Tử vi

Về chuyện cải sửa số mệnh

Hầu như những người xem số nghiệp dư đều đến với bói toán từ mong muốn biết được số mệnh của mình. Thế mà “thế thượng ác nhân đa”, người có số tốt thì ít mà trắc trở, khó khăn thì nhiều. Do vậy mà ước muốn cải sửa số mệnh luôn là nỗi băn khoăn, khắc khoải của những người tự xem số cho mình.

Ở đây tôi nhấn mạnh là tự xem cho mình vì sửa số cho chính mình đã là quá khó, đừng nói chi đến sửa cho người khác. Bài viết này cũng chỉ mong đề ra một vài ý hướng để được nghe các bậc cao nhân chỉ giáo thêm.

Điểm lại trong các sách vở về lý số, bài viết về sửa đổi số mệnh của Nguyễn Phát Lộc trong quyển Tử vi tổng hợp là sát và có lý luận chặt chẽ nhất. Thế nên những gì bậc đại tiền bối đã nói tôi chỉ xin nhắc qua và thêm thắt vào chút ít, mục đích của bài viết này là bàn đến phần thực nghiệm, nghĩa là trả lời câu hỏi “lý thuyết đã là như thế, còn thực hành thì sao?”

Bạn đang xem: Về chuyện cải sửa số mệnh

Cách đặt vấn đề của NPL phải nói là đã cực kỳ hoàn hảo (tử vi tổng hợp, trang 55):

– Số mệnh là gì? Nên hiểu số mệnh như thế nào?

– Hạnh phúc là gì? Nên đặt tiêu chuẩn hạnh phúc ra sao?

– Làm thế nào để cải sửa số mệnh và mưu cầu hạnh phúc.

– Biết được số mệnh như thế, con người cần có lập trường gì trước số mệnh.

Có thể hiểu cách đặt vấn đề này đại khái như sau:

Mục đích rốt ráo là hạnh phúc hơn, chứ không thể cụ thể là giàu hơn, quyền cao chức trọng hơn …. Nên cái đoạn hạnh phúc là gì là hết sức quan trọng. Trên 2 nền tảng “số mệnh” và “hạnh phúc” đó mà tìm cách để có hạnh phúc nhiều hơn. Và cuối cùng, nếu không sửa nỗi thì cần có thái độ như thế nào để có thể có đủ dũng khí tiếp tục sống và đón nhận.

Nếu đi được con đường do Nguyễn Phát Lộc chỉ ra thì không còn gì để bàn cãi nữa, dưới đây tôi chỉ mạo muội tìm một cách tiếp cận khác mà hy vọng là dễ thực hiện hơn.

I. Có thể sửa số không và sửa được đến mức nào.

Tôi tránh không lao đầu vào khái niệm vốn hay gây tranh cãi “Số mệnh là gì” mà chỉ xét xem có cải sửa số mệnh được không và từ đó may ra cũng gợi mở cho chúng ta con đường để tìm tòi cách sửa số.

Thuyết nhân quả và nghiệp báo của phật giáo cho chúng ta những gợi ý gần nhất về số mệnh. Khi nói về tính chất của nghiệp quả, đức phật hỏi “Tỷ như có người cho một muỗng muối vào bát nước. Hỡi này các tỳ khưu, các người nghĩ thế nào? Bát nước có trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là có. Đức phật lại hỏi “Bây giờ, tỷ như người ta đổ muỗng muối ấy xuống sông Hằng. Này hỡi các tỳ khưu, các người nghĩ sao, nước sông có vì muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là không. (theo “Đức phật và phật pháp” – Chương “Tính chất của nghiệp”)

Theo đó, thì nếu như số mệnh được tạo ra là từ nghiệp báo, thì việc cải đổi là rất “khả dĩ”, có thể từ mức rất “mặn” thành ra hầu như không có gì.

Có nhiều lý thuyết cho rằng số mệnh hàm chứa trong tâm trí con người. Kinh phật cũng có câu “Này hỡi các tỳ khưu, Như Lai xác nhận rằng chính Tác Ý là nghiệp”. Nhiều trường phái tâm lý cũng cho rằng, có gì đó trong tâm con người như là thiên hướng, dẫn dắt người ta hành động theo chiều hướng nào đó. Đáng chú ý nhất là học thuyết của Sigmond Freud về vô thức. Nếu quả như vậy, việc cải sửa số mệnh là nằm ở chỗ hiểu được chính mình.

2. Tìm cách thay đổi vận số trong tương lai nhìn thấy được bằng xem số

Nguyễn Phát Lộc cho rằng hạnh phúc là sự cân bằng giữa ý muốn và năng lực thực hiện. Hai thứ này càng gần thì người ta càng hành phúc và cuối cùng rốt ráo là người ta phải tiết chế ham muốn, tự rèn luyện tâm trí để việc tự chế dễ dàng và thoải mái hơn đồng thời nuôi dưỡng một lối sống đạo đức. Khi làm được những điều trên, nói chung là người ta sẽ hạnh phúc hơn.

Nguyên tắc trên là cực kỳ đúng đắn chỉ có điều đó là nguyên tắc chung trong toàn cục. Còn cụ thể thì sao? Ví dụ, nếu tôi thấy trước trong vài năm tới tôi sẽ gặp đại nạn và vấn đề đặt ra là làm sao tránh hay chí ít là giảm nhẹ, thì có cách nào hay con đường nào cho tôi chút hy vọng không?

Gốc rễ vấn đề việc hạn chế ham muốn và sống cuộc đời đạo đức. Nhưng bàn về đề tài này thì khó quá mà NPL cũng đã nói rồi. Ở đây, tôi chỉ xin nói phần trên một chút thôi, nghĩa là từ phần “thân cây” trở lên.

Theo tôi có mấy con đường sau khả dĩ có thể cải sửa chút ít số mệnh nếu như chúng ta đã nhìn thấy nó mờ mờ trong tương lai:

– Lời nhắc nằm ngay trong kỹ thuật xem số, bát tự hà lạc là kỹ thuật có được những lời nhắc có ích nhất

– Chu kỳ sinh học, nhịp sinh học.

– Nhìn kỹ vào lòng mình để tìm giải pháp.

3. Bát tự và tử vi trong việc sửa số:

Muốn sửa được số bằng cách xem bát tự thì phải hiểu rõ thuyết “thời và vị” trong kinh dịch. Như trong sách “Kinh dịch – Đạo của người quân tử” học giả Nguyễn Hiến Lê đã giảng giải rất rõ về chuyện này. Ví dụ rõ nhất là quẻ Sư. Thời của quẻ Sư là chinh chiến, các vị (hào) có đủ cả các hình thái có thể có của một cuộc chiến, từ thắng trận được ban khen (hào 2) đến “xe chở xác quy về” (hào 3), kể cả thành công nhờ rút lui chiến thuật (hào 4) … Cái cần là xem mình ở vị nào, thời nào và tại sao. Vì vậy mà việc nghiên cứu dịch một cách thấu đáo là hết sức cần thiết. Ít nhất là hiểu rõ tượng của từng quẻ, tránh tính trạng quá chú ý tiểu tượng (ý hào).

Như quẻ Đại quá là chỉ thời của cây cột chống đỡ 1 vật nặng trong thế chênh vênh. Nghĩa là ít nhiều gì cũng có gian nan. Có hào chỉ ra vị là cây cột yếu có thể đổ (hào 3), có hào chỉ ra là chống đỡ được nhưng vất vả mà nhân việc này có tiềm ẩn sai lầm, nguy hiểm (Hào 4).

Quẻ Hằng cũng vậy, nam nhân mà gặp quẻ này thì thường là không tốt. Vì Hằng là lâu bền, chỉ trong cái thế bề tôi trung với vua, vợ chung thủy với chồng thì mới tốt thôi còn lại chỉ ra là tình thế kẹt, không nên ở lâu mà cứ nấn ná, trì trệ.

Quẻ Đỉnh là tượng chỉ sự hưởng lộc vị, nhưng lên đến hào 6 thì là lúc tàn cuộc, phải ngưng thôi.

Xin lấy một vài ví dụ có thật trong xem bát tự.

VD1: Một quan chức có các tuế vận như sau:

Đại vận là Thuần khảm – hào 3.

2000: Trạch phong đại quá – hào 4

2001: Lôi phòng hằng – hào 5.

2002: Hỏa phong đỉnh – hào 6.

2003: Hỏa thiên đại hữu – Hào 1.

Năm 2000, vì thấy đại vận xấu và ý hào rõ ràng là phải chống đỡ vất vả tôi khuyên nên vừa phải, thận trọng, không nghe tiểu nhân (Hào 4 quẻ Đại quá khuyên không quá nghe bọn tiểu nhân) nhưng ông này đang đắc thời không hề chú ý lời khuyên này. Đúng như ý hào, ông cũng chống đỡ thành công. Đến năm sau, tôi bắt đầu khuyên ông nên thuyên chuyển, rút lui ra khỏi vị trí hiện tại nhưng ông cũng không nghe để đến cuối năm vướng vào một chuyện bê bối, ầm ĩ. Tuy nhiên, ông cũng qua được. Đầu năm 2002, ông gọi tôi đến mà nói rằng tôi đã nói đúng những nạn của ông nhưng nay ông thoát hết rồi, bây giờ ông muốn tôi xem tiếp. Tôi thấy hay tuế vận 2002 và 2003 đều nói rằng không được ham lộc vị nên thoái nhàn. Tôi nói thẳng là nếu ông không tự lui thì sẽ bị mất chức. Tôi nói nếu rút lui thì đến 2005 ông có cơ phục chức và như vậy sẽ tốt hơn nhiều so với để bị cách chức. Ông không tin và nói rằng sóng gió như thế mà ông còn chống chọi được, qua được thì không việc gì phải sợ.

Đến cuối năm, trong cuộc họp cấp cao nhất, thượng cấp của ông bị chất vấn dữ dội về chuyện của ông đến nỗi giờ giải lao, vị thượng cấp gọi điện về bảo soạn ngay lệnh cách chức ông.

Ông bạn tôi nhận lệnh thật bất ngờ, ra đi cũng hết sức bất ngờ và đến nơi mới trong tư thế kẻ vừa bị cách chức, bơ vơ, ngơ ngác (hào 1 quẻ Đồng nhân). Không chuẩn bị trước, lại ở trong thế khó khăn như vậy nên khi ra khỏi đại vận hào 3 quẻ khảm, ông này có được bổ nhiệm lại nhưng không mấy gì hay.

Qua câu chuyện trên, ta thấy nếu ông này tin tưởng hơn, dũng cảm ra đi từ khi đang quẻ Hằng – hào 5 thì hay hơn nhiều. Đến quẻ Đỉnh hào 6 mà ra đi thì chí ít cũng không bị cách chức, có nhiều thời gian hơn để vận động một vị trí khác, không bị bất ngờ và bị động như đã nói ở trên.

Dù sao thì ví dụ trên cũng cho ta thấy Bát tự đã cho ra hàng loạt lời nhắc chỉ có điều ta có dám nghe hay không thôi.

VD2: Khi tôi gặp người này thì ông đang ở đại vận hào 3 quẻ Khôn (cũng là nguyên đường biến quẻ), tiểu vận Thiên sơn độn hào 3. Ông đang trong thế phải ẩn nhẫn đợi thời, lại có nhiều chuyện buồn phiền trong gia đình. Nhìn thế quẻ Khôn lại là hào 3, vị cương nhưng hào nhu không hợp, ông lại quá nóng tính, cương liệt nhưng lại quá ủy mị trong cư xử nên không phát tác được cái hay của quẻ Khôn. Trước mặt là đại vận kế hào 4 quẻ Khôn, không lấy gì làm hay. Vì thế, nếu không có những sửa đổi cho hợp với vị của nguyên đường và biến quẻ thì đến hào 4 quẻ Khôn sẽ rất khó khăn. Tôi bèn khuyên ông đại khái có 2 ý: đã không gặp thời mà phải trốn thì cứ ung dung bực tức làm gì, sắp hết thời độn rồi. Thứ 2 là ở quẻ Khôn là nhờ đức âm, vậy nên làm hòa với vợ con, làm tròn vai trò người chồng người cha. Nếu làm được như vậy thì đến đại vận hào 4 quẻ Khôn, tiểu vận Lôi địa Dự hào 4 sẽ có thành đạt mà sau còn nhờ vợ nhiều.

Ông nghe theo, ung dung tu thân, tề gia, mấy năm sau được giải thưởng lớn và thành danh. Sau bị ốm nặng trong đại vận hào 4 quẻ khôn, nếu không nhờ vợ tận tình chăm sóc thì chắc khó qua khỏi.

Ví dụ này cho ta thấy không những phải xem tiểu vận, đại vận mà còn phải xem rất kỹ chính quẻ và biến quẻ, hiểu rỏ lẽ cương nhu. Từ đó mà “Thuận thủy thôi xa” (theo chiều nước mà đẩy thuyền) thì mới phát huy hết cái tốt, cản bớt cái xấu.

VD3: Một người có tiểu vận là Thiên hỏa đồng nhân – hào 2. Đồng nhân vốn là tượng tốt nhưng hào 2 thì không hay vì thời đồng nhân mà cứ khư khư với người nhà là không hợp. Tôi khuyên người này là nên mở rộng quan hệ, không phân biệt thân sơ. Người này quả là trong thế rất khó làm như vậy vì vốn bị người ta nghĩ là được ưu đãi, lập dị. Nhưng anh này đã phá bỏ được cái thế đó bằng cách cố gắng lui tới, vui vẻ với tất cả mọi người. Sau này, khi người thân không còn làm to nữa, gặp tiểu vận là thiên phong cấu – hào 6 (gặp nhau trên cái sừng, tức là đấu đá nhau) anh ta mới có đồng minh và thành công, tránh được tình thế xấu vốn có của hào 6 quẻ cấu (cô độc, không người giúp, tranh đấu vất vả).

Qua ví dụ này ta thấy phải nhìn cả quá trình và suy đoán. Hào 2 quẻ Đồng nhân là không đi lại với người ngoài, rồi tiếp tới sau vài năm là quẻ cấu hào 6, cô đơn không người giúp, nó cho ta thấy sự diễn biến tất nhiên và tất nhiên cũng chỉ cho ta thấy cách giảm nhẹ cái xấu đi.

*Vài dòng về tử vi: Vì đây là forum dành cho Bát tự nên chỉ xin nói ngắn gọn về tử vi thôi. Hy vọng có lúc sẽ bàn chi tiết hơn tại forum tử vi.

Trong tử vi có hệ thống ảnh hưởng qua lại giữa các cung là tam hợp và xung chiếu. Tam hợp là bổ trợ cùng lên cùng xuống.

Xung chiếu là hoặc hổ trợ, hoặc bù trừ. Tôi thấy nên đặt biệt chú ý cái quan hệ này nếu muốn cải thiện vận số:

Cung phối và cung quan xung chiếu, “vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” nhưng nếu quá ham công việc, chuyện gia đình nhiều khi hỏng bét.

Tài và phúc xung chiếu: Muốn có tiền thì phải bớt tình, bớt nhân hậu đi, tuy nhiên phải có phúc mới làm giàu lâu bền

….

Có thể nói nhiều nữa về các mối quan hệ này. Ta có thể lợi dụng các mối tương quan đó mà lựa chọn trong vòng hẹp những kịch bản khác nhau cho cuộc đời mình.

Còn một kiểu quan hệ nữa cũng có ích cho việc sửa số. Đó là các chòm tinh đẩu. Ví dụ kinh điển mà tôi từng được dạy như sau:

Giả sử hạn có Đà la + Thiên mả + Song hao thì rõ ràng là chỉ tay nạn tay chân. Nhưng mả + hao cũng có nghĩa là đi xa và tốn kém. Nếu người có lá số có cung thiên di đẹp (có hóa khoa càng hay), mả tốt thì có thể tránh né được bằng cách đi xa và chủ động chi nhiều tiền cho chuyến đi. Người ta vẫn hay nói “của đi thay người”, có khả năng Đà la sẽ giảm nhẹ chỉ còn là điều tiếng qua lại hay bực bội qua loa thôi. Cách này cũng có cái nguy là nếu chủ động đi xa thì cũng là tạo cái duyên để bị tai nạn xe cộ. Biết sao được, cái gì cũng có hệ số rủi ro của nó vả lại nếu không đi thì liệu có tránh được không.

* Như ta biết, có những tai nạn bất ngờ như đang đi bị vật nặng rơi trúng đầu, phạm sai lầm gì đó khi thao tác như sai lầm khi lái xe, sử dụng thiết bị điện … hoặc nói lỡ một câu làm cho người khác thù ghét … vv. Nếu vẫn duy trì niềm tin rằng không có gì là ngẫu nhiên thì có thể nói những sự cố này là có thể tránh được. 2 phần tiếp theo bàn về cách cải đổi số mệnh liên quan đến những sự cố nêu trên.

4. Chu kỳ sinh học:

Nhiều chuyên gia cho rằng vào những giai đoạn chuyển tiếp nhất định, con người hay gặp tai nạn. Các bác sĩ tâm thần cho rằng vào những đêm trăng, dù bị giam trong những căn phòng kín mít, các bệnh nhân tâm thần vẫn gào thét dữ dội hơn do thần kinh con người vào thời kỳ này mẫn cảm hơn. Ngược lại, binh pháp Tôn tử cũng dạy rằng không nên hành quân vào những ngày cuối tháng vì lúc đó tâm trạng binh lính âm u, kém hưng phấn và kém nhạy bén.

Nếu muốn dụ địch để phục kích thì tốt nhất là làm vào sáng sớm vì “Sáng hứng khởi, trưa mệt mỏi, chiều u buồn, tối suy tư”. Lúc đang hứng khởi mà thắng thì tất nhiên kẻ thù sẽ hăng hái truy kích và trúng kế.

Qua những ví dụ trên thì ta thấy người xưa đã hiểu rất rõ chu kỳ sinh học của con người. Có nhiều software tính toán chu kỳ sinh học và cảnh báo những ngày nguy hiểm, tuy nhiên, cách tính đó quá thô sơ so với những chu kỳ có trong lá số tử vi và cách tính của phương đông.

Nếu nhìn tử vi như là sự chồng chất lên nhau của nhiều chu kỳ và điểm trùng phùng của nhiều điểm nguy hiểm của các chu kỳ khác nhau là một hạn nguy hiểm thì chúng ta thấy có thể tránh được nếu hiểu rõ các chu kỳ đó.

Ví dụ có sách cho rằng vào thời điểm tuần triệt (tiểu hạn tuần triệt hay đại hạn tuần triệt) tuyến tụy của con người hoạt động mạnh lên và làm cho con người trở nên bạo dạn hơn. Đối với người tính tình bất cẩn thì những lúc này thường dễ gây tai nạn. Như vậy, nếu ta tập trung hơn, ăn uống đúng cách để điều hòa nội tiết trong cơ thể (ngày nay việc này thật dễ dàng) thì có thể tránh được trục trặc này.

Như chúng ta đã biết, tinh đẩu không chỉ vượng tướng hưu tù trên lá số mà nó cũng vượng tướng hưu tù theo thời gian. Ví dụ mùa hè hay năm có nạp giáp hành hỏa thì sao Vũ khúc thuộc kim sẽ yếu, những ai Vũ khúc thủ mạng thì dễ dàng mắc sai lầm vào mùa này. Vậy nên thận trọng vào những lúc này và tìm cách bồi bổ hành kim.

Những thầy tướng, tử vi mà xuất thân từ đông y rất mạnh kỹ thuật này.Trong khuôn khổ bài này tôi không dám bàn rộng vì sợ múa rìu qua mắt các vị này.

5. Tâm lý học:

Trong lời tựa quyển “Freud thật sự đã nói gì” có đoạn đại khái như sau: giả sử bạn bước chân ra khỏi nhà để làm một chuyện quan trọng mà bị vấp chân, suýt ngã và bạn quay vào quyết định không đi nữa. Một số người sẽ cho là bạn mê tính và chê cười bạn. Nhưng Freud sẽ cho là bạn có lý. Nguyên nhân là vì Freud cho rằng có gì đó không ổn trong tiềm thức của bạn và sâu thẳm trong vô thức, bạn biết rằng bạn khó mà thành công được.

Như phần mở đầu đã nói, Phật từng xác nhận ý là nghiệp. Nếu ta có thể nhìn thẳng vào lòng mình, hiểu rõ chính mình và đối chiếu với những gì thấy được bằng xem số, có thể ta sẽ mò được cái gì trong tâm tưởng ta có thể là nguyên nhân gần của những thời vận không tốt của mình. Cách này rất tốt và dễ làm đối với người biết Thiền. Nhưng với những người khác thì quả là khó.

Thế nên tôi đề nghị một cách nữa là nghiên cứu kỹ và tự hiểu chính mình. Phân tâm học cho rằng có những bản năng cơ bản chi phối hành động con người từ trong tiềm thức. Cơ bản nhất là tính dục, bản năng sống và bản năng chết. Trong quyển tử vi tổng hợp, Nguyễn Phát Lộc cho rằng đến hơn 60% các sao trong tử vi có liên quan dục tính. Xem ra thì điều này quả thật không có gì là đáng ngạc nhiên. Nếu như hiểu được tâm lý của mình và giải phóng năng lượng tâm lý một cách phù hợp thì ta sẽ làm chủ được một phần đáng kể số mệnh của mình.

6. Kết luận:

Để sửa đổi số mệnh hay phần nào tránh được những cái xấu trong tương lai thì có thể theo những gợi ý trong kinh Dịch mà chúng ta có được qua quẻ Hà lạc.

Những người rành về chu kỳ sinh học và đông y có thể tìm thấy sự liên quan giữa tử vi và những chu kỳ của đời người. Ngày nay với những thông tin đầy đủ và y học hiện đại, người ta có khả năng thay đổi đáng kể những ảnh hưởng của các chu kỳ này.

Những người có khả năng thiền định có thể chỉ ra được nhân duyên của những nghiệp chướng mà mình phải gánh và có thể có cách tu thân phù họp. Trường hợp hiểu biết sâu xa về tâm lý thì đây cũng là một gợi ý hay để biết phải làm gì để tránh những rủi ro trong tương lai.

Những điều nêu ra ở trên thật sự không dễ làm và cũng chưa đâu vào đâu. Người viết chỉ mong nêu được vấn đề để mọi người cùng nghiên cứu và những cao nhân đã từng nghiên cứu sâu xa hơn chỉ giáo thêm cho ở những chỗ đúng, vạch cho thấy những chỗ sai lầm, người viết sẽ vô cùng cảm kích.

(Theo Blog SimonPham)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Về chuyện cải sửa số mệnh

Hầu như những người xem số nghiệp dư đều đến với bói toán từ mong muốn biết được số mệnh của mình. Thế mà “thế thượng ác nhân đa”, người có số tốt thì ít mà trắc trở, khó khăn thì nhiều. Do vậy mà ước muốn cải sửa số mệnh luôn là nỗi băn khoăn, khắc khoải của những người tự xem số cho mình.

Ở đây tôi nhấn mạnh là tự xem cho mình vì sửa số cho chính mình đã là quá khó, đừng nói chi đến sửa cho người khác. Bài viết này cũng chỉ mong đề ra một vài ý hướng để được nghe các bậc cao nhân chỉ giáo thêm.

Điểm lại trong các sách vở về lý số, bài viết về sửa đổi số mệnh của Nguyễn Phát Lộc trong quyển Tử vi tổng hợp là sát và có lý luận chặt chẽ nhất. Thế nên những gì bậc đại tiền bối đã nói tôi chỉ xin nhắc qua và thêm thắt vào chút ít, mục đích của bài viết này là bàn đến phần thực nghiệm, nghĩa là trả lời câu hỏi “lý thuyết đã là như thế, còn thực hành thì sao?”

Cách đặt vấn đề của NPL phải nói là đã cực kỳ hoàn hảo (tử vi tổng hợp, trang 55):

– Số mệnh là gì? Nên hiểu số mệnh như thế nào?

– Hạnh phúc là gì? Nên đặt tiêu chuẩn hạnh phúc ra sao?

– Làm thế nào để cải sửa số mệnh và mưu cầu hạnh phúc.

– Biết được số mệnh như thế, con người cần có lập trường gì trước số mệnh.

Có thể hiểu cách đặt vấn đề này đại khái như sau:

Mục đích rốt ráo là hạnh phúc hơn, chứ không thể cụ thể là giàu hơn, quyền cao chức trọng hơn …. Nên cái đoạn hạnh phúc là gì là hết sức quan trọng. Trên 2 nền tảng “số mệnh” và “hạnh phúc” đó mà tìm cách để có hạnh phúc nhiều hơn. Và cuối cùng, nếu không sửa nỗi thì cần có thái độ như thế nào để có thể có đủ dũng khí tiếp tục sống và đón nhận.

Nếu đi được con đường do Nguyễn Phát Lộc chỉ ra thì không còn gì để bàn cãi nữa, dưới đây tôi chỉ mạo muội tìm một cách tiếp cận khác mà hy vọng là dễ thực hiện hơn.

I. Có thể sửa số không và sửa được đến mức nào.

Tôi tránh không lao đầu vào khái niệm vốn hay gây tranh cãi “Số mệnh là gì” mà chỉ xét xem có cải sửa số mệnh được không và từ đó may ra cũng gợi mở cho chúng ta con đường để tìm tòi cách sửa số.

Thuyết nhân quả và nghiệp báo của phật giáo cho chúng ta những gợi ý gần nhất về số mệnh. Khi nói về tính chất của nghiệp quả, đức phật hỏi “Tỷ như có người cho một muỗng muối vào bát nước. Hỡi này các tỳ khưu, các người nghĩ thế nào? Bát nước có trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là có. Đức phật lại hỏi “Bây giờ, tỷ như người ta đổ muỗng muối ấy xuống sông Hằng. Này hỡi các tỳ khưu, các người nghĩ sao, nước sông có vì muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là không. (theo “Đức phật và phật pháp” – Chương “Tính chất của nghiệp”)

Theo đó, thì nếu như số mệnh được tạo ra là từ nghiệp báo, thì việc cải đổi là rất “khả dĩ”, có thể từ mức rất “mặn” thành ra hầu như không có gì.

Có nhiều lý thuyết cho rằng số mệnh hàm chứa trong tâm trí con người. Kinh phật cũng có câu “Này hỡi các tỳ khưu, Như Lai xác nhận rằng chính Tác Ý là nghiệp”. Nhiều trường phái tâm lý cũng cho rằng, có gì đó trong tâm con người như là thiên hướng, dẫn dắt người ta hành động theo chiều hướng nào đó. Đáng chú ý nhất là học thuyết của Sigmond Freud về vô thức. Nếu quả như vậy, việc cải sửa số mệnh là nằm ở chỗ hiểu được chính mình.

2. Tìm cách thay đổi vận số trong tương lai nhìn thấy được bằng xem số

Nguyễn Phát Lộc cho rằng hạnh phúc là sự cân bằng giữa ý muốn và năng lực thực hiện. Hai thứ này càng gần thì người ta càng hành phúc và cuối cùng rốt ráo là người ta phải tiết chế ham muốn, tự rèn luyện tâm trí để việc tự chế dễ dàng và thoải mái hơn đồng thời nuôi dưỡng một lối sống đạo đức. Khi làm được những điều trên, nói chung là người ta sẽ hạnh phúc hơn.

Nguyên tắc trên là cực kỳ đúng đắn chỉ có điều đó là nguyên tắc chung trong toàn cục. Còn cụ thể thì sao? Ví dụ, nếu tôi thấy trước trong vài năm tới tôi sẽ gặp đại nạn và vấn đề đặt ra là làm sao tránh hay chí ít là giảm nhẹ, thì có cách nào hay con đường nào cho tôi chút hy vọng không?

Gốc rễ vấn đề việc hạn chế ham muốn và sống cuộc đời đạo đức. Nhưng bàn về đề tài này thì khó quá mà NPL cũng đã nói rồi. Ở đây, tôi chỉ xin nói phần trên một chút thôi, nghĩa là từ phần “thân cây” trở lên.

Theo tôi có mấy con đường sau khả dĩ có thể cải sửa chút ít số mệnh nếu như chúng ta đã nhìn thấy nó mờ mờ trong tương lai:

– Lời nhắc nằm ngay trong kỹ thuật xem số, bát tự hà lạc là kỹ thuật có được những lời nhắc có ích nhất

– Chu kỳ sinh học, nhịp sinh học.

– Nhìn kỹ vào lòng mình để tìm giải pháp.

3. Bát tự và tử vi trong việc sửa số:

Muốn sửa được số bằng cách xem bát tự thì phải hiểu rõ thuyết “thời và vị” trong kinh dịch. Như trong sách “Kinh dịch – Đạo của người quân tử” học giả Nguyễn Hiến Lê đã giảng giải rất rõ về chuyện này. Ví dụ rõ nhất là quẻ Sư. Thời của quẻ Sư là chinh chiến, các vị (hào) có đủ cả các hình thái có thể có của một cuộc chiến, từ thắng trận được ban khen (hào 2) đến “xe chở xác quy về” (hào 3), kể cả thành công nhờ rút lui chiến thuật (hào 4) … Cái cần là xem mình ở vị nào, thời nào và tại sao. Vì vậy mà việc nghiên cứu dịch một cách thấu đáo là hết sức cần thiết. Ít nhất là hiểu rõ tượng của từng quẻ, tránh tính trạng quá chú ý tiểu tượng (ý hào).

Như quẻ Đại quá là chỉ thời của cây cột chống đỡ 1 vật nặng trong thế chênh vênh. Nghĩa là ít nhiều gì cũng có gian nan. Có hào chỉ ra vị là cây cột yếu có thể đổ (hào 3), có hào chỉ ra là chống đỡ được nhưng vất vả mà nhân việc này có tiềm ẩn sai lầm, nguy hiểm (Hào 4).

Quẻ Hằng cũng vậy, nam nhân mà gặp quẻ này thì thường là không tốt. Vì Hằng là lâu bền, chỉ trong cái thế bề tôi trung với vua, vợ chung thủy với chồng thì mới tốt thôi còn lại chỉ ra là tình thế kẹt, không nên ở lâu mà cứ nấn ná, trì trệ.

Quẻ Đỉnh là tượng chỉ sự hưởng lộc vị, nhưng lên đến hào 6 thì là lúc tàn cuộc, phải ngưng thôi.

Xin lấy một vài ví dụ có thật trong xem bát tự.

VD1: Một quan chức có các tuế vận như sau:

Đại vận là Thuần khảm – hào 3.

2000: Trạch phong đại quá – hào 4

2001: Lôi phòng hằng – hào 5.

2002: Hỏa phong đỉnh – hào 6.

2003: Hỏa thiên đại hữu – Hào 1.

Năm 2000, vì thấy đại vận xấu và ý hào rõ ràng là phải chống đỡ vất vả tôi khuyên nên vừa phải, thận trọng, không nghe tiểu nhân (Hào 4 quẻ Đại quá khuyên không quá nghe bọn tiểu nhân) nhưng ông này đang đắc thời không hề chú ý lời khuyên này. Đúng như ý hào, ông cũng chống đỡ thành công. Đến năm sau, tôi bắt đầu khuyên ông nên thuyên chuyển, rút lui ra khỏi vị trí hiện tại nhưng ông cũng không nghe để đến cuối năm vướng vào một chuyện bê bối, ầm ĩ. Tuy nhiên, ông cũng qua được. Đầu năm 2002, ông gọi tôi đến mà nói rằng tôi đã nói đúng những nạn của ông nhưng nay ông thoát hết rồi, bây giờ ông muốn tôi xem tiếp. Tôi thấy hay tuế vận 2002 và 2003 đều nói rằng không được ham lộc vị nên thoái nhàn. Tôi nói thẳng là nếu ông không tự lui thì sẽ bị mất chức. Tôi nói nếu rút lui thì đến 2005 ông có cơ phục chức và như vậy sẽ tốt hơn nhiều so với để bị cách chức. Ông không tin và nói rằng sóng gió như thế mà ông còn chống chọi được, qua được thì không việc gì phải sợ.

Đến cuối năm, trong cuộc họp cấp cao nhất, thượng cấp của ông bị chất vấn dữ dội về chuyện của ông đến nỗi giờ giải lao, vị thượng cấp gọi điện về bảo soạn ngay lệnh cách chức ông.

Ông bạn tôi nhận lệnh thật bất ngờ, ra đi cũng hết sức bất ngờ và đến nơi mới trong tư thế kẻ vừa bị cách chức, bơ vơ, ngơ ngác (hào 1 quẻ Đồng nhân). Không chuẩn bị trước, lại ở trong thế khó khăn như vậy nên khi ra khỏi đại vận hào 3 quẻ khảm, ông này có được bổ nhiệm lại nhưng không mấy gì hay.

Qua câu chuyện trên, ta thấy nếu ông này tin tưởng hơn, dũng cảm ra đi từ khi đang quẻ Hằng – hào 5 thì hay hơn nhiều. Đến quẻ Đỉnh hào 6 mà ra đi thì chí ít cũng không bị cách chức, có nhiều thời gian hơn để vận động một vị trí khác, không bị bất ngờ và bị động như đã nói ở trên.

Dù sao thì ví dụ trên cũng cho ta thấy Bát tự đã cho ra hàng loạt lời nhắc chỉ có điều ta có dám nghe hay không thôi.

VD2: Khi tôi gặp người này thì ông đang ở đại vận hào 3 quẻ Khôn (cũng là nguyên đường biến quẻ), tiểu vận Thiên sơn độn hào 3. Ông đang trong thế phải ẩn nhẫn đợi thời, lại có nhiều chuyện buồn phiền trong gia đình. Nhìn thế quẻ Khôn lại là hào 3, vị cương nhưng hào nhu không hợp, ông lại quá nóng tính, cương liệt nhưng lại quá ủy mị trong cư xử nên không phát tác được cái hay của quẻ Khôn. Trước mặt là đại vận kế hào 4 quẻ Khôn, không lấy gì làm hay. Vì thế, nếu không có những sửa đổi cho hợp với vị của nguyên đường và biến quẻ thì đến hào 4 quẻ Khôn sẽ rất khó khăn. Tôi bèn khuyên ông đại khái có 2 ý: đã không gặp thời mà phải trốn thì cứ ung dung bực tức làm gì, sắp hết thời độn rồi. Thứ 2 là ở quẻ Khôn là nhờ đức âm, vậy nên làm hòa với vợ con, làm tròn vai trò người chồng người cha. Nếu làm được như vậy thì đến đại vận hào 4 quẻ Khôn, tiểu vận Lôi địa Dự hào 4 sẽ có thành đạt mà sau còn nhờ vợ nhiều.

Ông nghe theo, ung dung tu thân, tề gia, mấy năm sau được giải thưởng lớn và thành danh. Sau bị ốm nặng trong đại vận hào 4 quẻ khôn, nếu không nhờ vợ tận tình chăm sóc thì chắc khó qua khỏi.

Ví dụ này cho ta thấy không những phải xem tiểu vận, đại vận mà còn phải xem rất kỹ chính quẻ và biến quẻ, hiểu rỏ lẽ cương nhu. Từ đó mà “Thuận thủy thôi xa” (theo chiều nước mà đẩy thuyền) thì mới phát huy hết cái tốt, cản bớt cái xấu.

VD3: Một người có tiểu vận là Thiên hỏa đồng nhân – hào 2. Đồng nhân vốn là tượng tốt nhưng hào 2 thì không hay vì thời đồng nhân mà cứ khư khư với người nhà là không hợp. Tôi khuyên người này là nên mở rộng quan hệ, không phân biệt thân sơ. Người này quả là trong thế rất khó làm như vậy vì vốn bị người ta nghĩ là được ưu đãi, lập dị. Nhưng anh này đã phá bỏ được cái thế đó bằng cách cố gắng lui tới, vui vẻ với tất cả mọi người. Sau này, khi người thân không còn làm to nữa, gặp tiểu vận là thiên phong cấu – hào 6 (gặp nhau trên cái sừng, tức là đấu đá nhau) anh ta mới có đồng minh và thành công, tránh được tình thế xấu vốn có của hào 6 quẻ cấu (cô độc, không người giúp, tranh đấu vất vả).

Qua ví dụ này ta thấy phải nhìn cả quá trình và suy đoán. Hào 2 quẻ Đồng nhân là không đi lại với người ngoài, rồi tiếp tới sau vài năm là quẻ cấu hào 6, cô đơn không người giúp, nó cho ta thấy sự diễn biến tất nhiên và tất nhiên cũng chỉ cho ta thấy cách giảm nhẹ cái xấu đi.

*Vài dòng về tử vi: Vì đây là forum dành cho Bát tự nên chỉ xin nói ngắn gọn về tử vi thôi. Hy vọng có lúc sẽ bàn chi tiết hơn tại forum tử vi.

Trong tử vi có hệ thống ảnh hưởng qua lại giữa các cung là tam hợp và xung chiếu. Tam hợp là bổ trợ cùng lên cùng xuống.

Xung chiếu là hoặc hổ trợ, hoặc bù trừ. Tôi thấy nên đặt biệt chú ý cái quan hệ này nếu muốn cải thiện vận số:

Cung phối và cung quan xung chiếu, “vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” nhưng nếu quá ham công việc, chuyện gia đình nhiều khi hỏng bét.

Tài và phúc xung chiếu: Muốn có tiền thì phải bớt tình, bớt nhân hậu đi, tuy nhiên phải có phúc mới làm giàu lâu bền

….

Có thể nói nhiều nữa về các mối quan hệ này. Ta có thể lợi dụng các mối tương quan đó mà lựa chọn trong vòng hẹp những kịch bản khác nhau cho cuộc đời mình.

Còn một kiểu quan hệ nữa cũng có ích cho việc sửa số. Đó là các chòm tinh đẩu. Ví dụ kinh điển mà tôi từng được dạy như sau:

Giả sử hạn có Đà la + Thiên mả + Song hao thì rõ ràng là chỉ tay nạn tay chân. Nhưng mả + hao cũng có nghĩa là đi xa và tốn kém. Nếu người có lá số có cung thiên di đẹp (có hóa khoa càng hay), mả tốt thì có thể tránh né được bằng cách đi xa và chủ động chi nhiều tiền cho chuyến đi. Người ta vẫn hay nói “của đi thay người”, có khả năng Đà la sẽ giảm nhẹ chỉ còn là điều tiếng qua lại hay bực bội qua loa thôi. Cách này cũng có cái nguy là nếu chủ động đi xa thì cũng là tạo cái duyên để bị tai nạn xe cộ. Biết sao được, cái gì cũng có hệ số rủi ro của nó vả lại nếu không đi thì liệu có tránh được không.

* Như ta biết, có những tai nạn bất ngờ như đang đi bị vật nặng rơi trúng đầu, phạm sai lầm gì đó khi thao tác như sai lầm khi lái xe, sử dụng thiết bị điện … hoặc nói lỡ một câu làm cho người khác thù ghét … vv. Nếu vẫn duy trì niềm tin rằng không có gì là ngẫu nhiên thì có thể nói những sự cố này là có thể tránh được. 2 phần tiếp theo bàn về cách cải đổi số mệnh liên quan đến những sự cố nêu trên.

4. Chu kỳ sinh học:

Nhiều chuyên gia cho rằng vào những giai đoạn chuyển tiếp nhất định, con người hay gặp tai nạn. Các bác sĩ tâm thần cho rằng vào những đêm trăng, dù bị giam trong những căn phòng kín mít, các bệnh nhân tâm thần vẫn gào thét dữ dội hơn do thần kinh con người vào thời kỳ này mẫn cảm hơn. Ngược lại, binh pháp Tôn tử cũng dạy rằng không nên hành quân vào những ngày cuối tháng vì lúc đó tâm trạng binh lính âm u, kém hưng phấn và kém nhạy bén.

Nếu muốn dụ địch để phục kích thì tốt nhất là làm vào sáng sớm vì “Sáng hứng khởi, trưa mệt mỏi, chiều u buồn, tối suy tư”. Lúc đang hứng khởi mà thắng thì tất nhiên kẻ thù sẽ hăng hái truy kích và trúng kế.

Qua những ví dụ trên thì ta thấy người xưa đã hiểu rất rõ chu kỳ sinh học của con người. Có nhiều software tính toán chu kỳ sinh học và cảnh báo những ngày nguy hiểm, tuy nhiên, cách tính đó quá thô sơ so với những chu kỳ có trong lá số tử vi và cách tính của phương đông.

Nếu nhìn tử vi như là sự chồng chất lên nhau của nhiều chu kỳ và điểm trùng phùng của nhiều điểm nguy hiểm của các chu kỳ khác nhau là một hạn nguy hiểm thì chúng ta thấy có thể tránh được nếu hiểu rõ các chu kỳ đó.

Ví dụ có sách cho rằng vào thời điểm tuần triệt (tiểu hạn tuần triệt hay đại hạn tuần triệt) tuyến tụy của con người hoạt động mạnh lên và làm cho con người trở nên bạo dạn hơn. Đối với người tính tình bất cẩn thì những lúc này thường dễ gây tai nạn. Như vậy, nếu ta tập trung hơn, ăn uống đúng cách để điều hòa nội tiết trong cơ thể (ngày nay việc này thật dễ dàng) thì có thể tránh được trục trặc này.

Như chúng ta đã biết, tinh đẩu không chỉ vượng tướng hưu tù trên lá số mà nó cũng vượng tướng hưu tù theo thời gian. Ví dụ mùa hè hay năm có nạp giáp hành hỏa thì sao Vũ khúc thuộc kim sẽ yếu, những ai Vũ khúc thủ mạng thì dễ dàng mắc sai lầm vào mùa này. Vậy nên thận trọng vào những lúc này và tìm cách bồi bổ hành kim.

Những thầy tướng, tử vi mà xuất thân từ đông y rất mạnh kỹ thuật này.Trong khuôn khổ bài này tôi không dám bàn rộng vì sợ múa rìu qua mắt các vị này.

5. Tâm lý học:

Trong lời tựa quyển “Freud thật sự đã nói gì” có đoạn đại khái như sau: giả sử bạn bước chân ra khỏi nhà để làm một chuyện quan trọng mà bị vấp chân, suýt ngã và bạn quay vào quyết định không đi nữa. Một số người sẽ cho là bạn mê tính và chê cười bạn. Nhưng Freud sẽ cho là bạn có lý. Nguyên nhân là vì Freud cho rằng có gì đó không ổn trong tiềm thức của bạn và sâu thẳm trong vô thức, bạn biết rằng bạn khó mà thành công được.

Như phần mở đầu đã nói, Phật từng xác nhận ý là nghiệp. Nếu ta có thể nhìn thẳng vào lòng mình, hiểu rõ chính mình và đối chiếu với những gì thấy được bằng xem số, có thể ta sẽ mò được cái gì trong tâm tưởng ta có thể là nguyên nhân gần của những thời vận không tốt của mình. Cách này rất tốt và dễ làm đối với người biết Thiền. Nhưng với những người khác thì quả là khó.

Thế nên tôi đề nghị một cách nữa là nghiên cứu kỹ và tự hiểu chính mình. Phân tâm học cho rằng có những bản năng cơ bản chi phối hành động con người từ trong tiềm thức. Cơ bản nhất là tính dục, bản năng sống và bản năng chết. Trong quyển tử vi tổng hợp, Nguyễn Phát Lộc cho rằng đến hơn 60% các sao trong tử vi có liên quan dục tính. Xem ra thì điều này quả thật không có gì là đáng ngạc nhiên. Nếu như hiểu được tâm lý của mình và giải phóng năng lượng tâm lý một cách phù hợp thì ta sẽ làm chủ được một phần đáng kể số mệnh của mình.

6. Kết luận:

Để sửa đổi số mệnh hay phần nào tránh được những cái xấu trong tương lai thì có thể theo những gợi ý trong kinh Dịch mà chúng ta có được qua quẻ Hà lạc.

Những người rành về chu kỳ sinh học và đông y có thể tìm thấy sự liên quan giữa tử vi và những chu kỳ của đời người. Ngày nay với những thông tin đầy đủ và y học hiện đại, người ta có khả năng thay đổi đáng kể những ảnh hưởng của các chu kỳ này.

Những người có khả năng thiền định có thể chỉ ra được nhân duyên của những nghiệp chướng mà mình phải gánh và có thể có cách tu thân phù họp. Trường hợp hiểu biết sâu xa về tâm lý thì đây cũng là một gợi ý hay để biết phải làm gì để tránh những rủi ro trong tương lai.

Những điều nêu ra ở trên thật sự không dễ làm và cũng chưa đâu vào đâu. Người viết chỉ mong nêu được vấn đề để mọi người cùng nghiên cứu và những cao nhân đã từng nghiên cứu sâu xa hơn chỉ giáo thêm cho ở những chỗ đúng, vạch cho thấy những chỗ sai lầm, người viết sẽ vô cùng cảm kích.

(Theo Blog SimonPham)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button