Tử vi

Nghiệp trong tử vi

Trước hết, về các sắp xếp các cung trên lá số Tử Vi, chúng ta thấy các cung này được sắp xếp theo chiều ngược kim đồng hồ. Tại sao vậy? Các nhà huyền học quan niệm nghiệp hữu bao gồm nghiệp chướng, phát xuất từ tiền kiếp, nên phải đi ngược trở lại vòng thời gian mới có thể khám phá ra nghiệp thế hữu trong cuộc sống hiện hình của con người. Do đó, trên lá số, tiến trình của một cuộc đời đã được sắp xếp theo cách vận hành ngược chiều kim đồng hồ. 

Như đã nói ở trên, lá số Tử Vi bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp nên cung khởi đầu trên lá số là cung Phúc Đức chứ không phải cung Mệnh như nhiều người thường tính. Cung Phúc Đức biểu tượng cho tiền kiếp và dòng họ. Từ dòng họ phát sinh ra Phụ Mẫu, Phụ Mẫu sinh ra đương số là Mệnh. Sau Mệnh là Huynh Đệ (anh em) rồi mới đến Phu Thê (vợ chồng). Có Phu Thê rồi mới có Tử Tức (con cái). Đó là phần nôi vi chủng thể. Kế đến là phần ngoại vi tiếp thể, bào gôm Tài Bạch (của cải), Tật Ách (họa, phúc, an nguy), Thiên Di (giao dịch với bên ngoài), Nô Bộc (tương quan với bên ngoài), Quan Lộc (công danh sự nghiệp), và Điền Trạch (bất động sản). Điền Trạch cũng là bản kết toán của cả cuộc đời (quy hương tổng luận). 

Mười hai cung trên lá số được gọi là Thập Nhị Nhân Duyên, tức 12 cung nguyên độc lực cấu thành số Mệnh của con người. Có người còn coi Thân là tác nhân thứ 13, nhưng huyền học coi Thân chỉ là mặt động, phần dụng của Mệnh mà thôi, nên sẽ được xét cùng một lúc với Mệnh.

Bạn đang xem: Nghiệp trong tử vi

Phúc Đức: Huyền học quan niệm Phúc Đức là “Bản lai diện mục nhân thần”, có nghĩa là hình trạng nguyên có trước của mỗi người, bao gồm cả di sản vật chất lẫn tinh thần. Nói theo Phật học, Phúc Đức biểu hiện cái tiền kiếp của đương số. Hiện kiếp tốt xấu phần lớn do tiền kiếp. Dù theo quan niệm nào thì Phúc Đức cũng đóng vai trò quan trọng, vì được coi là cái gốc của Mệnh. Huyền học coi Mệnh tốt không bằng Phúc tốt. Phát nhờ Phúc bền hơn phát nhờ Mệnh.

Cuộc đời của từng con người qua một tiến trình được Mệnh danh là “tiến trình Hoàn, Giải, Đoạn nghiệp” (trả nghiệp củ, giải nghiệp rồi đoạn nghiệp), vì thế trên lá số bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp. Các nhà huyền học đã hình dung tiến trình đó qua các sao và các cung sau đây:

Sao Tuyệt: đặc trưng cho nghiệp luận hữu. Nhìn cung có sao Tuyệt có thể luận công tội của một người trong tiền kiếp.

Cung Phúc Đức: đặc trưng cho nghiệp thụ hữu. Nhìn cung Phúc Đức có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hậu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.

Cung Mệnh: đặc trưng cho nghiệp thể hữu. Nhìn cung Mệnh có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hẩu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.

Sao Đẩu Quân: đặc trưng cho nghiệp cá hữu. Nhìn cung có sao Đẩu Quân có thể luận ra phần nghiệp thuộc cá nhân một người.

Sao Thái Tuế: đặc trưng cho nghiệp cộng hữu. Nhìn cung có sao Thái Tuế có thể luận ra các nghiệp dòng họ, gia đình và xã hội tạo nên. Cái nghiệp mất nước năm 1975 là một cái nghiệp cộng hữu. Đó là vận nước đến lúc mạt. Nghiệp cộng hữu rất khó đoán, vì phối hợp với các khoa mới đoán được. Bình thường, chúng ta chỉ có thể luận về tính nặng nhẹ của cộng nghiệp mà thôi.

Cung Điền Trạch: đặc trưng cho nghiệp tồn hữu. Nhìn vào cung Điền có thể thấy ở đó bảng kết toán cuộc đời. Cung Điền tốt báo hiệu một hậu vận tốt.

————————————————————-

Sưu tầm: nguồn TVLS; Tác giả: Thiên Ký Quý

(Dẫn theo trang vuihoctuvi.blogspot.com)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Nghiệp trong tử vi

Trước hết, về các sắp xếp các cung trên lá số Tử Vi, chúng ta thấy các cung này được sắp xếp theo chiều ngược kim đồng hồ. Tại sao vậy? Các nhà huyền học quan niệm nghiệp hữu bao gồm nghiệp chướng, phát xuất từ tiền kiếp, nên phải đi ngược trở lại vòng thời gian mới có thể khám phá ra nghiệp thế hữu trong cuộc sống hiện hình của con người. Do đó, trên lá số, tiến trình của một cuộc đời đã được sắp xếp theo cách vận hành ngược chiều kim đồng hồ. 

Như đã nói ở trên, lá số Tử Vi bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp nên cung khởi đầu trên lá số là cung Phúc Đức chứ không phải cung Mệnh như nhiều người thường tính. Cung Phúc Đức biểu tượng cho tiền kiếp và dòng họ. Từ dòng họ phát sinh ra Phụ Mẫu, Phụ Mẫu sinh ra đương số là Mệnh. Sau Mệnh là Huynh Đệ (anh em) rồi mới đến Phu Thê (vợ chồng). Có Phu Thê rồi mới có Tử Tức (con cái). Đó là phần nôi vi chủng thể. Kế đến là phần ngoại vi tiếp thể, bào gôm Tài Bạch (của cải), Tật Ách (họa, phúc, an nguy), Thiên Di (giao dịch với bên ngoài), Nô Bộc (tương quan với bên ngoài), Quan Lộc (công danh sự nghiệp), và Điền Trạch (bất động sản). Điền Trạch cũng là bản kết toán của cả cuộc đời (quy hương tổng luận). 

Mười hai cung trên lá số được gọi là Thập Nhị Nhân Duyên, tức 12 cung nguyên độc lực cấu thành số Mệnh của con người. Có người còn coi Thân là tác nhân thứ 13, nhưng huyền học coi Thân chỉ là mặt động, phần dụng của Mệnh mà thôi, nên sẽ được xét cùng một lúc với Mệnh.

Phúc Đức: Huyền học quan niệm Phúc Đức là “Bản lai diện mục nhân thần”, có nghĩa là hình trạng nguyên có trước của mỗi người, bao gồm cả di sản vật chất lẫn tinh thần. Nói theo Phật học, Phúc Đức biểu hiện cái tiền kiếp của đương số. Hiện kiếp tốt xấu phần lớn do tiền kiếp. Dù theo quan niệm nào thì Phúc Đức cũng đóng vai trò quan trọng, vì được coi là cái gốc của Mệnh. Huyền học coi Mệnh tốt không bằng Phúc tốt. Phát nhờ Phúc bền hơn phát nhờ Mệnh.

Cuộc đời của từng con người qua một tiến trình được Mệnh danh là “tiến trình Hoàn, Giải, Đoạn nghiệp” (trả nghiệp củ, giải nghiệp rồi đoạn nghiệp), vì thế trên lá số bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp. Các nhà huyền học đã hình dung tiến trình đó qua các sao và các cung sau đây:

Sao Tuyệt: đặc trưng cho nghiệp luận hữu. Nhìn cung có sao Tuyệt có thể luận công tội của một người trong tiền kiếp.

Cung Phúc Đức: đặc trưng cho nghiệp thụ hữu. Nhìn cung Phúc Đức có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hậu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.

Cung Mệnh: đặc trưng cho nghiệp thể hữu. Nhìn cung Mệnh có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hẩu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.

Sao Đẩu Quân: đặc trưng cho nghiệp cá hữu. Nhìn cung có sao Đẩu Quân có thể luận ra phần nghiệp thuộc cá nhân một người.

Sao Thái Tuế: đặc trưng cho nghiệp cộng hữu. Nhìn cung có sao Thái Tuế có thể luận ra các nghiệp dòng họ, gia đình và xã hội tạo nên. Cái nghiệp mất nước năm 1975 là một cái nghiệp cộng hữu. Đó là vận nước đến lúc mạt. Nghiệp cộng hữu rất khó đoán, vì phối hợp với các khoa mới đoán được. Bình thường, chúng ta chỉ có thể luận về tính nặng nhẹ của cộng nghiệp mà thôi.

Cung Điền Trạch: đặc trưng cho nghiệp tồn hữu. Nhìn vào cung Điền có thể thấy ở đó bảng kết toán cuộc đời. Cung Điền tốt báo hiệu một hậu vận tốt.

————————————————————-

Sưu tầm: nguồn TVLS; Tác giả: Thiên Ký Quý

(Dẫn theo trang vuihoctuvi.blogspot.com)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button