Tử vi

Bài viết về tử vi của tác giả Thiên Kỷ Quý

Kính chào tất cả quý vị đam mê Tử Vi,

Thật đáng mừng anh VDTT mở ra chủ đề này để các bạn bỏ cái Ta mà cùng nhau nhìn về Học Thuật. Quả nhiên từ ngày anh VDTT trở lại TVLS đã có một sắc thái mới. Thật đáng mừng!

Thật tình mà nói sỡ dĩ trên đời vẫn hiện hữu những lá số thế này để những người đam mê Tử Vi mới tiến mãi không ngừng, vì không thể giải thích được nên mới gãi đầu bức tai mà động não.

Bạn đang xem: Bài viết về tử vi của tác giả Thiên Kỷ Quý

Ở đây tôi xin gợi ý để các bạn nhìn rõ hơn một tí về Dịch Lý.

– Nếu bảo rằng Mệnh cư Tuyệt địa thì như vậy Thuỷ Mệnh mừng gặp Thuỷ Diệu sinh trợ, cớ sao Tiểu Vận gặp Tham Lang cư Hợi, Lưu Thái Tuế đến Sửu đắc Thiên Tướng Thuỷ, và còn thêm Tiểu Vận và Lưu Tuế ở Hợi Sửu củng hợp cung Tật ở Tí có Cự Môn cũng Thuỷ mà lại bị Thuỷ nạn?

Vì theo lý thuyết Mệnh Thuỷ cư Tuyệt địa nên xấu thì làm sao một người Thuỷ Mệnh bị Tuyệt Địa tối hỷ gặp Thuỷ, lại 3 cung Hợi Tý Sửu Thuỷ Phương và trong các cung ấy cũng toàn là Thuỷ Diệu mà bị nạn về sông nước thì thật là vô lý. Cho nên nếu cho rằng vì Mệnh cư Tuyệt Địa hạn hành Thuỷ vượng là chỗ chết thì sai Lý Dịch.

Khi vấn đề này được nêu lên thì, chúng ta thấy rõ ràng Thuỷ là Kỵ của Mệnh Thuỷ chứ không phải là Hỷ, nên chi nếu cho rằng Thuỷ Mệnh cư Tuyệt địa trong trường hợp này xấu là không đúng Dịch Lý. Bởi nếu Thuỷ cư nơi Tuyệt địa Hỏa Vượng thì người này lẽ ra phải bị nạn hoả tai, bị bỏng… hay chết ngạt dưới đường hầm vì Hỏa Thố thịnh chứ không thể bị thuỷ tai, đơn giản là thế! Nhưng ở đây rõ ràng là bị Thuỷ Nạn thế thì giải thích làm sao?

– Nếu bảo rằng vì gặp Không Kiếp tại Mệnh và Liêm Tham ở Di nên gặp họa, thế xin hỏi nếu đương sự sinh tháng 4 thay vì tháng 10 giờ Tí (tức sinh năm Ất Dậu tháng 4 ngày 14 giờ Tí) tại Di gặp cả Không Kiếp Liêm Tham thì có thể đoán như vậy được không? Dĩ nhiên, trong trường hợp này thì không, vì sinh tháng 4 Hỏa quá vượng rõ ràng Thuỷ là cái mừng được gặp sao có thể bị Thuỷ nạn được. Nạn gì thì được chứ Thuỷ Nạn thì không thể vì dù có rớt xuống nước cũng có người cứu lên ngay. Nếu sinh tháng 4 thì đổi lại Bạch Hổ Không Kiếp thêm cái Hỏa nóng tháng 4 sẽ khó tránh bệnh máu huyết xương cốt! Đây là những câu hỏi người nghiên cứu Tử Vi không thể không tự đặt ra khi có một trường hợp thật tốt hay thật xấu thì phải lập tức lật ngược vấn đề lại xem thử nó ra sao. Cho nên vấn đề này cứ nhắm mắt đoán đại thì may cơ hội đúng 7 lần, nhưng nếu xui gặp 3 lần như sinh tháng 4 giờ Tí bị sai thì cũng là chuyện bình thường thôi.

– Còn như cứ thấy Không Kiếp Tỵ Hợi cho rằng phát thì, dĩ nhiên trong trường hợp những người sinh năm tháng ngày giờ như cháu bé này thì không thể có, bới lên 4-13 là tan nát rồi làm gì hưởng được cách phát dã Tỵ Hợi. Nếu là người sinh trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu thì người Kỷ Dậu, Đinh Tỵ có phát có phá, dù bị phá cũng không đến nổi tận phá. Chỉ có người Đinh Sửu là người được hưởng nhiều nhất vì tuy bị phá nhưng vẫn giữ được nhiều. Ở đây chúng ta chỉ nói về 3 tuổi Tỵ Dậu Sửu thôi, còn nếu nói đến các tuổi khác thì cũng sẽ có những tuổi và những tháng đặc biệt vẫn được hưởng những cách đặc biệt không bị phá. Thế nên cứ nhắm mắt đoán phát hay phá thì hên cũng vẫn cứ đúng mà xui thì vẫn cứ sai như thường.

Tóm lại vì những điều nói ở trên nên trong Tử Vi bất kể là người học lâu học mau, người giỏi hay người dỡ, trong đời nếu gặp lúc xui đoán sai là bình thường; còn khi hên đoán đúng cũng là chuyện rất bình thường. Trừ những người làu thông các môn, lại gặp may mắn mới mong tránh khỏi những sai lầm, còn như lúc gặp xui tinh thần tối tăm không cân phân chi ly, trật một ly cũng sai một dặm như thường. Chỉ là cơ hội ít sai hơn những người khác mà thôi, chứ chẳng phải là không có sai.

Theo tôi thì lá số này vì đương số sinh tháng 10 mùa Đông Thuỷ vượng, tuy Mệnh đóng cung Tỵ nhưng là Kim Tứ Cục Bạch Hổ Kim ngộ Không Kiếp bại Cách, tính khí quá cương mãnh. Mệnh Vô Chính Diệu nên cung Hợi làm chính có Tham Lang, giáp Cự Kỵ, Lưu Hà, Riêu, mà Tham Lang Mộc đới Thuỷ thành Thuỷ Tai. Chúng ta xem tất cả những ca chết đuối của Tham Lang sẽ thấy Tham Lang thành Thuỷ nạn bao giờ cũng phải hội với Cự Đồng, Riêu Đà Kỵ, Lưu Hà hoặc các sao Thuỷ Diệu ở Vận Hạn mà thành tai họa vì Thuỷ quá vượng. Trong trường hợp này thì Tiểu Vận đến Hợi giáp hợp các sao nói trên, và Lưu Thái Tuế đến Sửu gặp Thiên Tướng, Long Trì, Thanh Long cũng đều là Thuỷ, Thuỷ mệnh sinh tháng 10 Thuỷ tràn lan, chỉ một Thiên Phủ ở cung Quan xa vời, lại đóng cung Dậu Kim vô lực cứu không nổi.

Lưu Thái Tuế xung kích Phúc cung và đó cũng là cung Đồng Hạn để cho Tuần Triệt Xuất Không nhờ người bác sĩ trong dòng họ tận tình cứu chữa; Tử Vi lẽ ra Thổ ở Mùi là Thổ nóng ấm áp giải được cái nạn Thuỷ tràn lan, cứu trợ mà có được đâu vì Tử Vi hóa thành Khoa (Thuỷ) phối với Phá Quân cũng là Thuỷ nốt, nên chỉ có thể cứu sống mà không thể cứu thoát.

Nhưng nếu đổi lại đương sự sinh tháng 4 thì sẽ khác rồi vì giờ đây Thuỷ càng nhiều thì càng tốt vì sẽ giải được cái họa Mệnh cư Tuyệt địa nhờ Tuyệt xứ phùng sinh.

Nên chi xem Tử Vi mà không nắm rõ cương lĩnh của tháng sinh thì làm sao có thể phối hợp với Ngũ Hành của Cục mà định Ngũ Hành sinh vượng để có thể biết rõ gặp sao nào xấu hay tốt cho bản Mệnh. Bởi không có tháng Nạp Âm của cung an Mệnh thì làm gì có Cục, vậy làm sao biết Ngũ Hành nào trong Mệnh vượng hay suy? Chính vì vậy chúng ta mới thường thấy những anh Giáp Dần, Giáp Thân Tử Phủ cư Dần gặp thêm Lộc Tồn, Tràng Sinh vô Sát Tinh tuy có làm bác sĩ, hay kinh doanh có nét ông chủ to mà vẫn không đủ tiền xài chỉ vì Hỏa Cục Tràng Sinh tại Dần bị Tử Phủ Lộc Tồn Thổ khắc chế thái quá, Vận lại chuyển về Nam nên cả đời vất vả. Vậy mà các Thầy cứ nhìn những lá số này là phán cực kỳ tốt vì lắm trường hợp ôm cả 3 vòng Tràng Sinh, Lộc Tồn (Bác Sĩ), Thái Tuế… Thật ra cách này gọi là thân thể xì ke, mặc áo vua đóng tuồng cho vui vậy thôi, chẳng làm được chuyện gì đại sự. Nhưng nếu đương sự sinh tháng 7 mùa Thu hay tháng 11 mùa Đông thì phải tốt hơn những người kia là chuyện đương nhiên. Hoặc giả nếu là nữ phái nghịch chuyển về Bắc và Tây Phương thì không là Mệnh Phụ Phu Nhân sao được.

Nếu chúng ta đọc lại sách của Cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang Phần II trang 48 phần:

1. Thuận Lý hay Nghịch Lý Giữa Năm Sinh Với Tháng Sinh…

2. Tương Sinh hay Tương Khắc Giữa Năm Sinh với Tháng Sinh…

Tiếc là sách Cụ có dẫn ra vấn đề tháng sinh và năm sinh, nhưng suốt quyển sách ấy không cho một ví dụ cụ thể nào về nó. Lúc đó tôi nghĩ tác giả chỉ nói đùa cho vui thôi, không ngờ sau này khi nghiên cứu sâu mới hiểu được. Cũng có thể chính tác giả chỉ được nghe nói về sự quan trọng của tháng sinh nhưng tự thân cũng chưa nghiên cứu sâu hay chưa biết áp dụng ra làm sao nên nói về nó rất hời hợt và phiến diện. Nhưng vẫn cho thấy vấn đề này đã có từ xưa không phải tự tôi mới phát minh ra nghĩa lý này.

Vài dòng chia sẻ những nét đại cương trong hệ thống tôi dùng để đoán Tử Vi trong vòng 8 năm nay, nên không thể nói vài câu mà hết ý được.

Chúc mọi người nghiên cứu vui vẻ và sớm thăng tiến trên đường Học Thuật.

Kính thưa quý vị,

Tôi có cái nhìn thế này, chúng ta có thể luận giải bằng bất cứ phương pháp nào chúng ta muốn, nhưng phải giải thích được 70% tất cả các lá số, trong tất cả các trường hợp tương tự và nhất quán, không thể lúc đoán thế này lúc đoán thế nọ; còn nếu chỉ đúng 50% hoặc ít hơn thì phương pháp đó chưa đủ tin cậy.

Vì Phuongmai06 đã hỏi thì tôi cũng xin trả lời với những lá số thật mà tôi đã được những người trên TVLS hỏi và đã trả lời cho họ nên tiện thể viết ra đây để mọi người tham khảo.

Người thứ nhất Nam sinh năm Giáp Thân tháng 1 ngày 21 giờ Tí (âm lịch).

Trước kia không quen biết, đương sự đến nhờ tôi xem số, tôi đoán:

Mệnh Thuỷ cư Dần cung, sinh tháng Dần Thuỷ Bệnh ở tháng Dần lại bị Tử Phủ Lộc Tồn Thổ tràn ngập còn thêm Hỏa Tinh đắc địa khắc chế bế tắc. Số này là người trọng hậu, hiền lành, đạo đức, cả đời nhờ vợ mà nhàn hạ, chỉ được cái mã là ông chủ lớn thế thôi, tự thân bất đắc chí chẳng làm nên chuyện gì đại sự.

Thực tế: Tuổi trẻ đi lính, chưa được cấp bậc gì cao 75 đến ở tù, vợ bỏ. Vượt biên qua Mỹ sau lấy vợ lại, nhờ vợ làm tiệm nail nên tiền bạc cùng tạm dư sống. Đương sự hơn mười năm kinh doanh thất bại khoảng 5 lần cho đến gần 60 tuổi thì nghỉ luôn ở nhà phụ vợ chà móng tay và mua vật dụng cho đến giờ.

Số này Thuỷ suy kiệt, cần nhất hành Vận Bắc Phương, qua Tây Phương thì cuộc đời hạnh phúc, ít ra không phải đại gia thì cũng là triệu phú nhỏ, có thua ai. Đó cũng là lý do vì sao tôi đoán suốt đời chỉ ăn nhờ vào vợ vì cung Thê cư Tí, Phá Quân Thuỷ Hóa Lộc.

Người thứ nhì Nữ sinh năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 30 giờ Dần (âm lịch).

Người này có một người trên TVLS mang đến hỏi tôi lá số của cô ta về việc ly dị. Sau khi bàn hưu tán vượn, tôi bảo cứ theo lý thuyết của tôi như đã trình bày nhiều lần với anh ta thì đoán rằng người này chẳng làm được chuyện gì cả chỉ là một người bình thường thôi. Người đó hỏi tôi, “vì sao Mệnh có Tam Hóa chiếu, tuy bị phá, nhưng Thân có Hóa Quyền mà không lẻ tệ vậy sao”? Tôi bảo, “vì Mệnh Thuỷ mà sinh tháng 8 lại là Thuỷ Cục, Mệnh có Đà La Kim sinh trợ, Thân lại đóng ở Hợi còn thêm Thiên Đồng sinh trợ Thuỷ tràn ngập, dù có Khoa Quyền Lộc cũng chỉ là anh dân quèn mặc áo vua đóng tuồng thôi đâu làm được chuyện gì huống là chỉ có một hóa Quyền đắc địa ở Thân thì ăn thua gì. Hơn nữa, lại đang hành Vận ở Hợi thì càng thêm tệ vì Thuỷ tràn lan không có Mộc Thổ vượng lấy gì để giải cứu”! Người đó vẫn bán tín ban nghi, đi hỏi lại đương số. Quả nhiên đương số chỉ là nhân viên làm việc giây chuyền bình thường thôi.

Số người này nếu là Dương Nữ chuyển nghịch về Nam về Đông Phương thì cũng thi thố được với đời, đâu đến nổi hữu tài vô dụng.

Người thứ 3 Nam sinh năm Đinh Mão tháng 7 ngày 5 giờ Dần (âm lịch).

Người này đã hỏi rất nhiều người lá số của mình trên TVLS cũng như ở ngoài đời và nhiều người cho rằng sai giờ sinh, mặc dù anh ta xác định chắc chắn là giờ sinh chính xác. Tôi xem qua thì đoán rằng: “Người Mệnh Lô Trung Hỏa sinh tháng 7, khí hóa vừa Bệnh nhưng vì Mệnh đóng tại Ngọ là nơi Hỏa cực vượng lại còn thêm Thiên Lương sinh trợ nên Hỏa quá thịnh, may nhờ Lộc Tồn Thổ sinh cho Văn Khúc giải bớt Hỏa lực, lại là Thuỷ Cục, tuy Thuỷ suy ở Ngọ nhưng hễ Vận trình gặp các sao Thuỷ và sau 32 tuổi qua cung Thân được Thiên Đồng Thuỷ ở nơi Quan Đới của Thuỷ Cục hữu khí thì về sau sẽ khá hơn. Vận hành Thìn giải nhiệt Hỏa là nơi Mộ khố của Thuỷ Cục nên Thuỷ có gốc, Cự Môn Hóa Kỵ Thanh Long Thuỷ có vợ thì có lợi. Tuy có bị tai tiếng tí nhưng còn lại là tôt. Số nhờ lấy vợ được lợi, vì gặp Vận Xung Không để Thiên Đồng Hóa Quyền ở cung Thân. Nói chung từ nhỏ cho đến 22 tuổi thì chẳng làm được chuyện gì, cho đến cung Thìn bắt đầu mới định tĩnh mà tiến thân. Tuổi trẻ nhờ Thiên Lương Ấm Tinh nên nhờ phúc cha mẹ thương yêu chiều chuộng, nên ngoài ăn chơi sa đọa ra, thì làm việc gì cũng thất bại. Tuy là người có năng lực, có tài mà vô dụng”.

Đương sự xác nhận đây là lần đầu tiên đã có người gỡ được gút rối trong lòng từ hơn 5 năm nay. Dĩ nhiên, tôi con xem nhiều thứ khác cho đương số, nhưng chỉ dẫn ra lý do vì sao xấu. Hiện tại đương sự vẫn đang theo dõi mục này.

Người thứ 4 Nam sinh năm Ất Tỵ tháng 8 ngày 24 giờ Tí (âm lịch).

Người này Mệnh Hỏa sinh tháng 8 Hỏa đã đến Tử Địa, mà còn thêm Thuỷ Cục lại đóng ngay cung Dậu thêm Vũ Khúc, Thất Sát đều là Kim sinh trợ cho Thuỷ Cục nên Mệnh đã xấu càng thêm xấu. Xuất thân gia đình chuộng học vấn, anh em ai mà được chế độ cho học hoặc qua Mỹ được thì đa số là Bác Sĩ, Dược Sĩ, riêng đương sự chẳng học hành gì cả. Suốt đời cũng chẳng làm nên tích sự gì, không vợ không con, không nghề nghiệp…

Số này mừng Vận chuyển Nam Phương và Đông Phương, mừng gặp các sao Mộc Hỏa, tối kỵ gặp các sao Thuỷ và các cung Thổ khắc Tiết Mệnh Hỏa vốn đã cực suy nhược rồi. Mãi cho đến 42 tuổi chịu khó làm được 2 năm Bính Tuất, Đinh Hợi làm ngày làm đêm overtime để dành được 70 ngàn USD rồi về VN sống, vì gia đình xây nhà để ở VN chẳng ai thèm về ở, chỉ mình anh ta ở. Cứ ở VN 6 tháng hay 1-2 năm rồi về lại Mỹ xin Visa rồi đi VN tiếp. Năm Đinh Hợi vợ tôi hỏi, “liệu anh ta sẽ làm thêm không”? Tôi nói, “không thể nào làm hết năm Đinh Hợi đến mùa Đông sẽ tự động nghỉ thôi”. Quả nhiên đúng như vậy.

Cứ theo viễn ảnh thì rõ ràng 62 tuổi đến cung Mão Tuần Xuất Không Điền Thật, Lộc Tồn đó anh ta phải hưởng được vì cung Mộc đủ sinh cho Mệnh Hỏa và Hoả Tinh đắc địa có Thiên Phủ chế ngự vừa đủ thành Mệnh Hỏa vượng, nên chắc chắn căn nhà ở VN mới xây, trị giá trị 3-4 trăm ngàn USD anh ta sẽ thừa hưởng. Vì bên vợ của tôi ai cũng là Bác Sĩ Dược Sĩ cả, đâu ai muốn chia với anh ta. Những người anh ở trên tuy nghèo nhưng đến đó đã chết hết rồi còn ai đâu nữa mà về VN chia của.

Người thứ 5 hiện là một thành viên của TVLS từ khoảng 5 năm nay. Nam sinh năm Tân Mão tháng 6 ngày 13 giờ Thìn (âm lịch).

Đương sự có nghiên cứu từ trong tù cãi tạo, sau này tham gia TVLS thì nhờ tôi cho vài lời lý giải. Tôi xem qua thấy Thái Âm ngộ Lộc Tồn ở Di cung và đoán rằng: “Số này xuất thân nghèo khổ, là người có thực tài, thực học, mà vô dụng, chẳng xài vô chỗ nào được”! Đương sự hỏi, phải chăng là vì Mệnh có Địa Kiếp, Quan bị Tuần”? Tôi bảo không phải. Vì Mệnh này tuy sinh tháng 6 nhưng Mệnh đóng ở Mão có Thiên Đồng, Thân lại đóng ở Hợi có Cự Môn hóa Lộc; là Mộc Tam Cục mà lại đóng Mệnh Thân ở Mão Hợi và được các sao Thuỷ sinh trợ, nên Mộc này là đại thụ, cành to gốc già, do Thổ tháng 6 được Thuỷ tưới nhuận vun bồi cho Mộc thành cực vượng. Cho nên số này không có đất dụng võ, vì không chuyển thuận về Nam và Tây Phương, nên vô dụng. Luôn cả Đại Vận ở cung Hợi có Hóa Lộc cũng chỉ là tàm tạm thôi.

Thực tế: Người này xuất thân nghèo khổ, cố gắng học trường lính khá giỏi, khi vừa ra sĩ quan, thì vừa đúng 75 nên ở tù. Sau khi ra tù thì có vợ, và khi vượt biên mất vợ, qua đến Mỹ học lấy được 2 bằng và có một bằng Master, và làm chưa được khá gì, chưa mua nổi nhà thì đùng một cái năm 2001 bị vụ 9-11, nên mất job. Năm Nhâm Ngọ là cuối cùng ở Tài Vận ở Hợi có Hóa Lộc, chính là năm khai phá sản, và thất nghiệp từ đó cho đến bây giờ. Anh ta cũng viết sách làm nghiệp dư, chẳng có tiền bạc gì.

Người thứ 6 Tôi không liên lạc được vì anh của đương số đã về lại VN. Người anh của đương số là thành viên của TVLS. Năm Kỷ Sửu khi qua thành phố tôi chơi thì cùng với người bạn trên TVLS nữa của tôi cũng có mặt nên đem lá số ấy ra hỏi. Nam sinh tuổi Giáp Dần hình như là sinh tháng 3 ngày (6,11,21) giờ Dần âm lịch thì phải. (Khi có cơ hối kiểm chứng tôi sẽ báo lại sau).

Đại khái để minh họa vấn đề là Mệnh có Tử Phủ, tuổi Giáp Dần, có Lộc Tồn, ôm ba vòng Lộc Tồn (Bác Sĩ), Tràng Sinh, và Thái Tuế. Người bạn tôi (cũng là người có tiếng tăm trên TVLS) xem xong và nói rằng lá số này xem thấy tốt quá. Người anh của đương số bảo rằng khi hỏi trên TVLS hay ở ngoài gì ai cũng nói vậy cả. Tôi lúc đó vừa cúp điện thoại mới hỏi người anh cho tôi xem lá số thử. Anh ta đưa lá số qua tôi liếc nhìn cung Mệnh không quá 1 phút (cũng tại cái tội xem nhanh mới quên ngày tháng), tôi đưa trả lá số lại cho anh ta và nói:

– Lá số này chỉ là vua mặc áo hát tuồng thôi, chả có gì cả, chỉ được một khả năng là làm bác sĩ, nếu không học bác sĩ thì thật là lạ.

Ông bạn tôi thì ngạc nhiên, còn người anh há hốc miệng hỏi tôi, “anh có thể giải thích lý do vì sao anh lại có thể đoán được như vậy không? Vì đúng là nó đang làm bác sĩ ở VN, nghèo lắm chỉ vừa đủ sống, em phải gửi tiền về cho nó hoài thôi. Nó chỉ được cái tài đi thuyết trình, là bác sĩ giỏi, nhưng thuyết trình chẳng có lương gì hơn, nên đến nay vẫn nghèo và chưa vợ”. Anh của đương sự là kỷ sư, được làm việc ở nước ngoài nên có tiền (năm ngoái đã về lại VN rồi).

Tôi nói:

– Thật ra đơn giản lắm vì người này người này Mệnh Thuỷ quá suy, bị Tử Phủ Lộc Tồn tặng cho cái mã quyền quý oai phong, có tiếng mà không miếng. Vận hành Phương Đông qua Nam nên Thuỷ đà suy càng kiệt nên nghèo, chẳng làm nên đại sự. Phải đến Vận ở cung Thân Thuỷ mới có khí, mới ngóc đầu lên nổi. Tiếc thay đến đó ngóc đầu lên thì cũng chẳng làm được gì vì đã già mất rồi. Chỉ là cuộc sống được tốt hơn thôi. Người này phải lấy vợ mới khá ra được, tiếc là cung Thê bị Tuần, nên có vợ thôi cũng chẳng phải dễ.

Tóm lại, với 6 trường hợp trên, nếu không nắm rõ Cách Cục và tháng sinh, thì cứ cho là sai giờ, nhưng thực ra không phải vậy. Cách xem của tôi chú trọng ở tháng sinh và Ngũ Hành của Mệnh. Nếu Mệnh dù có Khoa Quyền Lộc, mà suy quá, hay vượng quá thì cũng chỉ là kẻ mặc áo hát tuồng thôi, chẳng làm được gì đáng kể với đời cả. Những người làm được đại sự, thì phải là:

1. Những người sinh đúng tháng sinh, như người Mệnh Thổ sinh tháng 6, Mệnh đóng ở Dậu Vô Chính Diệu, Cách Cục tốt hành về phương Nam thì sẽ thành công. Nếu hành về phương Bắc qua Đông thì sẽ vất vả khó thành công, hoặc không thành công lớn.

2. Những người sinh đúng tháng sinh, như Mệnh Thổ sinh tháng Ngọ-Mùi, Mệnh đóng cung Mão có Tử Tham Vận hành qua Tây thì sẽ thành công, hoặc gặp những Vận có Kim vượng để chế Mộc tiết Thổ cũng sẽ thành công lớn.

3. Mệnh tuy suy nhưng Cách Cục tốt và may mắn sao thủ Mệnh đồng hành hay sinh trợ cho Mệnh, Vận lại hành về nơi sinh vượng của Mệnh thì sẽ thành công lớn. Như Mộc Mệnh Kỷ Hợi sinh tháng 6, Mệnh đóng cung thìn Mộc Tam Cục có Thiên Tướng, cây được Thổ ướt nuôi dưỡng, Vận chuyển về Đông và Bắc Phương nên thành công lớn có vài chục triệu USD. Hoặc như Bill Gate Ất Mùi sinh tháng 9 giờ Hợi, Thổ Cục Kim Mệnh ở Hợi gặp Thái Âm nên tuổi trẻ dỡ, nhưng Thân ở Dậu lấy Thái Dương làm nền tảng luyện Kim Dậu cung Vô Chính Diệu mà thành cực quý.

4. Lại như người Mệnh tuy suy, vì không được tháng sinh như người Kim Mệnh Tân Tỵ sinh tháng 5, Mệnh đóng cung Mão Kim Cục, tháng khắc Mệnh, Mệnh đóng tuyệt địa, nhưng nhờ Kim Cục, Thân cư Dậu có Thái Dương Thiên Lương nên làm bác sĩ mà giàu có tiếng tăm khi trưởng thành, mỗi năm làm vài triều USD. May là hành Vận Bắc qua Tây không bị Hỏa thiêu đốt, Thuỷ lại chế bớt Hỏa. Số này thua ông Bill Gate vì không được tháng sinh.

5. Thứ nữa là người Mệnh bị tháng khắc, lại bị Cục Khắc, Mệnh lại đóng ở cung sinh trợ cho Hành khắc Bản Mệnh, như người Mệnh Hỏa sinh tháng 10 giờ Mão, Thuỷ Cục, nhưng lại được sao Hỏa Thủ Mệnh là Liêm Trinh tại cung Thân. Cung Thân là nơi Tràng Sinh của Thuỷ Cục, nên Thuỷ quá mạnh bản Mệnh èo ọt, thế nhưng nhờ Liêm Trinh Hỏa là sao sinh trợ cho Mệnh, là Hỷ Thần của Mệnh nên là người tài năng tầm thường nhưng luôn gặp may mà thành công.

Trên đây tôi chỉ giới thiệu qua vài nét đại cương về người thật việc thật để các bạn tham khảo thôi, bởi không cách nào nói hết ý được, cho dù có viết ra thêm một quyển sách nữa mới mong nói hết ý. Điều này có lẽ tôi sẽ không làm, vì tôi đã nhận một người học trò và muốn trao lại hết tất cả những hiểu biết của tôi để anh ta thay tôi làm việc đó! Cho đến bây giờ thì anh ta chưa đủ sức vì mới học được 5 tháng, nhưng tôi tin chắc anh ta sẽ làm được trong thời gian lâu lắm là 3 năm nữa, nếu tôi có thời gian dạy anh ta mỗi ngày như bây giờ.

Sỡ dĩ tôi đưa ra những ví dụ thực tế ở trên là vì đa số những người nhờ tôi giải đoán những lá số này hiện đang có mặt tại TVLS, nên khi viết về những sự thật mình đã giải đoán vẫn cảm thấy thoải mái hơn.

Đây chỉ là một chút đóng góp vì sự thành tâm học hỏi của bạn Phuongmai06. Mong rằng tôi không phụ lòng kỳ vọng của bạn Phuongmai06. Đồng thời cũng mong giúp ích cho vài bạn hữu duyên.

Chúc tất cả quý vị sớm thăng tiến trên đường Học Thuật!

Thủy Thổ

TB, nếu được xin bạn Phuongmai06 đăng lá số giùm cho mọi người dễ tham khảo. Cảm ơn.

Kính chào bạn Phuongmai06 và các bạn đam mê Tử Vi,

Thật ra thì có lẽ bạn phải nghiên cứu nhiều mới mong hiểu được chứ không thể đọc qua mà áp dụng được liền đâu. Tôi nghiên cứu về điều này mỗi ngày từ năm Kỷ Mão mà mãi đến 2006 mới xây dựng xong cách lý luận và áp dụng. Thôi thì tôi đã gợi mở những điều bí mật của TV nên đành phải nói thêm vài điều nữa.

Xưa nay chúng ta thấy đa số mọi người cứ khi lập lá số xong thì thường phán rằng lá số này tốt vì Âm Dương thuấn lý, Cục sinh Mệnh, Mệnh sinh Cục hay Mệnh khắc Cục… Hoặc ngược lại là lá số này xấu vì Âm Dương nghịch lý, và Cục khắc Mệnh… Đôi khi có người cho Mệnh sinh Cục là xấu vì sinh Xuất. Rồi lại thấy nào là cung và Sao đồng hành với Mệnh là tốt, cung khắc Mệnh hay Sao là xấu…

Lại có nhiều người cho rằng Mệnh Hỏa Vận chuyển về cung Hỏa Mộc thì tốt, hoặc Mệnh Hỏa đến cung Kim Thủy thì xấu… Lại có người cho rằng xem Số Tử Vi chỉ cần xem Tinh Đẩu không cần biết Ngũ Hành là gì cả. Lại có người diễn giải TV bất kể cái gì cũng lấy Âm Dương để bàn, mà thực chất chẳng hề biết các Sao ấy Thánh Nhân dựng lập lên từ đâu cả. Lắm khi họ cũng chẳng biết Thực Thể của Âm và Dương là gì nốt, mà cứ bô bô giải thích về Âm Dương. Bởi nếu hiểu rõ Âm là gì và Dương là gì thì họ sẽ hiểu tại sao trai phải lấy vợ gái phải lấy chồng; Thánh Nhân (Dương) giáo hóa kẻ Ngu (Âm); và cũng hiểu rõ vì sao đảng cướp (Âm) chỉ có toàn bọn đầu trâu mặt ngựa (Âm) mà không thể dung nạp những kẻ sĩ (Dương); hoặc một đảng phái cách mạng vì Tổ Quốc (Dương) thì không thể dung nạp những kẻ Việt Gian (Âm)… Thế thì Âm Dương cũng có lúc hòa hợp, lại có lúc tan rã; và Dương với Dương cũng có lúc hòa hợp và Âm với Âm cũng thế. (Vấn đề này không thể không suy ngẫm mà có thể hiểu được). Lại có người hễ gặp các Sao hãm thì cho là xấu, vượng và đắc địa thì tốt… Thật ra, theo tôi, làm và hiểu như vậy thì vẫn là thiên lệch và chưa thông Dịch Lý nên mới có những nghiên cứu và suy luận như thế.

Đối với Dịch Lý thì vô tư, không có thiên lệch, cái gì cũng phải đúng với lẽ Tự Nhiên, nên cái gì nhiều quá hay ít quá cũng đều xấu cả, chỉ có trung hòa là tốt nhất mà thôi. Nhiều quá thì phải chế hay tiết bớt, ít quá thì phải phù trợ. Người Mệnh xấu, cũng như người thân thể có bệnh tùy bệnh chỗ nào (Ngũ Hành) mà chữa. Mà nói đến bệnh tật hay Mệnh Vận thì bốn mùa trong năm tháng sinh chính là cương lĩnh. Ngũ Hành tiêu tức đầy vơi phải có lúc lên lúc xuống, lúc mạnh lúc yếu đâu thể nào cứng nhắc ở một vị trí không tăng không giảm được. Thế thì làm sao một người Bản Mệnh được lệnh tháng sinh, được Cục, được cung Mệnh Thân sinh trợ và lại chuyển về những Phương sinh trợ thêm cho Bản Mệnh mà có thể cho là tốt được. Ví như thuốc bổ là dành cho những người suy yếu, còn một người đã cường tráng quá mức mà đem sâm nhung cho uống thì sống thế nào được.

Cho nên ta có thể lập thành một quy tắc từ tháng sinh thế này:

A. Hành Mộc:

1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.

2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.

3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.

4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).

5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).

6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).

7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.

8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).

9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.

10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.

11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.

12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.

B. Hành Hỏa:

1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.

2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để . Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.

3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.

4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.

5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.

6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.

7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.

8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!

9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.

10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.

11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.

12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.

C. HÀNH THỔ:

1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.

2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.

3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.

4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.

5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.

6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.

7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.

8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ.

9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.

10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.

11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.

12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.

D. HÀNH KIM:

1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.

2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ.

3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.

4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.

5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.

6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.

7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.

8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.

9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.

10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.

11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.

12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.

E. HÀNH THỦY

1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.

2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.

3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.

4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.

5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.

6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.

7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.

8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.

9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.

10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.

11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.

12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.

Chú Ý: Bài này dùng tháng để diễn giải khí của cung, tháng Giêng ở cung Dần chạy thuận 12 tháng đến cung Sửu là tháng 12. Tỷ như: Mệnh Thủy cung Mệnh ở Dần đành rằng Thủy ở Bệnh địa nhưng chưa hẳn là xấu. Nếu ở đó gặp Thủy của Cự Môn, Văn Khúc, lại được Hỏa của Thái Dương sưởi ấm là kỳ cách. Trường hợp Mệnh Thủy, Hỏa Cục mà ở cung Dần lại gặp Tử, Phủ (Thổ vượng địa), thì coi như Mệnh Thủy bế tắc, chỉ là người bình thường, tính tình hiền hòa, cẩn trọng, nhưng chẳng làm nên chuyện chi đại sự. Song nếu là người Vận nghịch thì lại tốt ít ra 60 năm đầu đi qua các Vận Bắc và Tây Phương nên Thủy có lực. Với cách luận giải nầy, ngày nay ta luận giải Tử Vi thấy khoa học và khá chính xác, lại cụ thể rõ ràng không mơ hồ.

Tuy nhiên, những gì tôi viết ra đây chỉ mới là Nguyên Lý căn bản để dẫn đến một hệ thống lý luận sâu thẩm về Ngũ Hành trong đoán số Tử Vi. Mong các bạn nghiền ngẫm suy nghĩ cho kỹ, biết đâu khi thông Dịch Lý các bạn có thể tự phát minh ra những nghĩa lý mà chính tôi đã bỏ qua. Thật mong lắm thay!

Vấn đề Ngũ Hành này trước tôi người ta vẫn xài, và ngay trong sách của Cụ Vân Đăng Thái Thứ Lang đã nhắc đến. Tiếc là từ đó cho đến nay người VN ta vẫn chưa có ai áp dụng hay có một lý luận giải thích logic và sâu sắc cho nó nên nó đã mai một cho đến nay, và biến Tử Vi trở thành huyền học. Tức là có lúc xem thấy đúng, lúc xem thấy sai! Dĩ nhiên, cho dù có nắm được Ngũ Hành vanh vách thì sau đó lại đẻ ra những vấn nạn khác như anh em sinh đôi, người sinh cùng năm tháng ngay giờ… và dĩ nhiên, tên khác, thành phố, đất nước, nhà ở khác, phương hướng khác… và cuối cùng quy về là Nghiệp Quả đời trước khác, nên Nghiệp dẫn dắt phải khác. Dĩ nhiên, Nghiệp Quả của họ dẫn dắt hết 70% những việc phải xảy ra, còn lại 30% là do suy nghĩ và quyết tâm của mỗi đương số, nên chi mỗi cá thể đều phải khác, không thể nào giống hết được. Nói tóm tắc dù lá số có giống hệt nhau, thì họ vẫn có nhiều cái giống và những cái khác. Đó là cái Lý Tự Nhiên, nếu ai không chấp nhận được điều này mà nghĩ rằng dùng Tử Vi có thể đoán đúng 100% thì đó là kẻ điền rồ vậy!

(Tác giả: Thiên Kỷ Quý)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Bài viết về tử vi của tác giả Thiên Kỷ Quý

Kính chào tất cả quý vị đam mê Tử Vi,

Thật đáng mừng anh VDTT mở ra chủ đề này để các bạn bỏ cái Ta mà cùng nhau nhìn về Học Thuật. Quả nhiên từ ngày anh VDTT trở lại TVLS đã có một sắc thái mới. Thật đáng mừng!

Thật tình mà nói sỡ dĩ trên đời vẫn hiện hữu những lá số thế này để những người đam mê Tử Vi mới tiến mãi không ngừng, vì không thể giải thích được nên mới gãi đầu bức tai mà động não.

Ở đây tôi xin gợi ý để các bạn nhìn rõ hơn một tí về Dịch Lý.

– Nếu bảo rằng Mệnh cư Tuyệt địa thì như vậy Thuỷ Mệnh mừng gặp Thuỷ Diệu sinh trợ, cớ sao Tiểu Vận gặp Tham Lang cư Hợi, Lưu Thái Tuế đến Sửu đắc Thiên Tướng Thuỷ, và còn thêm Tiểu Vận và Lưu Tuế ở Hợi Sửu củng hợp cung Tật ở Tí có Cự Môn cũng Thuỷ mà lại bị Thuỷ nạn?

Vì theo lý thuyết Mệnh Thuỷ cư Tuyệt địa nên xấu thì làm sao một người Thuỷ Mệnh bị Tuyệt Địa tối hỷ gặp Thuỷ, lại 3 cung Hợi Tý Sửu Thuỷ Phương và trong các cung ấy cũng toàn là Thuỷ Diệu mà bị nạn về sông nước thì thật là vô lý. Cho nên nếu cho rằng vì Mệnh cư Tuyệt Địa hạn hành Thuỷ vượng là chỗ chết thì sai Lý Dịch.

Khi vấn đề này được nêu lên thì, chúng ta thấy rõ ràng Thuỷ là Kỵ của Mệnh Thuỷ chứ không phải là Hỷ, nên chi nếu cho rằng Thuỷ Mệnh cư Tuyệt địa trong trường hợp này xấu là không đúng Dịch Lý. Bởi nếu Thuỷ cư nơi Tuyệt địa Hỏa Vượng thì người này lẽ ra phải bị nạn hoả tai, bị bỏng… hay chết ngạt dưới đường hầm vì Hỏa Thố thịnh chứ không thể bị thuỷ tai, đơn giản là thế! Nhưng ở đây rõ ràng là bị Thuỷ Nạn thế thì giải thích làm sao?

– Nếu bảo rằng vì gặp Không Kiếp tại Mệnh và Liêm Tham ở Di nên gặp họa, thế xin hỏi nếu đương sự sinh tháng 4 thay vì tháng 10 giờ Tí (tức sinh năm Ất Dậu tháng 4 ngày 14 giờ Tí) tại Di gặp cả Không Kiếp Liêm Tham thì có thể đoán như vậy được không? Dĩ nhiên, trong trường hợp này thì không, vì sinh tháng 4 Hỏa quá vượng rõ ràng Thuỷ là cái mừng được gặp sao có thể bị Thuỷ nạn được. Nạn gì thì được chứ Thuỷ Nạn thì không thể vì dù có rớt xuống nước cũng có người cứu lên ngay. Nếu sinh tháng 4 thì đổi lại Bạch Hổ Không Kiếp thêm cái Hỏa nóng tháng 4 sẽ khó tránh bệnh máu huyết xương cốt! Đây là những câu hỏi người nghiên cứu Tử Vi không thể không tự đặt ra khi có một trường hợp thật tốt hay thật xấu thì phải lập tức lật ngược vấn đề lại xem thử nó ra sao. Cho nên vấn đề này cứ nhắm mắt đoán đại thì may cơ hội đúng 7 lần, nhưng nếu xui gặp 3 lần như sinh tháng 4 giờ Tí bị sai thì cũng là chuyện bình thường thôi.

– Còn như cứ thấy Không Kiếp Tỵ Hợi cho rằng phát thì, dĩ nhiên trong trường hợp những người sinh năm tháng ngày giờ như cháu bé này thì không thể có, bới lên 4-13 là tan nát rồi làm gì hưởng được cách phát dã Tỵ Hợi. Nếu là người sinh trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu thì người Kỷ Dậu, Đinh Tỵ có phát có phá, dù bị phá cũng không đến nổi tận phá. Chỉ có người Đinh Sửu là người được hưởng nhiều nhất vì tuy bị phá nhưng vẫn giữ được nhiều. Ở đây chúng ta chỉ nói về 3 tuổi Tỵ Dậu Sửu thôi, còn nếu nói đến các tuổi khác thì cũng sẽ có những tuổi và những tháng đặc biệt vẫn được hưởng những cách đặc biệt không bị phá. Thế nên cứ nhắm mắt đoán phát hay phá thì hên cũng vẫn cứ đúng mà xui thì vẫn cứ sai như thường.

Tóm lại vì những điều nói ở trên nên trong Tử Vi bất kể là người học lâu học mau, người giỏi hay người dỡ, trong đời nếu gặp lúc xui đoán sai là bình thường; còn khi hên đoán đúng cũng là chuyện rất bình thường. Trừ những người làu thông các môn, lại gặp may mắn mới mong tránh khỏi những sai lầm, còn như lúc gặp xui tinh thần tối tăm không cân phân chi ly, trật một ly cũng sai một dặm như thường. Chỉ là cơ hội ít sai hơn những người khác mà thôi, chứ chẳng phải là không có sai.

Theo tôi thì lá số này vì đương số sinh tháng 10 mùa Đông Thuỷ vượng, tuy Mệnh đóng cung Tỵ nhưng là Kim Tứ Cục Bạch Hổ Kim ngộ Không Kiếp bại Cách, tính khí quá cương mãnh. Mệnh Vô Chính Diệu nên cung Hợi làm chính có Tham Lang, giáp Cự Kỵ, Lưu Hà, Riêu, mà Tham Lang Mộc đới Thuỷ thành Thuỷ Tai. Chúng ta xem tất cả những ca chết đuối của Tham Lang sẽ thấy Tham Lang thành Thuỷ nạn bao giờ cũng phải hội với Cự Đồng, Riêu Đà Kỵ, Lưu Hà hoặc các sao Thuỷ Diệu ở Vận Hạn mà thành tai họa vì Thuỷ quá vượng. Trong trường hợp này thì Tiểu Vận đến Hợi giáp hợp các sao nói trên, và Lưu Thái Tuế đến Sửu gặp Thiên Tướng, Long Trì, Thanh Long cũng đều là Thuỷ, Thuỷ mệnh sinh tháng 10 Thuỷ tràn lan, chỉ một Thiên Phủ ở cung Quan xa vời, lại đóng cung Dậu Kim vô lực cứu không nổi.

Lưu Thái Tuế xung kích Phúc cung và đó cũng là cung Đồng Hạn để cho Tuần Triệt Xuất Không nhờ người bác sĩ trong dòng họ tận tình cứu chữa; Tử Vi lẽ ra Thổ ở Mùi là Thổ nóng ấm áp giải được cái nạn Thuỷ tràn lan, cứu trợ mà có được đâu vì Tử Vi hóa thành Khoa (Thuỷ) phối với Phá Quân cũng là Thuỷ nốt, nên chỉ có thể cứu sống mà không thể cứu thoát.

Nhưng nếu đổi lại đương sự sinh tháng 4 thì sẽ khác rồi vì giờ đây Thuỷ càng nhiều thì càng tốt vì sẽ giải được cái họa Mệnh cư Tuyệt địa nhờ Tuyệt xứ phùng sinh.

Nên chi xem Tử Vi mà không nắm rõ cương lĩnh của tháng sinh thì làm sao có thể phối hợp với Ngũ Hành của Cục mà định Ngũ Hành sinh vượng để có thể biết rõ gặp sao nào xấu hay tốt cho bản Mệnh. Bởi không có tháng Nạp Âm của cung an Mệnh thì làm gì có Cục, vậy làm sao biết Ngũ Hành nào trong Mệnh vượng hay suy? Chính vì vậy chúng ta mới thường thấy những anh Giáp Dần, Giáp Thân Tử Phủ cư Dần gặp thêm Lộc Tồn, Tràng Sinh vô Sát Tinh tuy có làm bác sĩ, hay kinh doanh có nét ông chủ to mà vẫn không đủ tiền xài chỉ vì Hỏa Cục Tràng Sinh tại Dần bị Tử Phủ Lộc Tồn Thổ khắc chế thái quá, Vận lại chuyển về Nam nên cả đời vất vả. Vậy mà các Thầy cứ nhìn những lá số này là phán cực kỳ tốt vì lắm trường hợp ôm cả 3 vòng Tràng Sinh, Lộc Tồn (Bác Sĩ), Thái Tuế… Thật ra cách này gọi là thân thể xì ke, mặc áo vua đóng tuồng cho vui vậy thôi, chẳng làm được chuyện gì đại sự. Nhưng nếu đương sự sinh tháng 7 mùa Thu hay tháng 11 mùa Đông thì phải tốt hơn những người kia là chuyện đương nhiên. Hoặc giả nếu là nữ phái nghịch chuyển về Bắc và Tây Phương thì không là Mệnh Phụ Phu Nhân sao được.

Nếu chúng ta đọc lại sách của Cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang Phần II trang 48 phần:

1. Thuận Lý hay Nghịch Lý Giữa Năm Sinh Với Tháng Sinh…

2. Tương Sinh hay Tương Khắc Giữa Năm Sinh với Tháng Sinh…

Tiếc là sách Cụ có dẫn ra vấn đề tháng sinh và năm sinh, nhưng suốt quyển sách ấy không cho một ví dụ cụ thể nào về nó. Lúc đó tôi nghĩ tác giả chỉ nói đùa cho vui thôi, không ngờ sau này khi nghiên cứu sâu mới hiểu được. Cũng có thể chính tác giả chỉ được nghe nói về sự quan trọng của tháng sinh nhưng tự thân cũng chưa nghiên cứu sâu hay chưa biết áp dụng ra làm sao nên nói về nó rất hời hợt và phiến diện. Nhưng vẫn cho thấy vấn đề này đã có từ xưa không phải tự tôi mới phát minh ra nghĩa lý này.

Vài dòng chia sẻ những nét đại cương trong hệ thống tôi dùng để đoán Tử Vi trong vòng 8 năm nay, nên không thể nói vài câu mà hết ý được.

Chúc mọi người nghiên cứu vui vẻ và sớm thăng tiến trên đường Học Thuật.

Kính thưa quý vị,

Tôi có cái nhìn thế này, chúng ta có thể luận giải bằng bất cứ phương pháp nào chúng ta muốn, nhưng phải giải thích được 70% tất cả các lá số, trong tất cả các trường hợp tương tự và nhất quán, không thể lúc đoán thế này lúc đoán thế nọ; còn nếu chỉ đúng 50% hoặc ít hơn thì phương pháp đó chưa đủ tin cậy.

Vì Phuongmai06 đã hỏi thì tôi cũng xin trả lời với những lá số thật mà tôi đã được những người trên TVLS hỏi và đã trả lời cho họ nên tiện thể viết ra đây để mọi người tham khảo.

Người thứ nhất Nam sinh năm Giáp Thân tháng 1 ngày 21 giờ Tí (âm lịch).

Trước kia không quen biết, đương sự đến nhờ tôi xem số, tôi đoán:

Mệnh Thuỷ cư Dần cung, sinh tháng Dần Thuỷ Bệnh ở tháng Dần lại bị Tử Phủ Lộc Tồn Thổ tràn ngập còn thêm Hỏa Tinh đắc địa khắc chế bế tắc. Số này là người trọng hậu, hiền lành, đạo đức, cả đời nhờ vợ mà nhàn hạ, chỉ được cái mã là ông chủ lớn thế thôi, tự thân bất đắc chí chẳng làm nên chuyện gì đại sự.

Thực tế: Tuổi trẻ đi lính, chưa được cấp bậc gì cao 75 đến ở tù, vợ bỏ. Vượt biên qua Mỹ sau lấy vợ lại, nhờ vợ làm tiệm nail nên tiền bạc cùng tạm dư sống. Đương sự hơn mười năm kinh doanh thất bại khoảng 5 lần cho đến gần 60 tuổi thì nghỉ luôn ở nhà phụ vợ chà móng tay và mua vật dụng cho đến giờ.

Số này Thuỷ suy kiệt, cần nhất hành Vận Bắc Phương, qua Tây Phương thì cuộc đời hạnh phúc, ít ra không phải đại gia thì cũng là triệu phú nhỏ, có thua ai. Đó cũng là lý do vì sao tôi đoán suốt đời chỉ ăn nhờ vào vợ vì cung Thê cư Tí, Phá Quân Thuỷ Hóa Lộc.

Người thứ nhì Nữ sinh năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 30 giờ Dần (âm lịch).

Người này có một người trên TVLS mang đến hỏi tôi lá số của cô ta về việc ly dị. Sau khi bàn hưu tán vượn, tôi bảo cứ theo lý thuyết của tôi như đã trình bày nhiều lần với anh ta thì đoán rằng người này chẳng làm được chuyện gì cả chỉ là một người bình thường thôi. Người đó hỏi tôi, “vì sao Mệnh có Tam Hóa chiếu, tuy bị phá, nhưng Thân có Hóa Quyền mà không lẻ tệ vậy sao”? Tôi bảo, “vì Mệnh Thuỷ mà sinh tháng 8 lại là Thuỷ Cục, Mệnh có Đà La Kim sinh trợ, Thân lại đóng ở Hợi còn thêm Thiên Đồng sinh trợ Thuỷ tràn ngập, dù có Khoa Quyền Lộc cũng chỉ là anh dân quèn mặc áo vua đóng tuồng thôi đâu làm được chuyện gì huống là chỉ có một hóa Quyền đắc địa ở Thân thì ăn thua gì. Hơn nữa, lại đang hành Vận ở Hợi thì càng thêm tệ vì Thuỷ tràn lan không có Mộc Thổ vượng lấy gì để giải cứu”! Người đó vẫn bán tín ban nghi, đi hỏi lại đương số. Quả nhiên đương số chỉ là nhân viên làm việc giây chuyền bình thường thôi.

Số người này nếu là Dương Nữ chuyển nghịch về Nam về Đông Phương thì cũng thi thố được với đời, đâu đến nổi hữu tài vô dụng.

Người thứ 3 Nam sinh năm Đinh Mão tháng 7 ngày 5 giờ Dần (âm lịch).

Người này đã hỏi rất nhiều người lá số của mình trên TVLS cũng như ở ngoài đời và nhiều người cho rằng sai giờ sinh, mặc dù anh ta xác định chắc chắn là giờ sinh chính xác. Tôi xem qua thì đoán rằng: “Người Mệnh Lô Trung Hỏa sinh tháng 7, khí hóa vừa Bệnh nhưng vì Mệnh đóng tại Ngọ là nơi Hỏa cực vượng lại còn thêm Thiên Lương sinh trợ nên Hỏa quá thịnh, may nhờ Lộc Tồn Thổ sinh cho Văn Khúc giải bớt Hỏa lực, lại là Thuỷ Cục, tuy Thuỷ suy ở Ngọ nhưng hễ Vận trình gặp các sao Thuỷ và sau 32 tuổi qua cung Thân được Thiên Đồng Thuỷ ở nơi Quan Đới của Thuỷ Cục hữu khí thì về sau sẽ khá hơn. Vận hành Thìn giải nhiệt Hỏa là nơi Mộ khố của Thuỷ Cục nên Thuỷ có gốc, Cự Môn Hóa Kỵ Thanh Long Thuỷ có vợ thì có lợi. Tuy có bị tai tiếng tí nhưng còn lại là tôt. Số nhờ lấy vợ được lợi, vì gặp Vận Xung Không để Thiên Đồng Hóa Quyền ở cung Thân. Nói chung từ nhỏ cho đến 22 tuổi thì chẳng làm được chuyện gì, cho đến cung Thìn bắt đầu mới định tĩnh mà tiến thân. Tuổi trẻ nhờ Thiên Lương Ấm Tinh nên nhờ phúc cha mẹ thương yêu chiều chuộng, nên ngoài ăn chơi sa đọa ra, thì làm việc gì cũng thất bại. Tuy là người có năng lực, có tài mà vô dụng”.

Đương sự xác nhận đây là lần đầu tiên đã có người gỡ được gút rối trong lòng từ hơn 5 năm nay. Dĩ nhiên, tôi con xem nhiều thứ khác cho đương số, nhưng chỉ dẫn ra lý do vì sao xấu. Hiện tại đương sự vẫn đang theo dõi mục này.

Người thứ 4 Nam sinh năm Ất Tỵ tháng 8 ngày 24 giờ Tí (âm lịch).

Người này Mệnh Hỏa sinh tháng 8 Hỏa đã đến Tử Địa, mà còn thêm Thuỷ Cục lại đóng ngay cung Dậu thêm Vũ Khúc, Thất Sát đều là Kim sinh trợ cho Thuỷ Cục nên Mệnh đã xấu càng thêm xấu. Xuất thân gia đình chuộng học vấn, anh em ai mà được chế độ cho học hoặc qua Mỹ được thì đa số là Bác Sĩ, Dược Sĩ, riêng đương sự chẳng học hành gì cả. Suốt đời cũng chẳng làm nên tích sự gì, không vợ không con, không nghề nghiệp…

Số này mừng Vận chuyển Nam Phương và Đông Phương, mừng gặp các sao Mộc Hỏa, tối kỵ gặp các sao Thuỷ và các cung Thổ khắc Tiết Mệnh Hỏa vốn đã cực suy nhược rồi. Mãi cho đến 42 tuổi chịu khó làm được 2 năm Bính Tuất, Đinh Hợi làm ngày làm đêm overtime để dành được 70 ngàn USD rồi về VN sống, vì gia đình xây nhà để ở VN chẳng ai thèm về ở, chỉ mình anh ta ở. Cứ ở VN 6 tháng hay 1-2 năm rồi về lại Mỹ xin Visa rồi đi VN tiếp. Năm Đinh Hợi vợ tôi hỏi, “liệu anh ta sẽ làm thêm không”? Tôi nói, “không thể nào làm hết năm Đinh Hợi đến mùa Đông sẽ tự động nghỉ thôi”. Quả nhiên đúng như vậy.

Cứ theo viễn ảnh thì rõ ràng 62 tuổi đến cung Mão Tuần Xuất Không Điền Thật, Lộc Tồn đó anh ta phải hưởng được vì cung Mộc đủ sinh cho Mệnh Hỏa và Hoả Tinh đắc địa có Thiên Phủ chế ngự vừa đủ thành Mệnh Hỏa vượng, nên chắc chắn căn nhà ở VN mới xây, trị giá trị 3-4 trăm ngàn USD anh ta sẽ thừa hưởng. Vì bên vợ của tôi ai cũng là Bác Sĩ Dược Sĩ cả, đâu ai muốn chia với anh ta. Những người anh ở trên tuy nghèo nhưng đến đó đã chết hết rồi còn ai đâu nữa mà về VN chia của.

Người thứ 5 hiện là một thành viên của TVLS từ khoảng 5 năm nay. Nam sinh năm Tân Mão tháng 6 ngày 13 giờ Thìn (âm lịch).

Đương sự có nghiên cứu từ trong tù cãi tạo, sau này tham gia TVLS thì nhờ tôi cho vài lời lý giải. Tôi xem qua thấy Thái Âm ngộ Lộc Tồn ở Di cung và đoán rằng: “Số này xuất thân nghèo khổ, là người có thực tài, thực học, mà vô dụng, chẳng xài vô chỗ nào được”! Đương sự hỏi, phải chăng là vì Mệnh có Địa Kiếp, Quan bị Tuần”? Tôi bảo không phải. Vì Mệnh này tuy sinh tháng 6 nhưng Mệnh đóng ở Mão có Thiên Đồng, Thân lại đóng ở Hợi có Cự Môn hóa Lộc; là Mộc Tam Cục mà lại đóng Mệnh Thân ở Mão Hợi và được các sao Thuỷ sinh trợ, nên Mộc này là đại thụ, cành to gốc già, do Thổ tháng 6 được Thuỷ tưới nhuận vun bồi cho Mộc thành cực vượng. Cho nên số này không có đất dụng võ, vì không chuyển thuận về Nam và Tây Phương, nên vô dụng. Luôn cả Đại Vận ở cung Hợi có Hóa Lộc cũng chỉ là tàm tạm thôi.

Thực tế: Người này xuất thân nghèo khổ, cố gắng học trường lính khá giỏi, khi vừa ra sĩ quan, thì vừa đúng 75 nên ở tù. Sau khi ra tù thì có vợ, và khi vượt biên mất vợ, qua đến Mỹ học lấy được 2 bằng và có một bằng Master, và làm chưa được khá gì, chưa mua nổi nhà thì đùng một cái năm 2001 bị vụ 9-11, nên mất job. Năm Nhâm Ngọ là cuối cùng ở Tài Vận ở Hợi có Hóa Lộc, chính là năm khai phá sản, và thất nghiệp từ đó cho đến bây giờ. Anh ta cũng viết sách làm nghiệp dư, chẳng có tiền bạc gì.

Người thứ 6 Tôi không liên lạc được vì anh của đương số đã về lại VN. Người anh của đương số là thành viên của TVLS. Năm Kỷ Sửu khi qua thành phố tôi chơi thì cùng với người bạn trên TVLS nữa của tôi cũng có mặt nên đem lá số ấy ra hỏi. Nam sinh tuổi Giáp Dần hình như là sinh tháng 3 ngày (6,11,21) giờ Dần âm lịch thì phải. (Khi có cơ hối kiểm chứng tôi sẽ báo lại sau).

Đại khái để minh họa vấn đề là Mệnh có Tử Phủ, tuổi Giáp Dần, có Lộc Tồn, ôm ba vòng Lộc Tồn (Bác Sĩ), Tràng Sinh, và Thái Tuế. Người bạn tôi (cũng là người có tiếng tăm trên TVLS) xem xong và nói rằng lá số này xem thấy tốt quá. Người anh của đương số bảo rằng khi hỏi trên TVLS hay ở ngoài gì ai cũng nói vậy cả. Tôi lúc đó vừa cúp điện thoại mới hỏi người anh cho tôi xem lá số thử. Anh ta đưa lá số qua tôi liếc nhìn cung Mệnh không quá 1 phút (cũng tại cái tội xem nhanh mới quên ngày tháng), tôi đưa trả lá số lại cho anh ta và nói:

– Lá số này chỉ là vua mặc áo hát tuồng thôi, chả có gì cả, chỉ được một khả năng là làm bác sĩ, nếu không học bác sĩ thì thật là lạ.

Ông bạn tôi thì ngạc nhiên, còn người anh há hốc miệng hỏi tôi, “anh có thể giải thích lý do vì sao anh lại có thể đoán được như vậy không? Vì đúng là nó đang làm bác sĩ ở VN, nghèo lắm chỉ vừa đủ sống, em phải gửi tiền về cho nó hoài thôi. Nó chỉ được cái tài đi thuyết trình, là bác sĩ giỏi, nhưng thuyết trình chẳng có lương gì hơn, nên đến nay vẫn nghèo và chưa vợ”. Anh của đương sự là kỷ sư, được làm việc ở nước ngoài nên có tiền (năm ngoái đã về lại VN rồi).

Tôi nói:

– Thật ra đơn giản lắm vì người này người này Mệnh Thuỷ quá suy, bị Tử Phủ Lộc Tồn tặng cho cái mã quyền quý oai phong, có tiếng mà không miếng. Vận hành Phương Đông qua Nam nên Thuỷ đà suy càng kiệt nên nghèo, chẳng làm nên đại sự. Phải đến Vận ở cung Thân Thuỷ mới có khí, mới ngóc đầu lên nổi. Tiếc thay đến đó ngóc đầu lên thì cũng chẳng làm được gì vì đã già mất rồi. Chỉ là cuộc sống được tốt hơn thôi. Người này phải lấy vợ mới khá ra được, tiếc là cung Thê bị Tuần, nên có vợ thôi cũng chẳng phải dễ.

Tóm lại, với 6 trường hợp trên, nếu không nắm rõ Cách Cục và tháng sinh, thì cứ cho là sai giờ, nhưng thực ra không phải vậy. Cách xem của tôi chú trọng ở tháng sinh và Ngũ Hành của Mệnh. Nếu Mệnh dù có Khoa Quyền Lộc, mà suy quá, hay vượng quá thì cũng chỉ là kẻ mặc áo hát tuồng thôi, chẳng làm được gì đáng kể với đời cả. Những người làm được đại sự, thì phải là:

1. Những người sinh đúng tháng sinh, như người Mệnh Thổ sinh tháng 6, Mệnh đóng ở Dậu Vô Chính Diệu, Cách Cục tốt hành về phương Nam thì sẽ thành công. Nếu hành về phương Bắc qua Đông thì sẽ vất vả khó thành công, hoặc không thành công lớn.

2. Những người sinh đúng tháng sinh, như Mệnh Thổ sinh tháng Ngọ-Mùi, Mệnh đóng cung Mão có Tử Tham Vận hành qua Tây thì sẽ thành công, hoặc gặp những Vận có Kim vượng để chế Mộc tiết Thổ cũng sẽ thành công lớn.

3. Mệnh tuy suy nhưng Cách Cục tốt và may mắn sao thủ Mệnh đồng hành hay sinh trợ cho Mệnh, Vận lại hành về nơi sinh vượng của Mệnh thì sẽ thành công lớn. Như Mộc Mệnh Kỷ Hợi sinh tháng 6, Mệnh đóng cung thìn Mộc Tam Cục có Thiên Tướng, cây được Thổ ướt nuôi dưỡng, Vận chuyển về Đông và Bắc Phương nên thành công lớn có vài chục triệu USD. Hoặc như Bill Gate Ất Mùi sinh tháng 9 giờ Hợi, Thổ Cục Kim Mệnh ở Hợi gặp Thái Âm nên tuổi trẻ dỡ, nhưng Thân ở Dậu lấy Thái Dương làm nền tảng luyện Kim Dậu cung Vô Chính Diệu mà thành cực quý.

4. Lại như người Mệnh tuy suy, vì không được tháng sinh như người Kim Mệnh Tân Tỵ sinh tháng 5, Mệnh đóng cung Mão Kim Cục, tháng khắc Mệnh, Mệnh đóng tuyệt địa, nhưng nhờ Kim Cục, Thân cư Dậu có Thái Dương Thiên Lương nên làm bác sĩ mà giàu có tiếng tăm khi trưởng thành, mỗi năm làm vài triều USD. May là hành Vận Bắc qua Tây không bị Hỏa thiêu đốt, Thuỷ lại chế bớt Hỏa. Số này thua ông Bill Gate vì không được tháng sinh.

5. Thứ nữa là người Mệnh bị tháng khắc, lại bị Cục Khắc, Mệnh lại đóng ở cung sinh trợ cho Hành khắc Bản Mệnh, như người Mệnh Hỏa sinh tháng 10 giờ Mão, Thuỷ Cục, nhưng lại được sao Hỏa Thủ Mệnh là Liêm Trinh tại cung Thân. Cung Thân là nơi Tràng Sinh của Thuỷ Cục, nên Thuỷ quá mạnh bản Mệnh èo ọt, thế nhưng nhờ Liêm Trinh Hỏa là sao sinh trợ cho Mệnh, là Hỷ Thần của Mệnh nên là người tài năng tầm thường nhưng luôn gặp may mà thành công.

Trên đây tôi chỉ giới thiệu qua vài nét đại cương về người thật việc thật để các bạn tham khảo thôi, bởi không cách nào nói hết ý được, cho dù có viết ra thêm một quyển sách nữa mới mong nói hết ý. Điều này có lẽ tôi sẽ không làm, vì tôi đã nhận một người học trò và muốn trao lại hết tất cả những hiểu biết của tôi để anh ta thay tôi làm việc đó! Cho đến bây giờ thì anh ta chưa đủ sức vì mới học được 5 tháng, nhưng tôi tin chắc anh ta sẽ làm được trong thời gian lâu lắm là 3 năm nữa, nếu tôi có thời gian dạy anh ta mỗi ngày như bây giờ.

Sỡ dĩ tôi đưa ra những ví dụ thực tế ở trên là vì đa số những người nhờ tôi giải đoán những lá số này hiện đang có mặt tại TVLS, nên khi viết về những sự thật mình đã giải đoán vẫn cảm thấy thoải mái hơn.

Đây chỉ là một chút đóng góp vì sự thành tâm học hỏi của bạn Phuongmai06. Mong rằng tôi không phụ lòng kỳ vọng của bạn Phuongmai06. Đồng thời cũng mong giúp ích cho vài bạn hữu duyên.

Chúc tất cả quý vị sớm thăng tiến trên đường Học Thuật!

Thủy Thổ

TB, nếu được xin bạn Phuongmai06 đăng lá số giùm cho mọi người dễ tham khảo. Cảm ơn.

Kính chào bạn Phuongmai06 và các bạn đam mê Tử Vi,

Thật ra thì có lẽ bạn phải nghiên cứu nhiều mới mong hiểu được chứ không thể đọc qua mà áp dụng được liền đâu. Tôi nghiên cứu về điều này mỗi ngày từ năm Kỷ Mão mà mãi đến 2006 mới xây dựng xong cách lý luận và áp dụng. Thôi thì tôi đã gợi mở những điều bí mật của TV nên đành phải nói thêm vài điều nữa.

Xưa nay chúng ta thấy đa số mọi người cứ khi lập lá số xong thì thường phán rằng lá số này tốt vì Âm Dương thuấn lý, Cục sinh Mệnh, Mệnh sinh Cục hay Mệnh khắc Cục… Hoặc ngược lại là lá số này xấu vì Âm Dương nghịch lý, và Cục khắc Mệnh… Đôi khi có người cho Mệnh sinh Cục là xấu vì sinh Xuất. Rồi lại thấy nào là cung và Sao đồng hành với Mệnh là tốt, cung khắc Mệnh hay Sao là xấu…

Lại có nhiều người cho rằng Mệnh Hỏa Vận chuyển về cung Hỏa Mộc thì tốt, hoặc Mệnh Hỏa đến cung Kim Thủy thì xấu… Lại có người cho rằng xem Số Tử Vi chỉ cần xem Tinh Đẩu không cần biết Ngũ Hành là gì cả. Lại có người diễn giải TV bất kể cái gì cũng lấy Âm Dương để bàn, mà thực chất chẳng hề biết các Sao ấy Thánh Nhân dựng lập lên từ đâu cả. Lắm khi họ cũng chẳng biết Thực Thể của Âm và Dương là gì nốt, mà cứ bô bô giải thích về Âm Dương. Bởi nếu hiểu rõ Âm là gì và Dương là gì thì họ sẽ hiểu tại sao trai phải lấy vợ gái phải lấy chồng; Thánh Nhân (Dương) giáo hóa kẻ Ngu (Âm); và cũng hiểu rõ vì sao đảng cướp (Âm) chỉ có toàn bọn đầu trâu mặt ngựa (Âm) mà không thể dung nạp những kẻ sĩ (Dương); hoặc một đảng phái cách mạng vì Tổ Quốc (Dương) thì không thể dung nạp những kẻ Việt Gian (Âm)… Thế thì Âm Dương cũng có lúc hòa hợp, lại có lúc tan rã; và Dương với Dương cũng có lúc hòa hợp và Âm với Âm cũng thế. (Vấn đề này không thể không suy ngẫm mà có thể hiểu được). Lại có người hễ gặp các Sao hãm thì cho là xấu, vượng và đắc địa thì tốt… Thật ra, theo tôi, làm và hiểu như vậy thì vẫn là thiên lệch và chưa thông Dịch Lý nên mới có những nghiên cứu và suy luận như thế.

Đối với Dịch Lý thì vô tư, không có thiên lệch, cái gì cũng phải đúng với lẽ Tự Nhiên, nên cái gì nhiều quá hay ít quá cũng đều xấu cả, chỉ có trung hòa là tốt nhất mà thôi. Nhiều quá thì phải chế hay tiết bớt, ít quá thì phải phù trợ. Người Mệnh xấu, cũng như người thân thể có bệnh tùy bệnh chỗ nào (Ngũ Hành) mà chữa. Mà nói đến bệnh tật hay Mệnh Vận thì bốn mùa trong năm tháng sinh chính là cương lĩnh. Ngũ Hành tiêu tức đầy vơi phải có lúc lên lúc xuống, lúc mạnh lúc yếu đâu thể nào cứng nhắc ở một vị trí không tăng không giảm được. Thế thì làm sao một người Bản Mệnh được lệnh tháng sinh, được Cục, được cung Mệnh Thân sinh trợ và lại chuyển về những Phương sinh trợ thêm cho Bản Mệnh mà có thể cho là tốt được. Ví như thuốc bổ là dành cho những người suy yếu, còn một người đã cường tráng quá mức mà đem sâm nhung cho uống thì sống thế nào được.

Cho nên ta có thể lập thành một quy tắc từ tháng sinh thế này:

A. Hành Mộc:

1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.

2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.

3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.

4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).

5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).

6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).

7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.

8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).

9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.

10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.

11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.

12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.

B. Hành Hỏa:

1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.

2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để . Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.

3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.

4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.

5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.

6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.

7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.

8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!

9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.

10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.

11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.

12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.

C. HÀNH THỔ:

1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.

2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.

3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.

4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.

5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.

6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.

7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.

8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ.

9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.

10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.

11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.

12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.

D. HÀNH KIM:

1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.

2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ.

3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.

4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.

5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.

6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.

7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.

8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.

9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.

10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.

11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.

12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.

E. HÀNH THỦY

1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.

2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.

3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.

4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.

5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.

6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.

7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.

8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.

9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.

10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.

11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.

12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.

Chú Ý: Bài này dùng tháng để diễn giải khí của cung, tháng Giêng ở cung Dần chạy thuận 12 tháng đến cung Sửu là tháng 12. Tỷ như: Mệnh Thủy cung Mệnh ở Dần đành rằng Thủy ở Bệnh địa nhưng chưa hẳn là xấu. Nếu ở đó gặp Thủy của Cự Môn, Văn Khúc, lại được Hỏa của Thái Dương sưởi ấm là kỳ cách. Trường hợp Mệnh Thủy, Hỏa Cục mà ở cung Dần lại gặp Tử, Phủ (Thổ vượng địa), thì coi như Mệnh Thủy bế tắc, chỉ là người bình thường, tính tình hiền hòa, cẩn trọng, nhưng chẳng làm nên chuyện chi đại sự. Song nếu là người Vận nghịch thì lại tốt ít ra 60 năm đầu đi qua các Vận Bắc và Tây Phương nên Thủy có lực. Với cách luận giải nầy, ngày nay ta luận giải Tử Vi thấy khoa học và khá chính xác, lại cụ thể rõ ràng không mơ hồ.

Tuy nhiên, những gì tôi viết ra đây chỉ mới là Nguyên Lý căn bản để dẫn đến một hệ thống lý luận sâu thẩm về Ngũ Hành trong đoán số Tử Vi. Mong các bạn nghiền ngẫm suy nghĩ cho kỹ, biết đâu khi thông Dịch Lý các bạn có thể tự phát minh ra những nghĩa lý mà chính tôi đã bỏ qua. Thật mong lắm thay!

Vấn đề Ngũ Hành này trước tôi người ta vẫn xài, và ngay trong sách của Cụ Vân Đăng Thái Thứ Lang đã nhắc đến. Tiếc là từ đó cho đến nay người VN ta vẫn chưa có ai áp dụng hay có một lý luận giải thích logic và sâu sắc cho nó nên nó đã mai một cho đến nay, và biến Tử Vi trở thành huyền học. Tức là có lúc xem thấy đúng, lúc xem thấy sai! Dĩ nhiên, cho dù có nắm được Ngũ Hành vanh vách thì sau đó lại đẻ ra những vấn nạn khác như anh em sinh đôi, người sinh cùng năm tháng ngay giờ… và dĩ nhiên, tên khác, thành phố, đất nước, nhà ở khác, phương hướng khác… và cuối cùng quy về là Nghiệp Quả đời trước khác, nên Nghiệp dẫn dắt phải khác. Dĩ nhiên, Nghiệp Quả của họ dẫn dắt hết 70% những việc phải xảy ra, còn lại 30% là do suy nghĩ và quyết tâm của mỗi đương số, nên chi mỗi cá thể đều phải khác, không thể nào giống hết được. Nói tóm tắc dù lá số có giống hệt nhau, thì họ vẫn có nhiều cái giống và những cái khác. Đó là cái Lý Tự Nhiên, nếu ai không chấp nhận được điều này mà nghĩ rằng dùng Tử Vi có thể đoán đúng 100% thì đó là kẻ điền rồ vậy!

(Tác giả: Thiên Kỷ Quý)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button