lưu niên cung Phụ mẫu tam phương gặp Thái âm Hóa Kị, nguyên bàn Phụ mẫu cung Tật ách hung hoặc gặp đại nạn Hóa Kị nhập, chủ mẹ mất, thêm sát Tang Điếu Bạch Hổ càng nghiệm.

△ năm, tuế hạn ứng chú ý mấy loại hung cách:

1, Thất Sát trùng phùng: Mệnh cung có Thất Sát thủ chiếu, mà đại tiểu hạn lưu niên lại gặp Thất Sát cung. Kị gặp Kình Đà trùng điệp, đại hung. Gặp Kình Đà Không Kiếp Thương Sứ nhất định có hình tổn thương. Thất Sát nhập miếu gặp Tử, Tướng, Lộc Tồn, Hóa Lộc tam phương thủ chiếu có thể giải.

2, Kình Đà trùng điệp: Nguyên Mệnh Bàn mệnh cung hoặc đối cung có Kình Đà, mà lưu niên lại gặp lưu Kình lưu Đà bay vào cung đó, là Kình Đà trùng điệp. Nếu đại tiểu hạn trùng phùng tại cung đó hoặc đối cung, không có cát tinh hóa giải, chủ đại hung. Ví dụ như, người sinh năm canh tọa mệnh tại Dậu, Dậu gặp Kình; canh lưu niên, lưu Kình tại Dậu, lưu Đà tại Mùi, là Kình Đà trùng điệp.

3, Trúc La Tam hạn: Phàm mệnh cung gặp Sát Phá Lang thủ, gọi là “Trúc la”, nếu đại nạn và tiểu hạn hoặc lưu niên lại đồng thời trị Sát Phá Lang (tức nguyên mệnh cung, đại nạn cung, cung tiểu hạn hoặc lưu niên cung nhất định phải đều là Sát Phá Lang thủ), gọi là Trúc La Tam hạn, nếu như tam tinh thất hãm lại không có cát tinh thủ chiếu tới cứu, tất chủ đại hung, nhưng phải lưu niên hung sát hội tụ mới ứng hung. Nhất là ba hạn đều tọa Thất Sát, hợp với Cự môn Tang Điếu Bạch Hổ, chủ năm cửu tử nhất sinh. Đại nạn Sát Phá Lang, tiểu hạn Kình Đà trùng điệp, đề phòng thương vong ngoài ý muốn. Gặp “Trúc la” tại cung miếu vượng, lại được Tử Phủ Xương Khúc Vũ Tướng Đồng Lương Tả Hữu Khôi Việt Lộc Mã cát tinh thủ chiếu hợp, ngược lại có cục diện khai sáng, nhưng là xung phá nan quan mà lấy được thành tựu. Sát Phá Lang không vào nguyên cục Mệnh Thân, nhị hạn gặp cũng là “Trúc la”, gặp hung cũng hung, nhưng hung tính yếu bớt, nguyên mệnh cát cũng không chủ hung mà chủ cục diện đổi mới khai sáng, gặp cát càng cát. Tiêu cực tinh (như Đồng Âm Lương) gặp Sát Phá Lang hạn năm, sẽ có biến động, cát thì biến tốt, hung thì gây tai hoạ. Nhị hạn gặp Sát Phá Lang, bình thường nhập cung năm sinh tử mộ tuyệt mộc dục là hung; bản cung Hóa Kị có sát, tuần không, Tang Sứ Bạch Hổ thì hung, lại gặp Thương Sứ kẹp hoặc Kình Đà kẹp, kiếp số khó thoát, đúng cung Hóa Kị cũng vậy.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button