Tử vi

Tử vi đẩu số phi tinh khái luận

Phi tinh khái luận và ứng dụng

Tử vi bày ra:

Nhất, dành cho yêu cầu luận đoán người cụ thể sinh ra năm, nguyệt, nhật, thì (ghi chú rõ công lịch hoặc nông lịch, cập tính), hoặc nắm quyền thời gian.

Bạn đang xem: Tử vi đẩu số phi tinh khái luận

Nhị, dành cho yêu cầu luận đoán nội dung cụ thể, như luận đoán hôn nhân, tử nữ, công tác, tài vận. . . .

Tử vi bày ra thưởng tích:

Phân tích: Bản mệnh cung tọa cơ âm, cung tài bạch khiến cho thái dương hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, bản thân công tác ứng với là cơ âm, thái dương tinh các loại. Cơ âm ở dần nên làm đẹp, hộ lý, du lãm xa tiểu thư, lưu động ngôi sao ca nhạc, ngoại vụ, đẩy mạnh tiêu thụ, thực tế cô gái này tằng trải qua hướng dẫn du lịch tiểu thư, hiện vừa làm đẹp nghiệp. Kỳ nguyên mệnh bàn trung tâm điền tuyến phát động, vừa mệnh tọa cơ âm rung chuyển ngôi sao, người trong cuộc đời tất nhiên có rung chuyển lớn, thực tế người quanh năm ở nước ngoài bào động.

Phân tích: Cung mệnh tọa Tử Phủ là lớn cách cục, chủ kế này đoán cơ vì danh bài (thực tế là nước Mỹ khang bách máy tính). Phụ tật tuyến là thiên đồng, Thái Âm sao đào hoa mấy viên chủ đến đây cơ vẻ ngoài khéo léo lả lướt, vẻ ngoài mỹ. Cung Quan lộc cũng là lớn cách cục, vừa tam kỳ giáp hội chủ kế này đoán cơ công năng hảo. Dĩ cung tật ách là lập cực điểm, thì kỳ cung Quan lộc không cát, chủ kế này đoán cơ nội bộ khả năng có tâm bệnh. Thực tế kế này đoán cơ nội bộ A bàn đã phôi tổn hại, hiện thay đổi là ngoại đưa bàn.

Tử vi kỹ xảo:

Cung phu thê cái nhìn:

Nhất, cung phu thê tứ hóa:

1, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, phối ngẫu có nhân duyên, phối ngẫu rất tốt với ta.

2, cung phu thê hóa khoa nhập cung mệnh, phu thê có thể bạch đầu giai lão; phu thê đều có tình duyên.

3, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phu thê dễ cãi nhau.

4, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh (gặp Hóa lộc năm sinh), phối ngẫu ăn chắc ta, phối ngẫu năng lực quản ở ta.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tài bạch, hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phu thê cãi nhau.

6, cung phu thê hóa khoa kỵ cùng nhập cung mệnh, phu thê khóe miệng không khỏi.

7, nữ mệnh: Cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, mặc dù giá ra, nếu đã giá thì chủ phu thê lắm lời sừng.

Cung phu thê hóa quyền nhập cung mệnh, kỳ phu sợ vợ.

Cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc (năm sinh hóa quyền), thê hội chiếu cố sự nghiệp của ta.

Cung phu thê tự hóa lộc hoặc hóa khoa, có nam nhân thầm mến ta.

8, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, phối ngẫu là việc chính động đào hoa, phối ngẫu không muốn sinh nữ hài.

9, cung phu thê hóa lộc (quyền, khoa) nhập cung tử nữ, thê sinh cậu bé đa, hai vợ chồng đái đào hoa.

10, cung phu thê (tự hóa lộc) hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, đã có phối ngẫu, nhưng tưởng tái đào hoa.

Nhị, phối ngẫu xuất xử:

1, cung phu thê hóa khoa nhập cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch, trải qua tự do luyến ái thành hôn. Cung phu thê hóa khoa nhập còn lại tám cung vị, trải qua giới thiệu mà kết hôn.

2, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phối ngẫu là thân thích hoặc thân thích giới thiệu (cung tử nữ là lục thân cung vị).

3, lưu niên hóa khoa nhập cung mệnh tam hợp phương, trải qua nhân giới thiệu. Lưu niên hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh chính biết.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung tái chuyển hóa kỵ xung lưu niên cung phu thê, thực chất là tùy tiện tìm, đến đây năm kết hôn bất hảo.

Tam, kết hôn đại hạn:

1, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập A cung, A cung là đại hạn tứ chính vị, đến đây đại hạn kết hôn.

2, nam mệnh: Cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn; đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập đại giao hữu, đến đây hạn kết hôn.

Nữ mệnh: Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn.

3, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, đến đây hạn kết hôn.

4, cung phu thê hóa khoa nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn.

5, đại hạn nhập bản mệnh cung phu thê, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, thì đến đây hạn kết hôn.

Tứ, kết hôn năm:

1, nam mệnh: Cung Nô bộc hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung mệnh, cung tài bạch, cung phúc đức kết hôn.

Nữ mệnh: Cung tật ách hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung mệnh, cung tài bạch, cung phúc đức kết hôn.

Chú: Bản pháp tu tiên dĩ kết hôn đại hạn trung thứ 7 làm đầu quyết điều kiện.

2, đại hạn phối ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn A cung, sẽ tìm phối ngẫu A cung hóa phi hóa kỵ nhập năm nào cha tật tuyến, thì cai năm kết hôn. Nếu đại ngẫu tự hóa kỵ, thì tìm hóa lộc, kỳ suy tính bước(đi) giống như trên mặt.

3, lưu niên hồng loan hoặc thiên hỉ nhập cung mệnh, thân cung, cung phu thê, cung phúc đức, đại hạn mà lại lưu niên đi vào bản mệnh hồng loan, thiên hỉ, lưu niên cung phu thê vô phá, đến đây năm kết hôn.

4, lưu niên hồng loan, thiên hỉ nhập tiểu hạn cung mệnh hoặc cung phu thê, lưu niên hóa lộc, quyền, khoa nhập tiểu hạn cung phu thê, đến đây năm kết hôn.

5, nữ mạng lớn hạn nhập thái dương cung vị, lưu niên phùng thiên đồng, lộc tồn, tử vi, phá quân, thái dương (lạc hãm), Thái Âm (lạc hãm) mà lại lưu niên hồng loan, thiên hỉ nhập cung mệnh, thân cung, cung phu thê, cung phúc đức, đại hạn, đến đây năm kết hôn.

6, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập A cung xung B cung, ở kết hôn đại hạn nội, lưu niên yếu quá A cung hoặc B cung mới có thể kết hôn.

Kết hôn đại hạn cung phu thê hóa khoa nhập lưu mệnh, lưu phu thê hoặc chiếu lưu mệnh lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

Kết hôn đại hạn hóa khoa nhập lưu mệnh, lưu phu thê hoặc chiếu lưu mệnh, lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

7, đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, đến đây năm kết hôn (và kết hôn đại hạn trung thứ 2 điều phối hợp sử dụng).

Đại Cung Nô bộc tự hóa kỵ thì, tìm hóa lộc, nhập lưu phu thê, đến đây năm kết hôn (và kết hôn đại hạn trung thứ 6 điều hậu luận phối hợp sử dụng).

8, đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, đến đây năm kết hôn (phối hợp kết hôn đại hạn trung thứ 3 điều sử dụng).

9, đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

Đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, lưu phu thê hóa phi hóa kỵ nhập lưu tật, đến đây năm kết hôn.

10, lưu niên tứ hóa tam cát nhập cung mệnh tam hợp phương, đến đây năm kết hôn.

Ngũ, đào hoa:

1, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập huynh đệ cung, huynh đệ cung hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, có đào hoa.

2, cung Nô bộc hóa lộc, quyền nhập cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch có đào hoa.

Cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch có đào hoa.

Cung Nô bộc hóa lộc, quyền nhập cung mệnh, cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch hoặc cung tật ách, dính tính đào hoa.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có đào hoa.

4, hóa khoa nhập cung mệnh, có đào hoa.

5, cung điền trạch luận đào hoa:

Cung điền trạch hóa lộc chiếu cung mệnh, có đào hoa. Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có đào hoa.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung mệnh, một đào hoa. Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, một đào hoa.

Cung điền trạch tự hóa kỵ, có đào hoa, nhưng lưu không được.

6, cung điền trạch luận đào hoa chủng loại:

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, thực chất đã có gặp gỡ khác giới kinh nghiệm hoặc đã có tử nữ? br> cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đối tượng không có tử nữ hoặc đối tượng đã đã ly dị.

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, thực chất đã kết hôn. Điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung thiên di, thực chất là đàn bà có chồng hoặc đã ly dị.

Cung điền trạch tự hóa lộc hoặc tự hóa kỵ, thực chất chưa kết hôn. Điền trạch tự hóa lộc thực chất vị hôn, đã có gặp gỡ khác giới kinh nghiệm.

Cung điền trạch tự hóa kỵ, thực chất vị hôn, là thứ nhất thứ và khác giới gặp gỡ.

Cung điền trạch hóa lộc hoặc quyền chiếu cung mệnh, thực chất so với ta lớn tuổi mà lại đã kết hôn.

7, lưu điền hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, năm nay có tình duyên, mà lại chơi được vãng cửu mà thôi.

Lưu điền hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh, năm nay có tình duyên, mà lại chơi được vãng cửu mà thôi.

8, thiên tướng, đà la nhập cung tử nữ hoặc cung phúc đức, có đào hoa.

9, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, đào hoa đa, dễ lấy vợ đã sinh dục tử nữ phối ngẫu; hội dùng tiền.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, đào hoa ít, có cũng không giữ được, nhi tử ít, tử duyên ít.

10, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, chủ thấy nữ nhân, chỉ cần yêu thích, liền muốn lấy vợ quay về đương thê tử.

Lục, ở chung:

1, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, nạp thiếp.

2, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ (tự hóa kỵ), trước khi cưới ở chung, kết hôn biệt ly.

3, đại ngẫu hóa phi hóa lộc nhập bản ngẫu, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, phối ngẫu tại ngoại cùng người ở chung.

4, phi hóa thứ tự:

Cung Nô bộc: Tiên có bằng hữu quan hệ. Cung tử nữ: Tái sản sinh duyên phận (đào hoa). Cung tật ách: Tối hậu sản sinh tính quan hệ.

Thất, ‘Ba tường’ ‘Buôn lậu’ ‘Gặp ở ngoài’ :

1, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, lấy vợ có chồng vật món là tiểu lão bà.

2, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, một nửa kia có gặp ở ngoài.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, lấy vợ lớn tuổi hoặc có chồng người là tiểu lão bà.

Cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, lấy vợ tuổi nhỏ là tiểu lão bà.

4, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, một nửa kia ba tường.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có gặp ở ngoài.

6, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, có gặp ở ngoài.

7, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, có gặp ở ngoài.

8, cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, người khác câu dẫn phối ngẫu.

Bát, ly hôn:

1, năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê (tự hóa kỵ), ly hôn.

2, cung phu thê hóa kỵ xung cung mệnh, ly hôn.

3, cung thiên di hóa kỵ xung cung phu thê, ly hôn.

4, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch (tự hóa kỵ), ly hôn.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, ly hôn.

6, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung phúc đức, tái chuyển hóa kỵ xung cung phụ mẫu, ly hôn.

7, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, nữ mệnh chủ ly hôn.

8, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch (tự hóa kỵ), nữ mệnh chủ ly hôn.

9, đại hạn hóa kỵ xung đại ngẫu, ly hôn.

10, cung mệnh hóa kỵ xung cung phu thê, ly hôn.

4, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, có tiểu lão bà, nhân duyên hảo.

Cửu, phong trần nữ lang:

1, tử tham nhập cung mệnh. Dễ là gió trần người trong.

2, mệnh tọa tứ mã nơi phùng phá quân, thiên mã, Hàm trì, văn xương, văn khúc, thiên diêu tam phương hội, phụ nữ phong trần.

3, phá quân, thiên diêu, Địa kiếp nhập cung mệnh, dễ là kỹ nữ.

4, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức, đương đại hạn như cung phúc đức thì rơi vào phong trần.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, ở chuyển hóa phi hóa kỵ nhập tử điền tuyến, phụ nữ phong trần lang.

6, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, hóa quyền nhập cung tật ách, phụ nữ phong trần lang.

Thập, phối ngẫu tuổi tác cập phương nào nhân sĩ:

1, phối ngẫu so sánh ta lớn tuổi: Dưới chư tinh nhập cung phu thê.

Tử tham, tử phá, tử tương, cự môn, thiên lương ở tị, hợi cung, liêm tham.

2, một nửa kia vì sao phương nhân sĩ: Dĩ cung phu thê Thiên can phán đoán của.

Giáp, kỷ, đinh can quê người nhân. Giáp ất can người đông phương; bính đinh can phía nam nhân; mậu kỷ can trung bộ nhân; canh tân can người phương Tây; nhâm quý can người phương bắc.

Mười một, kết hôn muộn:

1, hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh hoặc cung phu thê, kết hôn muộn là nên (30—35 tuổi).

2, cung phu thê hóa kỵ xung cung mệnh hoặc nhập cung Quan lộc, kết hôn muộn (35—40 tuổi).

Mười hai, lên xe:

1, cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, là trên giường.

2, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, lên xe vu trước khi cưới.

Cung tật ách hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, lên xe vu trước khi cưới.

3, đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, trên giường (lưu niên ở đại ngẫu hóa kỵ lúc).

Đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu tật, trên giường (lưu niên ở đại ngẫu kỵ xung hậu).

4, tham lang, liêm trinh, Thái Âm nhập đại tật, nữ mệnh dễ bị lên xe.

Mười ba, đào hoa ở chung tình huống:

1, cung tật ách hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc (tự hóa kỵ), ta nghĩ khác giới, khác giới không bỏ rơi ta.

Cung Nô bộc hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách (tự hóa kỵ), khác giới tưởng ta, ta không bỏ rơi người.

2, cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, muốn có quan hệ phát sinh. Cung tử nữ hóa quyền nhập cung tật ách, táy máy tay chân.

Cung tử nữ hóa khoa nhập cung tật ách, có phong độ. Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, trên giường.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, hôn môi.

Cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, trên giường.

Cung tài bạch cái nhìn:

Nhất, kiếm tiền:

1, vũ tham ở tứ mộ nơi, là đại hạn tứ chính địa, đại hạn can là kỷ, đến đây đại hạn đại kiếm tiền tài.

2, đại quan hóa lộc hoặc hóa quyền chiếu của năm, kiếm tiền.

3, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, lưu tài hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh, kiếm tiền.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, kiếm tiền.

5, năm sinh hóa phi hóa lộc nhập cung phúc đức, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức, đến đây hạn đại kiếm.

Năm sinh hóa phi hóa lộc nhập A cung, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung, đến đây hạn đại kiếm.

Nhị, đảo tiền:

1, cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, ta sẽ đảo tiền của người khác (do dĩ nhập cung phụ mẫu là quá mức), ta còn bằng hữu tiền hội lùi lại.

2, cung tài bạch hóa kỵ xung cung phụ mẫu, sẽ bị đảo tiền. Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, sẽ bị đảo tiền.

3, huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, không thích hợp kết phường.

4, văn khúc cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, sẽ bị đảo tiền.

Văn khúc cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập A cung, A cung hóa kỵ xung cung mệnh tam phương, sẽ bị đảo tiền.

5, cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch hoặc cung Quan lộc, không thích hợp và bằng hữu có tiền tài vãng lai.

Cung Nô bộc hóa kỵ, hóa khoa nhập cung tài bạch hoặc cung Quan lộc, tiền tài hữu kinh vô hiểm.

6, cung Nô bộc cung tài bạch hóa kỵ xung cung tật ách, bằng hữu đảo tiền của ta.

7, cung Nô bộc hóa kỵ xung cung tài bạch, không tình nguyện bị bằng hữu khuy rơi tiền.

8, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam hợp phương, không thích hợp kết phường.

9, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, không thích hợp kết phường, tố bảo chứng, tổn hại tài.

10, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, bằng hữu hội đảo tiền của ta, bằng hữu trả ta tiền hội lùi lại.

Cung phụ mẫu hóa kỵ xung cung tài bạch, tiền tài tá bằng hữu, dĩ tha kéo dài lạp phương thức thu hồi.

Tam, tổn hại tài:

1, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung chuyển hóa kỵ, xung lưu niên cung tài bạch, tiền phát sinh vấn đề.

2, đại quan hóa kỵ xung đại tật, lưu tật hóa kỵ xung đại tật, lưu tật hóa kỵ xung A nguyệt, lưu niên trung A nguyệt tổn hại tài.

3, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu điền, khuy tiền.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu niên cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung Nô bộc của cung tài bạch, tổn hại tiền.

5, lưu tài hóa phi hóa lộc nhập B cung chuyển hóa kỵ xung lưu niên cung mệnh, tổn hại tài. Lưu tài hóa phi hóa lộc nhập B cung chuyển hóa kỵ xung A nguyệt cung mệnh, ở

A nguyệt tổn hại tài.

6, đại tài hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập lưu tài (tự hóa kỵ), tổn hại tài.

7, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cánh đồng (tự hóa kỵ), đến đây hạn không có thành tựu.

8, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, tiền so sánh chặt.

9, huynh đệ cung hóa kỵ xung cung mệnh tam hợp, tổn hại tài, sự nghiệp phập phồng đại.

10, bản tài hóa kỵ xung đại tài, lưu niên nhập đại tài hoặc đại phúc thì chủ tổn hại tài.

Đại tài hóa kỵ xung bản tài, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa kỵ xung bản tật, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa lộc xung bản tật, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa kỵ xung lưu tật, lưu niên tổn hại tài; cung Quan lộc hóa kỵ xung cung tật ách, chủ lỗ vốn.

Tứ, tiền tài đi về phía. . . Khán đại hạn hóa lộc:

1, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập đại tài, bản huynh phùng năm sinh hóa kỵ, đến đây hạn tiền cấp huynh đệ, tiền là người khác.

2, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cánh đồng hoặc bản thiên, tiền tài hoa ở cấu phòng cập bên ngoài.

3, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập đại quan, bản giao hữu hóa kỵ xung thiên mệnh, tiền tài hoa vu mua hoàng kim, động sản. Chú: Thiên lương hóa lộc là hoàng kim, động sản. Thiên cơ hóa lộc — máy móc nhà xưởng.

4, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập đại thiên, không giữ được tiền.

5, Đại huynh, bổn điền hóa phi hóa kỵ nhập đại thiên, tiền tài hoa ở bên ngoài.

6, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu quan chuyển hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, tái chuyển hóa phi hóa lộc nhập lưu phu thê, tiền giao cho phối ngẫu.

7, cung tài bạch tứ hóa: Ta tốn ra.

Cung mệnh (cung tài bạch cung Quan lộc, là tài hành vi) khán cung tài bạch hướng đi.

Cung Quan lộc (cử chỉ của ta) tứ hóa, ta kiếm tiền phương hướng.

Cung Quan lộc cung Quan lộc (cung tài bạch), sự nghiệp chỗ tiêu tiền.

Ngũ, cái khác:

1, công ty hướng ngân hàng cho vay:

Lưu quan cha mẹ của (cung Nô bộc) chủ kỳ công ty ông chủ.

Lưu giao hữu hóa kỵ xung mệnh cục tam hợp, không vay được tiền.

Lưu giao hữu hóa kỵ xung cung mệnh hoặc cung Quan lộc, không vay được tiền mà đóng cửa.

2, đòi tiền thời cơ:

Lưu niên hóa phi hóa kỵ nhập lưu huynh xung đại tài, đến đây năm tổn hại tài. Tái dĩ lưu huynh phi hóa hóa lộc, hóa kỵ dĩ định bao thuở đòi tiền: Hóa phi hóa lộc nhập A cung, A nguyệt có thể đòi tiền, hóa phi hóa kỵ nhập A cung cung Quan lộc, A nguyệt tháng sau khứ đòi tiền.

3, tiền tài con số:

⑴ cánh đồng tinh thần ngũ hành thuộc tính cục sổ (tương sinh sử dụng toán cộng, tương khắc sử dụng phép trừ, tương đồng sử dụng toán cộng) số lượng mục đích tối tả một vị con số.

Dĩ đại hạn đấu quân là 1, thuận đi đếm tới bản mệnh cung tài bạch, kỳ sổ tức là ⑴ số con mắt phía linh một sổ tổng số.

Lệ: Đại hạn cung điền trạch tinh thần là: Cự môn (thủy nhị cục)+ thái dương (hỏa lục cục)=6﹣2=4, thì tối tả số con mắt là 4. Đại hạn đấu quân là 1, thuận đi đếm tới bản mệnh cung tài bạch thì là 5, vì vậy đại hạn kiếm tiền 400000 nguyên.

4, đại hạn bàn hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh bàn tương đồng cung vị phùng năm sinh hóa lộc vận dụng:

Đại tài hóa phi hóa kỵ nhập bản tài (phùng năm sinh hóa lộc), kiếm tiền.

Cánh đồng hóa phi hóa kỵ nhập bổn điền (phùng năm sinh hóa lộc), kiếm bất động sản tiền tài.

Tổ phụ hóa phi hóa kỵ nhập bản phụ (phùng năm sinh hóa lộc), phụ mẫu kiếm tiền.

5, đại hạn và cung phúc đức nặng điệt hóa phi hóa kỵ nhập đại tử bản huynh, đến đây hạn tài bất hảo. Đến đây hạn không thích hợp kết phường.

Đại hạn và cung phúc đức nặng điệt hóa phi hóa kỵ nhập đại phúc bản quan, đến đây hạn lỗ vốn, đặc biệt lưu niên nhập đại phúc của năm. Đến đây hạn tình cảm vợ chồng bất hảo, đặc biệt lưu niên nhập đại hạn cung phúc đức của năm.

6, hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung (mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch) cập nó cung sử dụng:

Hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung hảo. Hóa phi hóa lộc nhập ta cung, hóa phi hóa kỵ nhập hắn cung, tổn hại tài. Hóa phi hóa lộc nhập nó cung, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung, tổn hại tài. Cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập ta cung, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cát. Hóa lộc, hóa kỵ phân nhập ta cung, cát. Hóa lộc, hóa kỵ cùng nhập ta cung, hung. Hóa lộc, hóa kỵ phân nhập một đường cung vị thượng, hung. Hắn cung hóa lộc, hóa kỵ đều nhập A cung, cát.

7, cung tài bạch tứ hóa:

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, mua sắm là nên để tránh khỏi tổn hại tài.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, kiếm tiền cùng người cộng phân.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, tiền không đổi bị đảo.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, bị đảo tiền.

Cung tài bạch tự hóa lộc, hội dùng tiền, tài bạch dư dả; có tiền sẽ đi hưởng thụ.

Cung tài bạch tự hóa quyền, cảm dùng tiền.

Cung tài bạch tự hóa khoa, dùng tiền tiết chế.

Cung tài bạch tự hóa kỵ, tổn hại tài.

Chú: Ứng dụng: Năm sinh hóa phi hóa lộc nhập A cung, A cung tự hóa vô.

8, cung phúc đức luận tài bạch:

Cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, tam đại không phát.

Cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, cung tật ách, cung thiên di, tổ ấm khó giữ được.

Cung phúc đức hóa lộc hoặc hóa quyền nhập cung mệnh, có tổ ấm.

Cung phúc đức hóa khoa nhập cung mệnh, có tổ ấm.

9, phong nguyệt tiền:

Thiên diêu ở A cung, A cung cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, kiếm phong nguyệt tiền.

Cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tài bạch, cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, kiếm phong nguyệt tiền.

10, tứ hóa nhập cung tài bạch:

Hóa lộc, hóa quyền nhập cung tài bạch, cảm kiếm cảm hoa. Hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, cảm tá cảm hoa.

Hóa lộc, hóa khoa nhập cung tài bạch, liệu cơm gắp mắm. Năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, tài thủ không tốn sức.

Cung tật ách cái nhìn:

Nhất, luận chí phương pháp:

1, cung tật ách tứ hóa nhập mệnh bàn các cung:

Phi hóa lộc nhập chí trọng đại; quyền nhập chí nhỏ lại; khoa nhập chí nhỏ lại; phi hóa kỵ nhập chính tương chí đồ rơi.

2, cung mệnh ~ cung tật ách là bên trái, cung Nô bộc ~ cung phụ mẫu là phía bên phải. Dương can cung là phía, hong khô là phía trước.

3, phi hóa lộc nhập vừa tự hóa lộc, chí thượng lông dài. Đùi phải sinh sản chân trái tả thắt lưng

4, mệnh bàn và bản thân đối ứng quan hệ như bên phải đồ: Bên phải thắt lưng bụng bên trái

5, thiên cơ hóa quyền nhập thiên, lông mi có chí. Bên phải phúc ngực trái

6, tinh và hóa kỵ hợp tài đoán. Ngực phải vai phải đầu cung mệnh vai trái

7, văn xương, văn khúc là đại chí. Đà la là bớt. Thiên đồng là thường thường chí. Vũ khúc là ba.

Liêm trinh, thái dương là ban, thanh xuân đậu. Lệ: Vũ khúc hóa phi hóa kỵ nhập hợi, thì chân có chí mà lại bộ ngực cũng có chí (vũ khúc đại diện phế kim).

Nhị, luận vóc người chiều cao dĩ cung tật ách tứ hoá phân xử của.

1, tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng liêm trinh, phá quân, cự môn, thiên lương — vóc người cao.

Tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng tham lang — vóc người trung đẳng.

Tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng thiên đồng, thiên cơ, Thái Âm — hơi lùn.

2, hóa lộc — đại; hóa quyền — tráng; hóa khoa — thon thả; hóa kỵ — gầy.

Tam, thọ nguyên:

1, đại hạn hóa kỵ xung bổn điền (tức xung đại tật), đại hạn hóa kỵ xung lưu điền, cai năm qua đời. (lưu niên đi phi hóa kỵ nhập cung thì bản thân tức bắt đầu bất hảo).

2, đại tật hóa kỵ xung thiên mệnh, cánh đồng hóa kỵ xung cánh đồng, cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch giai phá quân. Cố vong (đại hạn thành lưu của cung tài bạch tam phương tình hình đặc biệt lúc ấy tử).

3, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, cung mệnh hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê xung cung Quan lộc, người chết (lưu niên nhập cung Quan lộc năm này chết tiệt).

4, đại tật hóa kỵ xung bản mệnh, sẽ chết. Cánh đồng hóa kỵ xung bản mệnh, sẽ chết.

5, huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch xung nữ cung, sẽ chết nhân.

6, điền trạch của cung Quan lộc (tức cung tật ách) hóa kỵ xung cung mệnh, quyết tử vong.

7, cung điền trạch khán tử vong, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu điền (tự hóa kỵ ra) tử vong.

8, Đại huynh của tật (tức đại thiên) hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ, xung lưu huynh, huynh đệ bản thân bất hảo (cũng có thể dùng vu kỷ thân).

9, lưu tật của quan (tức lưu huynh) hóa kỵ xung bản tật, tử vong (chính suy luận mà được).

10, văn khúc của cung Quan lộc (là lưu niên lục thân cung thì) can cung đinh khiến cho cự môn hóa kỵ tận trời cùng, tử vong (lưu niên lục thân bản thân bất hảo).

11, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, bản thân có chuyện, đại hạn tự hóa kỵ ra canh tao, đại hạn hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập cánh đồng hoặc cánh đồng hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, qua đời.

Tứ, tai nạn xe cộ:

1, lưu mệnh tự hóa kỵ, đến đây năm dễ có tai nạn giao thông.

2, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, cung thiên di hóa kỵ xung cung phụ mẫu, dễ có chảy máu việc, quyên máu có thể mổ.

3, tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập thiên di phùng xa tinh (như thiên cơ, phá quân) xung bản mệnh, người khác lái xe va chạm ta (phùng thiên lương sẽ không quan hệ).

4, cung thiên di hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch xung nữ cung (tật ách của phúc đức), tai nạn xe cộ (ta va chạm người khác). Lưu niên gặp phải thì cùng đoạn.

5, bản tật hóa kỵ xung vở, tai nạn xe cộ (đại hạn nếu có tình huống giống nhau thì sẽ gặp phát sinh).

6, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung thiên di xung bản mệnh, bị va chạm.

Ngũ, tự sát:

1, bản mệnh cung phúc đức hóa kỵ, xung đại phúc, tự sát.

2, đại phúc hóa kỵ xung bản phúc, bất hảo.

3, cự môn, dương nhận, Hỏa Tinh nhập Bản cung hoặc đối cung (tam hợp vô lực), tự sát cách cục.

4, cự môn hóa kỵ tận trời cùng + đà la của cung, tự sát.

5, liêm trinh + Hỏa Tinh, tự sát.

Lục, ngoài ý muốn tai hoạ:

1, cung thiên di hóa kỵ xung cung mệnh, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung tử nữ, ngoài ý muốn tai ách.

2, kỵ xung 1 của tam cung nếu vì bản mệnh bàn thì họa nặng.

3, kỵ xung 1 của tam cung nếu vì đại hạn bàn thì họa khinh.

4, nếu 2 cập 3 việc đồng thời phát sinh thì có nguy hiểm tánh mạng.

5, cung tật ách hóa kỵ xung cung điền trạch, ngoài ý muốn là tai. Lệ:

Cung thiên di hóa kỵ xung bản mệnh cung (tử vị), đại hạn nhập thân cung thì, hóa kỵ thì xung đại quan, đến đây hạn ra ngoài có ý định ngoại tử vong của khả năng.

Cung thiên di hóa kỵ xung bản mệnh cung (tử vị), đại hạn nhập thần cung thì, hóa kỵ thì xung đại tài, đến đây hạn ra ngoài ngoài ý muốn đụng bị thương người khác thường tiền xong việc.

Thất, sinh bệnh:

1, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh, cai năm sinh B bệnh. Lệ: Lưu phụ của tật hóa kỵ là vũ khúc, đến đây năm phụ thân được bệnh phổi.

2, bản tật hóa phi hóa kỵ nhập bản huynh (tật ách của quan lộc) xung cung Nô bộc (phụ của quan), sinh bệnh (đại hạn nhập cung Nô bộc bệnh phát)(đại hạn có đến đây hiện tượng, lưu niên nhập cung Nô bộc bệnh phát).

3, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tật, cai năm bản thân bất hảo. Nếu xung lưu nhật, cai nhật bản thân bất hảo.

4, hóa quyền (năm sinh, đại hạn, mệnh can) xung cung tật ách, sinh bệnh.

5, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức sinh bệnh; đái tật duyên niên.

6, lưu tật hóa kỵ xung đại tật, bản thân bất hảo.

7, lưu tật hóa kỵ xung lưu tật của cung Quan lộc, bản thân bất hảo.

8, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh thần, B tinh thần của khí quan dễ sinh bệnh.

9, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập huynh giao hữu tuyến, sinh bệnh.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung tật ách, sinh tử vấn đề.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung phu thê, sinh tử vấn đề.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung Quan lộc, đái tật duyên niên.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung phụ mẫu, đái tật duyên niên.

10, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập đại tật, bản thân có chuyện.

11, tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh hoặc phúc đức, thể chất yếu, không đổi trị tận gốc. Tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, phối ngẫu bản thân yếu.

12, vũ khúc chỗ cung vị hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, dễ được bệnh nan y. Vũ khúc chỗ cô vị hóa phi hóa kỵ nhập huynh đệ cung, cung Nô bộc, dễ cảm mạo. Chú: Vũ khúc chủ thở hổn hển bệnh.

Bát, nên kỵ phương vị, nơi:

1, cung tật ách hoặc cung tử nữ nội có văn xương hoặc văn khúc.

2, cung tật ách (cung tử nữ) hóa phi hóa kỵ nhập A cung, phàm A cung việc cũng kỵ của.

Chư tinh nhập A cung đại biểu hàm nghĩa:

Thất sát: Kinh khủng, mạo hiểm việc; liêm trinh: Lôi, hỏa; Thái Âm: Bơi dễ rút gân; phá quân: Thủy bàng.

Thiên tướng: Chất có hại, gas, hóa chất dược phẩm; tham lang: Mộ, quan tài; cự môn: Công trường, đường sắt.

3, do 1, 2 cũng biết người này suốt đời nên kỵ của phương vị và nơi, đặc biệt nhi đồng là lúc là nhiên.

Cửu, lương y phương hướng và xu cát tị hung chi đạo:

1, lương y phương hướng:

Tìm đại hạn hóa khoa chỗ phương hướng hoặc đại hạn cung phúc đức hóa khoa chỗ phương hướng.

Nếu phùng tự hóa khoa, thì sẽ tìm hóa lộc chỗ phương vị là lương y phương hướng.

2, xu cát tị hung chi đạo: Dọn nhà.

Cung phúc đức hóa khoa nhập A cung, dời đến A cung của phương vị.

3, huyết quang tai ương có thể quyên máu phương thức mổ của.

Thập, tinh tình luận tật ách:

1, thiên mã nhập lưu tật, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. Lưu niên nhập thiên mã cung Quan lộc, đến đây năm bắt đầu thủ dâm.

Lưu tật là thiên mã cung Quan lộc thì, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. (cũng chính là lưu niên là trời mã cung tử nữ thì)

Lưu mã hoặc lưu niên nhập đại hạn phụ tật tuyến thì, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. Lưu niên và lưu mã đồng thời nhập đại hạn phụ tật tuyến thì, canh như thế đoạn.

2, dương nhận ở cung tật ách, đái tật duyên niên.

3, vũ, giết cập dương nhận ở cung tật ách, đàm tật.

4, vũ khúc (hóa kỵ) nhập cung tật ách, bộ ngực bất hảo.

5, cự môn nhập cung tật ách, cự môn hóa kỵ thì chủ dễ sinh bệnh uống thuốc.

6, thiên hình ở cung tật ách, phụ mẫu bản thân bất hảo. Thiên hình cung Quan lộc hóa kỵ xung lưu niên, có hình thương.

7, thiên diêu cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, phụ nhân bệnh đa.

8, dương nhận, đà la giáp hóa kỵ (năm sinh hoặc cung mệnh can hóa ra) nhập đại hạn, lục thân qua đời.

9, thiên cơ: Gân cốt. Thiên cơ ở A cung. A cung hóa phi hóa kỵ nhập B cung. B cung hóa phi hóa kỵ nhập C cung xung D cung, D cung tứ chi dịch cân cốt thụ thương, đau nhức (D cung tại thân thể bộ vị thỉnh tham khảo nhất của 4).

10, thiên cơ hoặc thiên lương + văn xương + văn khúc nhập cung mệnh, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đến đây đại hạn điên bệnh.

Thiên tướng + văn xương + văn khúc nhập cung mệnh, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đến đây đại hạn có bệnh ngoài da.

Chú: Cung điền trạch có kể trên tình huống thì cùng luận của.

Mười một, cung tật ách tứ hóa:

1, cung thiên di hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa kỵ xung cung mệnh, người này có bệnh kín.

Cung thiên di hóa lộc xung cung mệnh, hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, người này không có hàng da bệnh.

Cung thiên di cung Quan lộc hóa kỵ xung cung tật ách, suốt đời bản thân bất hảo.

2, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, tích mệnh, bản thân không nhiều hảo.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu phùng năm sinh hóa kỵ, tính tình bá đạo; khỏe mạnh.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, bản thân thường có da lông ngắn bệnh.

3, sinh tử việc:

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, dễ phùng sinh tử việc.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung Quan lộc, cung phúc đức hóa kỵ xung cung Quan lộc, có đại tai ách nhưng sẽ không chết.

Chú: Năm sinh hóa lộc hoặc hóa khoa nhập tổ phụ tật tuyến, có thể mổ sinh tử chi kiếp.

Mười hai, cái khác:

1, âm dương cung vị và cung tật ách quan hệ:

Dương cung hóa phi hóa kỵ nhập dương cung, nan trị liệu; âm cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, nan trị liệu.

Dương cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, so sánh dễ trị liệu; âm cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, so sánh dễ trị liệu.

2, thệ vu phương nào:

Huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập nào đó cung chuyển hóa phi hóa kỵ nhập A cung (chết địa phương).

Mệnh thiên tuyến: Ngoài ý muốn tử vong; huynh giao hữu tuyến: Chết ở bằng hữu chiếu cố cho; quan ngẫu tuyến: Chết ở công tác tràng thượng;

Tử điền tuyến: Chết ở trong nhà; tài phúc tuyến: Chết vào trên giường; phụ tật tuyến: Do y viện sĩ về nhà, chết vào trong nhà.

3, cung điền trạch và cung tật ách quan hệ:

Cung điền trạch là 1, thì cung tật ách là 9.

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, so sánh nghiêm trọng; nhân ngoài ý muốn mà tàn tật.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, dùng tiền tiêu tai; nhân ngoài ý muốn mà sinh bệnh.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung tật ách, mặt mày hốc hác lưu lại dấu vết.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung phụ mẫu, tàn tật. Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, chuyện ngoài ý muốn mà dùng tiền.

4, mệnh chủ vũ khúc + năm sinh hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, tiếng đồng hồ khó sinh.

Mệnh chủ lộc tồn + năm sinh hóa kỵ xung cung mệnh, tiếng đồng hồ hiểm mất mạng

5, ngũ tạng lục phủ ở 12 cung vị đưa: (như sau đồ)

6, cha mẹ tật ách:

Lưu niên phụ của tật cung Quan lộc (tức lưu niên cung mệnh) hóa kỵ xung

Bản phụ của tật (tức cung tài bạch), phụ thân bản thân bất hảo.

Đại hạn nhập cung phúc đức, cung phụ mẫu hóa kỵ, tổ phụ ở, phụ thân

Nguy hiểm, tổ phụ không ở vô phương.

Tổ phụ của tật (tức đại thiên) hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu phụ của tật (tức lưu thiên), mẫu thân bản thân bất hảo.

7, năm sinh hóa quyền nhập cung tật ách, tiếng đồng hồ nan đái nuôi.

8, cung tử nữ tự hóa kỵ, so sánh sẽ không xảy ra bệnh.

9, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, mặt mày hốc hác, bị thương tàn phế, dấu vết (và giơ cao dương nhập cung mệnh có tương đồng dấu hiệu).

Cung Quan lộc cái nhìn:

Nhất, thăng quan:

1, đại hạn hóa quyền nhập bản mệnh hoặc bản quan, đại hạn hóa quyền chiếu lưu mệnh hoặc lưu quan, cai năm thăng quan. Đại hạn hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh hoặc lưu quan (tức hóa lộc hóa quyền hỗ chiếu), đến đây năm quá.

2, cung Quan lộc của tứ hóa: (bản quan hóa ra, đại hạn phùng; đại quan hóa ra lưu niên phùng của).

Cung Quan lộc của hóa lộc: Lên chức, đề bạt, vào nghề; đi cửa sau thăng thiên.

Cung Quan lộc của hóa quyền: Lên chức, gây dựng sự nghiệp (hóa quyền biểu thành tựu).

Cung Quan lộc của hóa khoa: Quý nhân, có người giúp đỡ; có người ban cho chính, đánh giá thành tích; hảo.

Cung Quan lộc của hóa kỵ: Không thuận.

3, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập phụ tật tuyến hoặc mệnh thiên tuyến, thăng quan.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, nhân viên chính phủ dễ tham không an phận của tài.

Cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, dĩ tiền tài trải qua nhân giới thiệu mà thăng quan.

Cung Quan lộc hóa quyền nhập huynh giao hữu tuyến, dĩ nhân tình trải qua nhân giới thiệu mà thăng quan.

4, nhậm chức hậu lên chức: Cung Quan lộc tứ hóa tam cát nhập cung tật ách.

Hóa lộc: Điều động nội bộ; hóa quyền: Điều động nội bộ, cố định; hóa khoa: Còn muốn tuyển trạch; hóa kỵ: Không có, còn không thượng.

5, đại quan hóa quyền chiếu bản quan, lưu niên nhập phối ngẫu hoặc cung Quan lộc thì thăng quan.

Nhị, đọc sách thật là tốt phôi:

Đọc sách thật xấu khán cung Quan lộc tứ hóa nhập cung phụ mẫu nhận của:

1, hóa lộc: Phản ứng khoái, thông minh.

2, hóa quyền: Dụng tâm đọc sách, có khả năng, chính dụng công, danh liệt tiền mâu.

3, hóa khoa: Lớp giữa thành tích.

4, hóa kỵ: Không thích đọc sách, thành tích bất hảo, yếu thôi, ép mới bằng lòng đọc sách.

5, hóa lộc, hóa khoa: Thành tích tốt.

6, hóa quyền, hóa khoa: Nỗ lực đọc sách, thành tích tốt, dụng công tài năng thành tích tốt.

7, hóa lộc, hóa quyền: Thích hợp tham chánh làm quan, danh liệt tiền mâu.

8, hóa lộc (mà lại tự hóa kỵ): Mặc dù thông minh, nhưng không chịu đọc sách.

9, cung phụ mẫu tự hóa kỵ: Mình không thể đọc sách.

10, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, tại ngoại thông minh, nhưng không cần công.

Chú: Đại quan tứ hóa nhập bản phụ hoặc tổ phụ đều có thể đoạn đọc sách thật xấu.

Tam, đóng cửa:

1, đại quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung đại tật, đóng cửa. Lưu niên hóa kỵ xung đại tật, hơn thế năm đóng cửa, xung lưu nguyệt của tật, cai nguyệt đóng cửa.

2, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, đóng cửa.

3, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, đóng cửa.

4, lưu quan hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tật, đóng cửa.

5, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung bản giao hữu, sinh ý sụp đổ.

6, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu giao hữu, đóng cửa.

7, lưu niên tự hóa lộc ra, lưu quan hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, còn không hội đảo.

8, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, dễ đóng cửa (đi làm nhân viên quan kỵ xung tật công ty không ngã, duy thân bị xung động, đi làm lười biếng vô tình).

9, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập huynh đệ cung xung cung Nô bộc, nan chi trì.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ xung cung điền trạch, khuy tiền. } khán tiền phương pháp nhanh nhất.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, đóng cửa.

10, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách xung cung phụ mẫu,, lưu niên nhập cung phụ mẫu, cai năm đóng cửa.

Tứ, kết phường sự nghiệp:

1, kết phường tình huống:

Cung Nô bộc cung tài bạch, khán yếu bao nhiêu tiền hợp tác.

Cung Nô bộc nạp âm cục sổ định hợp tác nhân số.

Cung tài bạch hóa quyền, hóa khoa nhập cung mệnh, dĩ kỹ thuật cùng người hợp tác, không – cần phải bỏ tiền.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, bỏ tiền khá nhiều.

Cung tài bạch hóa quyền nhập cung mệnh, không muốn xảy ra tư, là cổ phần danh nghĩa.

Cung tài bạch hóa khoa nhập cung mệnh, bỏ tiền ít.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, và cổ đông ra đồng dạng tiền tài.

2, kết phường thì, khả phủ trữ hàng sản phẩm:

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, tử điền tuyến, bất khả trữ hàng.

Cung điền trạch tứ hóa tam cát nhập phụ tật tuyến, tử điền tuyến, có thể trữ hàng.

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập huynh giao hữu tuyến, tiểu khuy mà thôi, làm từng bước địa mại.

3, cung tử nữ hóa kỵ sung cung Nô bộc, huynh đệ cung, cung tử nữ, 40 tuổi tiền không nên hợp tác.

4, kết phường thích hợp phủ:

Cung Nô bộc tứ hóa tam cát nhập ta tam phương, cát.

Cung Nô bộc hóa kỵ xung bản mệnh, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa kỵ xung bản mệnh hoặc cung Nô bộc, bất năng cổ đông; không có đào hoa không có nhi tử.

Cung Nô bộc vượng thì có thể, suy bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung Nô bộc, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh tam phương, tam cát hội chiếu ta tam phương, kết phường đại cát.

Cung tử nữ hóa lộc, hóa kỵ đều nhập cung Nô bộc, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, kết phường thì, đối với bằng hữu so sánh có lợi.

Đại tử hóa quyền nhập lưu niên, kết phường.

Cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, đại hạn nhập bản mệnh cung phúc đức, có thể kết phường, mà lại năng lực kiếm tiền.

Huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, không thích hợp kết phường sự nghiệp; không thích hợp vay tiền cấp bằng hữu.

5, giải tán:

Đại hạn hóa phi hóa lộc nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung đại tử, giải tán.

Lưu niên hóa phi hóa lộc nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung lưu tử, giải tán.

Đại tử hóa phi hóa kỵ nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung lưu tử, đương niên đầu tư đương niên giải tán.

6, lưu niên hóa kỵ xung lưu tử, giải tán; đại hạn hóa quyền chiếu lưu niên, sách cổ hậu chính vừa làm tiếp đứng lên.

Ngũ, làm loại nào hành nghiệp:

1, tứ hóa năm sinh nhập cung mệnh tam hợp phương đoạn chức nghiệp:

Hóa lộc + hóa quyền, việc buôn bán (nếu nhập huynh giao hữu tuyến, thì chủ ở nơi công cộng từ thương).

Hóa lộc + hóa khoa, tố trên danh dự sinh ý.

Hóa quyền + hóa khoa, tố tính kỹ thuật công tác.

Chú: Cũng có thể cung mệnh tứ hóa đoạn hậu thiên nên làm hành trình nghiệp.

2, tam hợp đoạn chức nghiệp:

⑴, cơ nguyệt cùng lương cách: Công chức, văn giáo, in ấn.

⑵, giết, phá, lang cách: Kỹ thuật.

⑶, Thiên phủ, liêm trinh cách: Máy tính nghiệp.

⑷, thái dương, liêm trinh gia thiên hình cách: Chính trị, pháp luật.

Tương ⑴ và ⑵ điều phối hợp ứng dụng thì: Mệnh cách là Sát Phá Lang cách, cung mệnh tứ hóa thành cơ nguyệt cùng lương cách, ở công giáo đơn vị làm tính kỹ thuật công tác. Dĩ tứ hóa thành chủ, tam kết hợp phụ.

3, công vụ nhân viên:

Thiên hình của cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, bi tử nhân viên công vụ.

Thiên hình của cung Quan lộc tự hóa lộc, nhân viên công vụ thân phận có thể chính quyết định, nhưng không làm vừa không có ý tứ.

Thiên hình của cung Quan lộc tự hóa kỵ, nhân viên công vụ thân phận cũng chính quyết định, mời tố người ta không làm.

Cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập thiên hình của cung Quan lộc, đại diện tài ba của ngươi, quốc gia chỉ định cấp cho người ta, vì quốc gia nhân viên quan trọng.

Cung phụ mẫu hóa lộc, hóa khoa nhập thiên hình của cung Quan lộc, là đại quan bận rộn của chức.

Thiên hình cung Quan lộc và cung phụ mẫu nặng điệt, quân nhân là nên.

Đại hạn đi ngược chiều, đi làm nhân viên. Đại hạn thuận đi, người làm ăn.

4, làm công chức hoặc tư chức:

Đại tài hóa phi hóa lộc nhập đại tật, công chức phục vụ.

Đại tài hóa phi hóa lộc nhập huynh đệ cung, tư chức phục vụ.

5, chỉ có thể thuộc nước chức nghiệp (tiêu khiển, thực phẩm, buôn bán nghiệp) cách cục:

Cung Quan lộc hóa kỵ đi ra ngoài. Cung Quan lộc tự hóa kỵ ra. Cung Quan lộc có hóa kỵ.

Bản mệnh tam hợp tự hóa kỵ. Cung tài bạch hóa kỵ, xung bản mệnh cung.

6, tinh tình luận chức nghiệp:

Đào hoa tinh nhập cung tài bạch, cung phúc đức thì, có thể là điện ảnh và truyền hình nhân viên.

Giết, phá, lang nhập cung phúc đức, người làm ăn.

Thiên phủ ở cung tài bạch, người làm ăn.

Thiên tướng ở cung tài bạch, công vụ nhân.

Tử vi + thiên tướng ở cung mệnh, công vụ nhân.

7, làm loại nào hành nghiệp thể kiếm tiền:

Đại tài hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh cung, cung tài bạch, cung tật ách, cung điền trạch đoạn làm hành nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung tật ách, cung Quan lộc, cung điền trạch đoạn làm hành nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh thần xung C cung, đi hạn quá A hoặc C cung hậu có thể làm B việc nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ →C tinh thần, có thể làm C chuyện nghiệp.

Lệ: Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, cung thiên di thiên đồng hóa kỵ, có thể làm ẩm thực, nghề phục vụ, mệnh lý nghiệp.

Dĩ đại tài hóa lộc hoặc hóa lộc tái chuyển hóa kỵ tìm của.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập A cung B tinh thần, B tinh thần hành trình nghiệp có thể làm của. Nếu A cung có sống năm hóa kỵ, thì thủ bản tài của tứ hóa tam cát nhập bản mệnh tam phương cập cung điền trạch ngôi sao thần là chức nghiệp.

Lánh pháp: Đại tài hóa phi hóa lộc nhập bản mệnh bàn các cung đoạn thích hợp chức nghiệp.

Cung mệnh, cung thiên di, văn lộ phát triển, dạy học, kiên khách.

Huynh đệ cung, cung Nô bộc, kết phường.

Cung tử nữ, cung điền trạch, đi làm.

Cung tài bạch, cung phúc đức, kinh thương, việc buôn bán.

Cung phụ mẫu, cung tật ách, đi văn lộ, dạy học.

8, cung mệnh can là đinh can hoặc mậu can, tài nghệ, tính kỹ thuật chức nghiệp.

9, cung mệnh (cung tài bạch cung Quan lộc) khiến cho A tinh thần hóa lộc, hóa quyền chiếu cung tài bạch, làm A tinh thần của công tác hội kiếm đồng tiền lớn. Chú: Dĩ hóa quyền làm trọng điểm.

10, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, nên đi làm, không thích hợp từ thương.

Lục, có phủ ông chủ mệnh:

1, nam mệnh dĩ thái dương chỗ cung vị phi hóa hóa lộc. Nữ mệnh ất Thái Âm chỗ cung vị phi hóa hóa lộc.

Hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc là ông chủ mệnh.

Hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, cung điền trạch, là vô thực quyền của ông chủ.

Hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, đi làm tộc.

2, đại hạn hóa quyền nhập A cung chiếu B cung, lưu niên nhập A hoặc B tình hình đặc biệt lúc ấy làm lão bản.

Đại quan hóa quyền nhập thiên mệnh, lưu niên nhập đại thiên, cùng người kết phường.

Đại hạn hóa quyền nhập A cung (làm gốc mệnh tam phương) chiếu B cung.

Lưu niên nhập A cung, đương thực chất ông chủ.

Lưu niên nhập B cung, đương hư có ông chủ (kết phường nghiệp).

3, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, không thích hợp làm lão bản.

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung Quan lộc, nên đi làm.

Thất, giảm biên chế:

1, cung Quan lộc cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung thiên di, cung phu thê, giảm biên chế.

Cung Quan lộc cung Nô bộc hóa lộc, hóa quyền, hóa khoa nhập cung tật ách, giảm biên chế, tài không được ta.

2, giảm biên chế khán cung tử nữ (cung Quan lộc cung Nô bộc).

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung mệnh, cung tật ách, cung Quan lộc, bị giảm biên chế.

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung Nô bộc, giảm biên chế.

A cung hóa kỵ xung nữ cung, tương A cung người tài rơi.

Bát, nước ngoài mậu dịch:

1, nước ngoài mậu dịch dĩ cung thiên di cung Quan lộc (tức cung phu thê) là việc chính:

Cung phu thê hóa kỵ xung cung thiên di, nước ngoài mậu dịch không thuận.

Cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, nước ngoài đơn đặt hàng đa, sự nghiệp thuận lợi.

2, nước ngoài mậu dịch đơn đặt hàng khán cung thiên di cung điền trạch (tức cung tử nữ) là việc chính:

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung thiên di, không có đơn đặt hàng.

3, làm nước ngoài mậu dịch:

Cung Quan lộc can cung là giáp, đinh, kỷ can mà lại dịch mã tinh nhập cung Quan lộc.

Cung Quan lộc ở tị cung, dịch mã tinh nhập cung Quan lộc.

Cửu, cung Quan lộc vận dụng (công ty vận chuyển buôn bán cát hung):

Dĩ cung Quan lộc là cung mệnh thì, có thể đem còn lại các cung loại hóa thành tả liệt của các loại cung vị cho rằng công ty luận mệnh của căn cơ:

Cung tài bạch cung Quan lộc: Khán công ty đi làm trạng thái.

Cung tài bạch hóa quyền xung cung Nô bộc, không để ý tới thủ trưởng.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, công ty tương tiền thu hồi lại, không chịu cầm đầu tư.

Cung tài bạch, cung Quan lộc cung điền trạch hung, mặt ngoài không sai, thật là kẻ buôn nước bọt công ty.

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung mệnh, cái gì cũng không bằng ý,

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung tài bạch, Tiền thiếu, đi làm không như ý.

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung Quan lộc, vận khí bất hảo, đi làm không như ý.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách (tức cung Quan lộc cung điền trạch) đi làm địa phương khuy tiền, chủ đóng cửa.

Cung Quan lộc cung Quan lộc: Khán sự nghiệp doanh nghiệp trạng thái: Cung tài bạch hóa kỵ xung cung mệnh, lỗ vốn.

Cung Quan lộc cung tài bạch: Sự nghiệp tài chính. Cung mệnh hóa kỵ xung cung Quan lộc, tài chính thiếu.

Cung Quan lộc huynh đệ cung: Khán công nhân.

Cung điền trạch cái nhìn:

Nhất, cấu phòng:

1, đại hạn hóa kỵ xung cung mệnh, đến đây hạn không có khả năng mãi phòng ở, cho dù mãi cũng hội bán đi.

2, cấu phòng khán lộc (muốn mua, tiền khả năng thiếu), quyền, khoa (nhưng yêu cầu chỉnh lý thành thư thích, không muốn mua nữa).

Hóa quyền nhập bản mệnh tam phương, cấu trọng đại phòng ở.

Hóa quyền nhập đại hạn tam phương, cấu nhỏ lại phòng ở.

3, đại hạn hóa quyền nhập cung tật ách, có mua phòng của khả năng, lưu tài hóa kỵ xung lưu điền, đến đây năm cấu phòng phải không.

4, bổn điền hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, suốt đời có ít nhất tam, tứ gian phòng tử.

Huynh đệ cung tự hóa kỵ, phòng cho thuê tử chiếm đa số.

Huynh đệ cung của tứ hóa tam cát nhập cung mệnh, cung thiên di, mua phòng.

5, cung mệnh hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, muốn mua phòng ở.

Lưu niên cung tài bạch hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, muốn mua phòng ở.

6, cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, đây là bản thân cả đời của phòng ở.

7, cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập đại hạn (bổn điền) có thể mãi phòng địa sản, đại hạn tự hóa kỵ ra, phòng ở không giữ được; năm sinh hóa quyền nhập đại hạn (hóa quyền là hóa lộc hơn khí), mãi phòng ở hội kiếm tiền.

8, cánh đồng của quan hóa khoa nhập bổn điền, mãi phòng ở, đại hạn nhập bổn điền, bổn điền tự hóa kỵ ra, mãi phòng ở vừa bán tố phòng địa sản sinh ý tốt.

9, lưu tài hóa khoa nhập bổn điền, lưu tài hóa quyền nhập lưu điền, mãi phòng ở.

10, cánh đồng hóa phi hóa lộc nhập thiên mệnh (cũng bổn điền), mãi phòng ở hội kiếm tiền.

Cánh đồng cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập bổn điền (điệt thiên mệnh), hội mãi giác đại phòng ở.

Tử vi chỉ bí

Tử vi chỉ bí tử vi chỉ bí khẩu quyết (một trong) tử vi nhất thuật chính xác mệnh lý, mười hai cung trung bố quần tinh. Phán định hưu cữu phúc họa chiếu, yêu ghét phân rõ yêu cầu kỳ tinh. Năm can định ra âm dương tính, sau đó khởi xuất thân cung mệnh. Cung mệnh định ra mười hai cung, vô luận âm dương nhận đi ngược chiều. Đón định ra thiên thương khiến cho, mười hai cung can phi mùa màng. Âm dương nam nữ khởi đại hạn, nam thuận nữ nghịch tiểu đi đầu. Tử vi ngôi sao cư nhật đi, dưới đây khởi ra tử vi hệ. Cơ dương khúc cùng sao Liêm trinh, Thiên phủ quay chung quanh tử vi đi. Thiên phủ tinh hệ thuyết phân minh, âm lang môn lương giết quân tương. Căn cứ bản thân cùng hắn cung, miếu vượng địa lợi và rảnh rang rơi. Đón khởi sang tháng hệ tinh, cửu loại tinh thần phải nhớ thanh. Đón khởi ra thì hệ chư, vận dụng nhị hợp có thể tiệp kính. Mười bốn khỏa tinh phải nhớ thanh, căn cứ năm làm lên tứ hóa. Lại muốn khởi ra năm chư tinh, căn cứ thuận nghịch ngũ hành cục. Khởi ra mười hai trường sanh quyết, tuần khoảng không nhật hệ đón khởi. Thuận thuận nghịch nghịch bất khả loạn, mệnh bàn đến tận đây bài mãn tinh. Nhớ kỹ tinh tình là được đoạn, tinh tình tiên muốn đẩy tính tình. Tứ xây hóa khoa bất khả khinh, cung vị nhất định phải phân rõ. Theo tuần hoàn hoàn vận trình đi, mấy lần cung biến tinh vận thay đổi. Ăn khớp trực giác tư duy bình, cung tinh tứ hóa vận thiên nhân. Mười hai tĩnh cung và động cung, hình thành 1 4 4 cung hình. Càng rõ ràng hơn đây là thể, sử dụng cung vô số hằng hà. Cung và cung hình 4 điều tuyến, lục tuyến vẽ ra nhân sinh tình. Vì thì vật khởi bàn pháp, mệnh bàn vô hạn thuyết hữu tình. Tử vi chỉ bí khẩu quyết hiện viết đáo giá, để đại gia tốt hơn lý giải, hiện nêu ví dụ như sau: Nào đó nữ 1984 năm 6 nguyệt 14 nhật giờ Mùi làm thí dụ, nói rõ bài bàn phương pháp và thứ tự. 1, căn cứ sinh nguyệt ở tháng sáu, sinh thì là giờ Mùi, nhất định kỳ cung mệnh ở tử, thân cung ở dần 2, căn cứ cung mệnh ở tử, có huynh đệ là hợi, phu thê là tuất, tử nữ là dậu, tài bạch là thân, tật ách là vị, thiên di là ngọ, nô bộc là tị, quan lộc là thần, điền trạch là mão, lộc đức là dần, phụ mẫu là xấu. 3, căn cứ sống ở một giáp năm, kỳ Thiên can là giáp, có cái khác các cung Thiên can, dần bính, mão đinh, thần mậu, tị kỷ, ngọ canh, vị tân, thân nhâm, dậu quý, tuất giáp, hợi ất, tử bính, xấu đinh. 4, căn cứ sinh thì năm can là giáp, cung mệnh ở tử, có thứ năm hành cục là thủy cục. 5, căn cứ sinh nhật là nông lịch 14 nhật, ngũ hành cục là thủy, cũng biết tử vi tinh ở thân. 6, căn cứ tử vi tinh ở thân, tử vi tinh hệ cái khác chư tinh vị đưa chia ra làm, thiên cơ ở vị, thái dương ở tị, vũ khúc ở thần, thiên đồng ở mão, liêm trinh ở tử. 7, căn cứ tử vi ở thân, có Thiên phủ ở thân 8, căn cứ Thiên phủ tinh ở thân, có Thiên phủ tinh hệ vị trí chia ra làm: Thái Âm là dậu, tham lang là tuất, cự môn là hợi, thiên tướng là tử, thiên lương là xấu, thất sát là dần, phá quân là ngọ. 9, căn cứ sinh thì chi vị và năm sinh cái giá, có văn xương ở mão, văn khúc ở hợi, Hỏa Tinh ở dậu, linh tinh ở tị, Địa kiếp ở ngọ, địa khoảng không ở thần, thai phụ ở xấu, phong cáo ở dậu. 10, căn cứ sinh nguyệt là nông lịch 6 nguyệt, có nguyệt tinh hệ vị trí là: Tả phụ là dậu, bên phải bật là tị, thiên hình là dần, thiên diêu là ngọ, thiên mã là tị, mổ thần là tử, thiên vu là thân, thiên nguyệt là mão, âm sát là thần. 11, căn cứ sinh nhật là 14, từ tả phụ vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, thuận số đáo sinh nhật 14, tức được ba máy ở tuất. Từ bên phải bật vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, nghịch đếm tới sinh nhật 14, tức được bát tọa ở thần. Theo văn xương vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, thuận số đáo sinh nhật 14, lui về sau nữa một tức được dạ quang ở mão. Theo văn khúc vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, nghịch đếm tới sinh nhật 14, lui về sau nữa một, dạ quang ở hợi. 12, căn cứ năm sinh can giáp có thể xác định: Lộc tồn tại dần, giơ cao dương ở mão, đà la ở xấu, thiên khôi ở xấu, thiên việt ở vị, hóa lộc và liêm trinh đồng vị, hóa quyền và phá quân đồng vị, hóa khoa và vũ khúc đồng vị, hóa kỵ và thái dương đồng vị, thiên quan ở vị, thiên phúc ở dậu. 13, căn cứ năm sinh chi là tử, có năm chi tinh hệ vị trí là: Thiên khốc là ngọ, thiên hư là ngọ, long trì là thần, phượng các là tuất, hồng loan là mão, thiên hỉ là dậu, cô thần là dần, quả túc là tuất, triết liêm là thân, phá nát là tị, thiên tài ở cung mệnh, thiên thọ ở dần. 14, căn cứ ngũ hành cục là thủy cục, giáp năm sinh nữ là dương nữ, có mười hai bài vị đưa là: Trường sinh là thân, tắm rửa là vị, quan đái là ngọ, lâm quan là tị, đế vượng là thần, suy là mão, bệnh là dần, tử là xấu, mộ là tử, tuyệt là hợi, thai là tuất, nuôi là dậu. 15, một giáp năm sinh ra là dương nữ, lộc tồn tại dần, có, bác sĩ ở dần, lực sĩ ở xấu, thanh long ở tử, tiểu hao tổn ở hợi, chiếu tướng ở tuất, tấu thư ở dậu, phi liêm ở thân, hỉ thần ở vị, bệnh phù ở ngọ, đại hao tổn ở tị, phục binh ở thần, quan phù ở mão. 16, căn cứ cung mệnh ở tử, có thiên thương ở tị, thiên sứ ở vị 17 căn cứ năm sinh can giáp chặn khoảng không là thân. 18, căn cứ năm sinh can giáp, địa chi là tử, khoảng không vong ở tuất hợi. 19, cung mệnh ở tử mệnh chủ là tham lang tinh. 20, năm sinh chi là tử thân chủ là hỏa tinh. 21, căn cứ thủy nhị cục, dương nữ, đại hạn chỗ cung lần lượt là: Cung mệnh 2–11, huynh đệ 12–21, phu thê 22–31, tử nữ 32–41, tài bạch 42–51, tật ách 52–61, thiên di 62–71, nô bộc 72–81, quan lộc 82–91, điền trạch 92–101, lộc đức 102–111, phụ mẫu 112—121. 21, căn cứ năm sinh chi là tử, có tuổi vận là tử, xui là xấu, Tang Môn là dần, quán tác là mão, quan phù là thần, tiểu hao tổn là tị, đại hao tổn là ngọ, long đức là vị, bạch hổ là thân, thiên đức là dậu, người đi viếng là tuất, bệnh phù là hợi. 22, căn cứ năm sinh chi là tử, có đeo sao là tử, phàn an là xấu, tuổi bảo là dần, hơi thở thần là mão, mui xe là thần, cướp sát là tị, tai sát là ngọ, Thiên Sát là vị, chỉ bối là thân, Hàm trì là dậu, nguyệt sát là tuất, vong thần là hợi. 22, căn cứ sanh ở tháng sáu, canh giờ ở vị, có năm đấu quân vị là dần. Nô bộc kỷ đại dương bên phải bật linh tinh thiên mã phá nát hóa kỵ đại hao tổn lâm quan thiên di canh phá quân Địa kiếp thiên nghiêu bát tọa hóa quyền thiên khốc thiên tọa bệnh phù quan đái tật ách tân thiên cơ thiên việt thiên quan tắm rửa tài bạch nhâm tử vi Thiên phủ triết liêm phi liêm hỉ thần trường sinh quan lộc mậu vũ khúc địa khoảng không âm sát hóa khoa long trì đế phục binh vượng năm đấu quân vị là dần, thiên thương ở tị, thiên sứ ở vị cung mệnh ở tử, thân cung ở dần khoảng không vong ở tuất hợi tử nữ quý Thái Âm tả phụ Hỏa Tinh phong cáo thiên phúc thiên hỉ tấu thư nuôi điền trạch đinh thiên đồng văn xương thiên nguyệt giơ cao dương hồng loan dạ quang quan phù suy Tôn mỗ dương nữ mệnh bàn một giáp năm tân vị nguyệt Đinh Mùi nhật Đinh Mùi thì ngũ hành cục là thủy nhị cục chặn khoảng không là thân phu thê giáp tham lang tam hợp phượng các cô tướng già quân thai lộc đức bính thất sát thiên hình lộc tồn bác sĩ bệnh phụ mẫu đinh thiên lương thai phụ đà la thiên khôi lực sĩ tử cung mệnh bính liêm trinh thiên tướng mổ quyền hóa quyền thiên tài thanh long mộ huynh đệ ất cự môn văn khúc thiên đắt tiểu hao tổn tuyệt căn cứ trở lên mệnh bàn có thể xong như sau tin tức: 1, cung mệnh tin tức. Liêm trinh nhập cung mệnh người của hình dáng tướng mạo có vẻ tinh thần mà có tính cách, chiều cao 31 tuổi hậu thể tráng, lông mi thưa thớt hoặc tủng kiên, xương cung mày long cực kỳ, cá tính bay bổng, ngoan cố hiếu thắng tùy hứng, thông minh tự phụ, giữ tại trứ mãnh liệt phản kháng, trả thù tính cường, không câu nệ tiểu tiết, nhanh mồm nhanh miệng, hoàn toàn không tô son trát phấn tình cảm của mình, có lúc dễ xung động, có hấp dẫn, thân cận khác giới khí chất. Nên làm và khác giới tiếp xúc chức nghiệp, như nhân viên công vụ, nghệ phẩm thương chờ, không thích hợp chính trị. Nghi cư ở tương đối phức tạp hoàn cảnh, như cư nhà trọ nghi cư trung tầng bất khả rất cao, vừa nghi cư hành lang gấp khúc mà không có thể đến gần cửa thang lầu hoặc lâu miệng thông đạo. Ở vào tử thủy cung, nhân tài cách. 2, huynh đệ cung tin tức. Bằng hữu không ít, thế nhưng tri kỷ không nhiều lắm, năng lực rất tốt xử lý quan hệ, tình cảm hòa hợp, có thể hỗ bang hỗ trợ. Thế nhưng bằng hữu phần nhiều là ái càu nhàu người của. 3, cung phu thê tin tức. Tham lang tinh nhập cung phu thê. Có ly hôn dấu hiệu. Nếu trước khi cưới có từ hôn chuyện phát sinh, có thể mổ đến đây ách. Nhưng không thể tránh né sẽ có một ít khuyết điểm: Tính, tinh thần không mục chờ hiện tượng mà dồn gặp ở ngoài. 4, cung tử nữ tin tức. Có quý tử nữ. 5, cung tài bạch tin tức. Cây chùm ớt Thiên phủ vào cung, tài vận thuận thông, giàu có, chung thân bảo thủ. 6, cung tật ách tin tức. Còn nhỏ tã lót đa tai, biểu thị chính là ngươi sau khi sinh trong vòng ba năm thể chất hết sức yếu ớt, thế nhưng sau khi lớn lên hội từ từ chuyển biến tốt đẹp. Dễ mắc bệnh bao tử. Can đảm có hàn. 7, cung thiên di tin tức. Phá quân và hóa quyền cùng cung, bất năng ở bản địa phát triển. Ở đất khách có thể thu được bãi đất vị, có thể phát đạt. Thế nhưng sẽ có một ít phiền não. 8, nô dịch cung tin tức. Có thể thu được đắc lực của thuộc hạ hoặc bằng hữu của hiệp trợ. 9, cung Quan lộc tin tức. Có văn chức mà lại có thể phát tài. 10, cung điền trạch tin tức. Có thể thủ tổ nghiệp, canh có thể tự đưa sản nghiệp. Tiên ít hậu đa, bất động sản hội dần dần gia đa. 11, cung phúc đức tin tức. Thất sát vào cung mà lại nhập miếu có thể hưởng thanh phúc. Suốt đời có phúc đại, năng lực vui vẻ qua sinh hoạt. 12, cung phụ mẫu tin tức. Thiên lương vào cung mà lại cư vượng địa, phụ mẫu thọ trường, phụ mẫu hoạt bát kiện khang có trách nhiệm tâm, tâm địa thiện lương người. Tổng quan toàn bộ: Cai nhiều người bán có đặc thù kiến giải, nhân sinh quan có khác một phen triết học, đa số một đại tông sư. Suốt đời tiền tài không thiếu, quản lý tài sản năng lực giai, thế nhưng có keo kiệt keo kiệt khuynh hướng. Tinh thần dễ trống rỗng, buồn khổ. Tảo hôn bất lợi, nên kết hôn muộn. Cả đời phúc hậu. Suốt đời có nhiều quý nhân tương trợ, thông minh có tài năng. Mới quen cho người cảm giác rất lạnh mạc, nhưng thật ra là một nhiệt tâm nhân, nếu như người khác muốn cầu cạnh chính, hội toàn lực tương trợ. Thế nhưng có lúc hội rơi vào bị phiến cục diện, ngắm có thể có thể thận trọng giao hữu, đối với hắn người sở cầu phải có sở phân biệt đối đãi. Hôn nhân phương diện hẳn là đa số đối phương lo lắng, bất khả khư khư cố chấp, bởi vì ở cai số mạng của người trung, duy nhất không như ý đó là đến đây điều. Hôn nhân là một nữ nhân lần thứ hai sinh mệnh, dĩ nhiên ở hiện nay xã hội nữ quyền phổ biến, nữ nhân ỷ lại tính hội ít một ít, thế nhưng hôn nhân dù sao cũng là một đại sự. Tòng mệnh bàn đến xem, cũng có một ít hóa giải phương pháp, thí dụ như: Có thể kết hôn muộn, tận lực tìm một cầm tinh, bát tự cùng mình xứng đôi, còn có thể lành nghề vận thì đoạn lý đi tìm. Vợ vóc dáng ở 1 mễ 76 tả hữu. Hay nhất ở trước khi cưới tìm một vị đại đức cao nhân là hôn nhân của mình làm một một toàn diện bày ra. Ghi nhớ kỹ không nên tùy tùy tiện tiện đối đãi hôn nhân của mình. Cũng không cần quá phận tin tưởng có chút hoa ngôn xảo ngữ đồ. Như vậy, lại vừa được giai ngẫu. Phụ mẫu tình cảm tương hài, đáng tiếc mẫu thân nhân vị trí có xung, bản thân nghèo nàn, hẳn là ở thận trải qua và phế mạch. Mỗi phùng dương năm và thử năm, thân thể sẽ xuất hiện như vậy tâm bệnh. Cai người thận cũng sẽ có tâm bệnh, đồng thời đầu có nghiêng đầu tính đau đầu. Thế nhưng tử vi có lợi, bất trí trở ngại. Bài vở và bài tập phương diện ở cao trung trước đây chỉ là thường thường mà thôi, bởi vì hứng thú rộng khắp, ham chơi mà dồn, sơ trung vưu quá mức, cao trung cũng không nhẹ. Tiến nhập đại học cửa trường, mới bắt đầu liễu mình chân chính văn xương cuộc hành trình. Học tập ngôn ngữ thiên phú rất cao, có khá cao nghị lực và bền lòng. Bởi vì văn xương và nguyên nhân sẽ tới rời nhà rất xa đất khách đi công tác sinh hoạt, mà cai nhân vừa vặn là ở đất khách mới có thể có quá phát triển. Suốt đời hội làm văn hóa phương diện sự nghiệp. Sống ở lớp giữa thiên vượng nhà, lợi văn đồ, có táo liệt của tính và thiện đạo của tính kiêm hữu tính chất đặc biệt, tâm tính thông minh, tài sáng tạo mẫn tiệp, kiến giải siêu quần, nhưng mình bảo hộ ý thức so sánh cường, xử thế có bo bo giữ mình khuynh hướng, sở dĩ dễ bỏ qua rất nhiều cơ hội tốt. Mong muốn cai nhân không nên bảo thủ, hẳn là lớn mật ta. Giải quyết nhức đầu biện pháp là xuân đông mặc ít hắc sắc và màu xanh nhạt y phục, đa mặc tiên diễm y phục. Giải quyết tính khí và phụ khoa bệnh phương pháp là ăn ít heo thịt dê, ít cân thuộc dương người của giao tiếp. Mũi viêm và hô hấp khí quản phương án trị liệu là nên cung phụng Quan Thế Âm đại sĩ, có lẽ đa khứ nghiên cứu phật giáo kinh điển, bớt nói, ít cùng nhân tranh cường, bởi vì trúng mục tiêu phúc báo nhiều hơn, không cần phải … Và nhân khứ tranh cái gì. Suốt đời không thiếu tiền, quý nhân trọng trọng. Bởi vậy hội mất đi phấn đấu chí khí, từng có phân ỷ lại khuynh hướng. Sở dĩ không nên tiêu tiền như nước, yếu cần kiệm làm gốc, quý trọng phúc báo. Bài vở và bài tập ở 2007, 2008 năm là thời cơ tốt nhất, hẳn là nắm kỳ ngộ, nỗ lực thi đậu các loại giấy chứng nhận, tham gia các loại cuộc thi, thiết mạc bỏ qua cơ hội tốt. Bảo thủ mà không liều lĩnh tính cách hẳn là nhiều hơn cải tiến, có thể đa kết giao ta hướng ngoại hình tính cách bằng hữu, giường ngủ vị trí tốt nhất lần lượt là: Đông, đông nam, tây bắc. Cái khác phương hướng sẽ ảnh hưởng vận khí mà lại giấc ngủ không tốt. 2006 năm vận khí giống nhau, tương đối luy, hội nhận thức một ít đối với mình có trợ giúp rất lớn người của. Tương đối thích hợp giao hữu. 2007, 2008 năm văn vận thật tốt, bản thân khỏe mạnh, vận khí không tệ, thế nhưng giao hữu hẳn là thận trọng. Học tập tương đối buông lỏng thành tích tốt. 2009 năm đầu nhập khá nhiều, tiền tương đối khẩn trương, phòng phiến 6 nguyệt vưu quá mức. 2010, 2011 năm đi vận vượng địa, đến đây hai năm sẽ có người truy cầu, có hồng loan niềm vui, theo đuổi nhân khá nhiều, ngắm thận trọng tuyển trạch, thiết mạc vội vội vàng vàng. Hẳn là mời cao nhân đại đức bày ra, bất khả tự chủ trương. Hẳn là đa nghe ý kiến của người khác. 2012 họp hằng năm kết hôn, công tác khởi sắc rất lớn, có vận làm quan và viễn phó tha hương đất khách của giống. 2013 năm công tác sinh hoạt mệt chết đi, là người sanh một cơn sóng nhỏ kỳ, muốn học hội điều tiết thân thể của chính mình. Đến đây họp hằng năm có phật giáo tín ngưỡng khuynh hướng, đi tìm cuộc sống chân lý. 2014 năm tiến nhập tài hương, thu nhập rất cao, pha phong. 2015 năm tình cảm xuất hiện nguy cơ, phải nhiều khứ quan tâm che chở vợ. Bằng không khó thoát đến đây ách. Phế, nhánh khí quản gặp phải tâm bệnh, đường tắt duy nhất hay nghiên cứu phật giáo kinh điển, không còn lương đồ. Kết luận tổng bí quyết: Suốt đời giàu có không thiếu tiền, văn xương vào đầu văn vận vượng. Thái độ làm người thông minh tính hồn nhiên, bản thân có bệnh nhẹ vô đại phương. Nơi ở rộng mở vừa sáng sủa, không vì nơi ở khứ hốt hoảng. Hôn nhân ngàn vạn lần phải thương lượng, bằng không nhất định có tai ương. Chỉ vì tham lang vào cung, thiết mạc đi một mình nổi cơn điên. Chớ nói nhân sinh tri kỷ ít, chỉ vì đề phòng vừa đề phòng. Đối với người một mảnh thẳng thắn thành khẩn tâm, thay đổi quay về nhất định chân thành ý. Phụ mẫu hài hòa như cá nước, che chở quan tâm cực kỳ gấp trăm lần. Độc lập ý thức tương đối mạnh, đi xa tha hương bả danh dương. Chú ý thân thể phế khí quản, đa diễn kinh Phật nhất định cường. Đoạn đến đây thì là thu tràng, tỉ mỉ xem khán đoan trang. Kết luận tống người ta tác tham khảo, chúc người ta tiền đồ vượng vừa vượng.

Cũ thiếp tân phát ( chuyển ) đấu sổ ứng với có thể ra ở phụ cận hoàn cảnh

Đấu sổ ở hoàn cảnh thảo luận

:==> ở ” khốn hoặc nhân ” văn chương trung nhắc tới:

: Các vị mọi người khỏe:

: Ta nghĩ thỉnh giáo các vị, đấu sổ ứng với có thể ra ở phụ cận hoàn cảnh

: Xác nhận tham khảo này cung vị ni ?

: Ví dụ như ở phụ cận có bót cảnh sát hoặc quân sự địa các loại

: Có thể sẽ có này tinh diệu tổ hợp xuất hiện ni?

: Có hay không là Tiên Thiên điền trạch có liêm trinh + tả phụ các loại ni ?

: Tay mới đặt câu hỏi xin nhiều chỉ giáo!

Đấu sổ bởi vì có 12 nhân sự cung vị, nếu dĩ đấu sổ đến xem ‘Ở phụ cận hoàn cảnh’, hẳn là dĩ cai năm thiên nhập tiểu hạn cung mệnh và cung điền trạch tương lai làm ‘Thái cực điểm’ .

Bởi vì thời không chuyển hoán, sở dĩ nhiều ít phải có một ít ‘Phương vị’ thân thể nhận thức. Tỷ như tiểu hạn đi tới tị cung, vừa vặn cai năm dọn nhà, lại dùng la bàn (có lẽ kim chỉ nam) định bước phát triển mới gia của tọa hướng. Nhìn nữa tiểu hạn của cung điền trạch là’ ở phụ cận hoàn cảnh’ của lập cực điểm, gia dĩ cẩn thận tỉ mỉ quan sát trái phải trước sau của kiến trúc phòng, giống nhau thượng có thể công tác thống kê, quy nạp mà loại hóa thành ‘Nguyên tắc’, là đó có thể thấy được một ít đại khái.

Tinh diệu của tổ hợp mà hóa thành cái gì kiến trúc phòng, còn muốn tham khảo địa phương khu vực quốc gia của bất đồng, tỷ như, tân mã một đời, tới gần xích đạo, thuộc về nhiệt đới địa phương, giống nhau liêm trinh gia con quay có lẽ Hỏa Tinh các loại đó có thể thấy được phụ cận có cây dừa cây, thế nhưng ở Đài Loan, có thể sẽ là cây cau các loại thực vật.

Thái dương gia cự môn, trong nhà có mua tủ lạnh có lẽ tuyết quỹ, thế nhưng ở Phi Châu hoặc thế giới thứ ba lạc hậu quốc gia, rất khả năng chỉ là một phóng thức ăn ngăn tủ mà thôi. .

Cái khác như giơ cao dương đại diện đường sắt, Thái Âm là y viện, thiên đồng là nhi đồng sân chơi, thiên diêu là gió nguyệt nơi chờ, đều là một ít quá trình cá nhân nghiên cứu đấu sổ chi tâm được, không nhất định 100% chuẩn xác, thế nhưng có thể tham khảo của.

Đấu sổ bởi vì có 12 nhân sự cung vị, nếu dĩ đấu sổ đến xem ‘Ở phụ cận hoàn cảnh’, hẳn là dĩ cai năm thiên nhập tiểu hạn cung mệnh và cung điền trạch tương lai làm ‘Thái cực điểm’ .

: Bởi vì thời không chuyển hoán, sở dĩ nhiều ít phải có một ít ‘Phương vị’ thân thể nhận thức. Tỷ như tiểu hạn đi tới tị cung, vừa vặn cai năm dọn nhà, lại dùng la bàn (có lẽ kim chỉ nam) định bước phát triển mới gia của tọa hướng. Nhìn nữa tiểu hạn của cung điền trạch là’ ở phụ cận hoàn cảnh’ của lập cực điểm, gia dĩ cẩn thận tỉ mỉ quan sát trái phải trước sau của kiến trúc phòng, giống nhau thượng có thể công tác thống kê, quy nạp mà loại hóa thành ‘Nguyên tắc’, là đó có thể thấy được một ít đại khái.

: Tinh diệu của tổ hợp mà hóa thành cái gì kiến trúc phòng, còn muốn tham khảo địa phương khu vực quốc gia của bất đồng, tỷ như, tân mã một đời, tới gần xích đạo, thuộc về nhiệt đới địa phương, giống nhau liêm trinh gia con quay có lẽ Hỏa Tinh các loại đó có thể thấy được phụ cận có cây dừa cây, thế nhưng ở Đài Loan, có thể sẽ là cây cau các loại thực vật.

: Thái dương gia cự môn, trong nhà có mua tủ lạnh có lẽ tuyết quỹ, thế nhưng ở Phi Châu hoặc thế giới thứ ba lạc hậu quốc gia, rất khả năng chỉ là một phóng thức ăn ngăn tủ mà thôi. .

: Cái khác như giơ cao dương đại diện đường sắt, Thái Âm là y viện, thiên đồng là nhi đồng sân chơi, thiên diêu là gió nguyệt nơi chờ, đều là một ít quá trình cá nhân nghiên cứu đấu sổ chi tâm được, không nhất định 100% chuẩn xác, thế nhưng có thể tham khảo của.

Thần sát tìm tòi nghiên cứu (tác giả trần kiếm)

Ở Trung Hoa Trung Quốc cổ đại, mọi người đang dùng Âm Dương Ngũ Hành học thuyết quản lý chung Vạn Tượng thể nghiệm trung, thần sát chiếm không nhỏ tỉ trọng. Thần sát cũng có Âm Dương Ngũ Hành của tính, nhưng nó không theo ngũ hành sinh khắc nên kỵ phân tích, cứng nhắc quy định ý tứ hàm xúc tương đối nồng hậu, phương pháp dễ hiểu, giản đơn, theo tử bình bát tự học thuật không ngừng truyền lưu, đại đa số mệnh lý học giả cũng không tán thành chỉ dụng thần sát lai kết luận người cát hung họa phúc, phú quý nghèo hèn, đời Thanh mệnh lý học giả trần làm am ở 《 mệnh lý lời hẹn 》 trung thuyết: “Con người mệnh cát hung, đều do cách cục vận khí, an có thể trùng hợp ngẫu nhiên thần sát mà tín của?” 《 tích thiên tủy 》 thuyết: “Tam kỳ nhị đức hư lời hữu ích, Hàm trì dịch mã bán thôi tường”, mà chú giải 《 tích thiên tủy 》 nhâm thiết tiều cho rằng thần rất là vô căn cứ nói đến, ở thầy tướng số thì một thần sát cũng không sử dụng. Lưu Bá Ôn 《 hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú 》 vân: “Là cố cát hung thần sát nhiều đoan, thế nào sinh khắc chế hóa một trong để ý.”

Thần sát mặc dù thuộc cứng nhắc quy định, nhưng giai không ra sông lạc ngũ hành can chi của để ý, ở đại lục nhâm dự đoán học trung, không có thần sát thiên tinh, quả thực thì không được kỳ vi đại lục nhâm. Đi qua thực tiễn, thần sát chinh nghiệm tính vẫn còn rất cao, cũng không phải là vô tri nói mò, không có thần sát, tử bình mệnh lý sẽ buồn bã thất sắc. 《 tứ nói độc bộ 》 vân: “Thần sát tương bán, nặng nhẹ đấu”, mặc dù bất năng chỉ bằng vào thần sát mà nói định một người vận mạng cát hung làm sao, nhưng thần sát nhưng cứu phải không có thể ít, vận dụng thì mấu chốt là phải “Nặng nhẹ đấu”, luận mệnh thì, lúc này lấy chính ngũ hành của sinh khắc chế hóa thành chủ, thần sát là phụ. Ở bát tự thầy tướng số trung, người phú quý nghèo hèn là do chính ngũ hành phối hợp mà quyết định, mà không phải do thần sát lai quyết định. Bất năng nhân mệnh có cát thần mà kết luận người này phú quý, cũng có năng lực nhân mệnh có hung thần mà kết luận người này nghèo hèn.

Bởi vì thần sát nhiều lắm, ở đây chích giới thiệu một ít tương đối trọng yếu thần sát.

Quý nhân (dĩ nhật can, năm làm lên, dĩ nhật can là việc chính)

Giáp mậu canh dê bò, ất kỷ thử hầu hương, bính đinh heo kê vị, nhâm quý thỏ xà giấu, lục tân phùng qua loa, đến đây là quý nhân phương.

1, quý nhân hay đối với mình có trợ giúp lớn người của, trúng mục tiêu phùng của còn có thể gặp dữ hóa lành. Quý nhân thuộc về cát thần, cát thì canh cát, hung có thể giảm hung, nếu quý nhân lâm vu bát tự thích dùng địa chi thượng, thì quý nhân tác dụng lớn hơn nữa, lâm vu bát tự đố kỵ chi thượng, quý nhân có thể giảm một điểm hung.

2, quý nhân có đôi khi là chỉ có quyền lực hoặc có tài lực bang trợ người, như xong làm quan, hoặc là kẻ có tiền bang trợ.

3, mệnh phùng quý nhân có thể “Xuất nhập cận đắt”, ý tứ là sẽ cùng làm quan hoặc kẻ có tiền giao tiếp thời gian đa.

4, bát tự có quý nhân hầu như tùy thời tùy chỗ đô hội xong người khác bang trợ, mà những người này cũng không nhất định mỗi người đều có quyền hoặc có tiền, có chút có thể là chính từ không nhận biết nhân.

5, thiên ất quý nhân có “Quang vinh”, “Hiển” ý tứ hàm xúc ở bên trong, nếu như bát tự ngũ hành phối hợp thuộc phú quý của mệnh, vừa đái quý nhân nói, như vậy loại này “Quang vinh lộ vẻ hảo”, tựu biểu hiện càng xông ra.

6, nếu như đại vận hoặc là lưu niên gặp phải quý nhân nói (như nhật can là giáp, đại vận ở xấu, vị hoặc lưu niên địa chi là xấu, vị), xưng trứ “Đi vận gặp phải quý nhân”, biểu thị giá bộ vận hoặc một năm này phải nhận được người bang trợ, làm việc tương đối thuận lợi, mặt ngoài thoạt nhìn rất khó làm sự có lúc cũng sẽ giải quyết dễ dàng, cho dù phát sinh có chuyện xảy ra cũng sẽ có nhân nhiệt tình tương trợ. Đương nhiên, nếu như bước này vận hoặc một năm này bản thân ngũ hành bất lợi cho bát tự, thuộc về kém vận nói, gặp quý nhân cũng chỉ là có người hỗ trợ mà thôi, cũng không thể căn bản cải biến kém vận.

7, nếu như một bát tự bản thân là thuộc về một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự nói, cho dù có quý nhân cát thần, cũng vẫn là một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự, tuy có quý nhân cũng không có thể khiến cho chính suốt đời trở nên phú quý đứng lên, thuận lợi đứng lên.

8, một nữ nhân bát tự trung, nếu như thiên ất quý nhân có hai hoặc hai đã ngoài, liền bất năng cho rằng là điềm lành, trái lại khả năng có dâm loạn của ngại, nhất định là thuộc về xã giao hình nữ nhân, xã giao nhiều lắm, vừa khuyết thiếu trinh tiết quan niệm, chu toàn vu đông đảo nam nhân trung gian, thậm chí tùy thời cùng giải quyết nam nhân trên giường. Thơ viết: Một tòa quý nhân cho thỏa đáng mệnh, hai tòa quý nhân tâm bất định, ba tòa quý nhân định làm xướng, lúc tuổi già hoặc tác hào gia chính.

9, nếu như người lớn tuổi đại vận và lưu niên đi quý nhân (hoặc đồng thời đi quý nhân), có thể sẽ là tử vong hiện ra, chủ mai táng của lễ.

10, nhật đắt cách: Đinh dậu, Đinh Hợi, quý tị, quý mão nhật sinh ra người, nhật trụ địa chi là quý nhân, nhật chi là cung phu thê, biểu phối ngẫu là của mình quý nhân. Nam tử khả năng xong mỹ thê, có thê trợ giúp, nữ tử có thể giá đắt phu, có phu trợ giúp. Nhật chi tự tọa quý nhân người, bề ngoài đầy mặt thanh tú anh tuấn, thông minh hơn nữa tương đối nhã nhặn, thái độ làm người thẳng thắn, trong bụng một nhiều như vậy cong cong quải quải, có nhân đức, thái độ làm người khiêm tốn. Đến đây cách đại phạ nhật chi tao hình phá tan hại, thì cát trung có hung, không vì toàn bộ mỹ. Vừa phân ban ngày đắt dạ đắt, Đinh Hợi, quý tị nhật hỉ ban ngày sinh ra, đinh dậu, quý mão nhật hỉ buổi tối sinh ra.

Như nào đó nữ mệnh, 1977 năm sinh:

Đinh tị Nhật can quý kiến mão tị là quý nhân, bát tự địa chi bốn người tất cả đều là quý nhân, nữ mệnh quý nhân quá nhiều, chủ dâm loạn, cố bản thân là xướng. Đây là một cái tam bồi tiểu thư bát tự.

Ất tị

Quý tị

Ất mão

Như nào đó nam mệnh, 1957 năm sinh:

Đinh dậu Tài đa thân yếu, đinh nhâm hợp mộc vu thu, suốt đời khoảng không mang. Nhật can đinh kiến dậu là quý nhân, bát tự địa chi tuy có ba quý nhân, cũng không có thể khiến cho người này phú quý đứng lên, chích áo cơm không thiếu mà thôi.

Kỷ dậu

Đinh dậu

Nhâm dần

Văn xương (dĩ nhật làm lên)

Giáp xà ất mã báo quân biết, bính mậu thân cung đinh kỷ kê, canh heo tân thử nhâm phùng hổ, quý nhân kiến thỏ bộ thang mây.

1, văn xương chủ nhân thông minh, hành văn hảo, trí nhớ hảo, học đông tây năng lực suy một ra ba, tịnh chủ thanh tú, bề ngoài nhã nhặn, làm cho một loại tao nhã mà khiêm tốn cảm giác.

2, đôi khi, văn xương có thể đưa đến gặp dữ hóa lành tác dụng.

3, bát tự đái văn xương, đa chủ một thân học giỏi, có linh tính, là đọc sách tài liệu.

4, có nhật tọa văn xương người, tức bính thân, mậu thân, đinh dậu, kỷ dậu, nhâm dần, quý mão mấy ngày nay sinh ra, tự tọa văn xương, từ nhỏ chính là thiên tài nhi đồng, lên đại học tỉ lệ cũng khá cao.

5, người bình thường cho rằng, văn xương chủ nhân trình độ văn hóa cao, năng lực thi lên đại học, kỳ thực cũng không nhất định như vậy, rất nhiều tiểu học văn hóa người của bát tự cũng có văn xương. Lại có nhân cho rằng, bát tự văn xương không cần nhiều, chỉ cần một mới tốt, sinh ra bất hảo, nhưng có vài người bát tự có hai người văn xương, cũng là sinh viên. Bởi vậy, văn xương cũng không phải phán đoán một người học lên hay không duy nhất tiêu chuẩn, có người bát tự cũng không văn xương, như nhau năng lực độc bác sĩ.

6, hữu dụng văn xương là: Văn xương sở tọa của chi là thích dùng thần, văn xương phát tài, văn xương bội chính ấn, văn xương phùng lục hợp, những … này và bằng cấp cập hành văn hữu quan.

7, văn xương quả thật thực thần của lộc địa (bính đinh nhật can ngoại trừ), như giáp dĩ bính là thực thần, bính lộc ở tị, cố dĩ tị là văn xương. Nữ mệnh bát tự văn xương không cần nhiều, văn xương sinh ra, tức thực thần sinh ra, trái lại không đẹp, nói không chừng yếu khắc phu.

8, nguyên mệnh bản cát, phùng văn xương có cát càng thêm cát tác dụng, nguyên mệnh bản hung, mặc dù phùng văn xương cũng vô dụng, hoặc tác dụng rất nhỏ.

Đỏ tươi (dĩ nhật làm lên)

Đa tình đa dục ít người biết, lục bính phùng dần tân kiến kê. Quý lâm thân thượng đinh kiến vị, mặt mày rạng rỡ nhạc đùa đùa.

Giáp ất ngọ thân canh kiến tuất, thế gian chỉ là mọi người thê. Mậu kỷ phạ thần nhâm phạ tử, lộc mã tương phùng tác lộ kỹ.

Nhâm là nhà giàu quan lại nữ, hoa tiền dưới ánh trăng cũng thâu kỳ.

1, đỏ tươi chủ nhân phong lưu đa tình, háo sắc, mạng người phạm của, đa số có gặp ở ngoài đào hoa. Nữ mệnh kiến của, khó tránh khỏi tư tình, trước khi cưới thất trinh, nói chuyện luyến ái chỉ sợ cũng yếu ở chung, nếu như địa chi có nhật làm lộc, vừa đái dịch mã, là phóng đãng người, hoặc là kỹ nữ.

2, có tự tọa đỏ tươi người, ngay hôm đó can chi là giáp ngọ, giáp thân, bính dần, Đinh Mùi, mậu thần, canh tuất, tân dậu, nhâm tử, sắc dục quá nặng.

Như nào đó nam mệnh, 1884 năm sinh:

Giáp thân Đây là tam bản năm mươi sáu bát tự, nhật can giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi sát, một thân tất nhiên phong lưu. Vị hôn tiền tựu bình thường ly khai quân doanh khứ phiêu nghệ kỹ, tầm vui mừng mua vui, hôn hậu lại có nhiều tình phụ. 1943 năm sơn bản bị nước Mỹ không quân đánh gục, để lại 16 một bọc giấy, là làm phân cho trong đó 16 một tình phụ vật kỷ niệm.

Đinh Mão

Giáp thân

Canh ngọ

Như nào đó nữ mệnh, 1976 năm sinh:

Bính thần Đây là nhất kỹ nữ bát tự, 16 tuổi đi ra Quảng Đông trên đường cái mại dâm. Giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi, nhật chi dần là lộc, vừa dịch mã, nguyệt chi thân cũng là dịch mã, cổ nhân vân: “Lộc mã tương phùng tác lộ kỹ”, thực sự là kỳ nghiệm như thần.

Bính thân

Giáp ngọ

Bính dần

Kim dư (dĩ nhật làm lên)

Thập can lộc tiền nhị vị, như giáp lộc ở dần, thần là kim dư, ất lộc ở mão, tị là kim dư.

1, kim dư dĩ nhật chi và thì chi đụng với là giai, chủ nhân tính cách ôn hòa, bề ngoài giản dị, có thể được thê tài, kết hôn thì lão bà của hồi môn đa, cũng có lên làm môn con rể khả năng. Mệnh cát, lại có kim dư, đa số có xa giai cấp.

Dịch mã (dĩ nhật chi, năm chi khởi)

Thân tử thần mã ở dần, dần ngọ tuất mã ở thân, tị dậu xấu mã ở hợi, hợi mão vị mã ở tị.

1, dịch mã chủ bôn ba, đi lại, ra ngoài, lữ hành, đi công tác, dọn nhà, chuyển chức chờ và di động có liên quan sự giống, mệnh có có dịch mã, suốt đời đa động.

2, bát tự trung có bao nhiêu một dịch mã, thì chủ tâm ý bất định, đứng núi này trông núi nọ, suốt đời bất an, hối hả ngược xuôi, phiêu bạt vô định, vạn phần vất vả cực nhọc. Thơ vân: Bát tự dịch mã phân cùng bôn ba, thân quang vinh lao lực ở đông tây, thảng có người lòng thanh thản bất định, động thì phong lưu tĩnh thì bi.

3, bát tự trung dịch mã thụ xung, tỷ như thân là dịch mã, lại có dần tự, dần thân tương trùng, suốt đời động được lợi hại nhất. Con cái bát tự có dịch mã phùng xung, khả năng có tiểu nhi đa động chứng. Trải qua vân: Mã hậu gia tiên, triêu hồ bắc mà mộ hồ nam.

4, đại vận hoặc lưu niên đụng phải dịch mã, là “Dịch mã vận”, chủ cai vận hoặc cai tuổi tác nghiệp, hoàn cảnh có điều biến động, hoặc ra ngoài thời gian khá lâu, tỷ như có đi công tác, lữ hành, điều chỉnh hoặc biến hóa công tác chờ sự.

5, nữ mệnh không thích bát tự có dịch mã, lại càng không hỉ dịch mã phùng xung, nếu như có hai hoặc hai trở lên dịch mã, có lẽ dịch mã phùng xung, là không cát hiện ra, suốt đời làm lụng vất vả, xã giao hoạt động đa, tại ngoại bôn ba đa, tâm ý bất định, tịnh mới có thể hồng hạnh ra tường. Nhân nữ nhân thiên chức là giúp chồng dạy con, suốt ngày tại ngoại chạy tới chạy lui, tổng làm cho lo lắng, nói không chừng sẽ tự động đầu đưa đến nhân gia ôm ấp. Thơ vân: Dịch mã đa phùng vô lễ hình, lâm quan đế vượng canh phiền lòng, trụ trung có nữa Hàm trì gặp, như thế giai nhân không nên tầm. Tức là thuyết nữ mệnh bát tự trung có dịch mã, có tử mão tương hình, lại có nhật làm lộc hoặc đế vượng, để ý hơn nữa bát tự đái Hàm trì, thì là dâm xướng của phụ, ngàn vạn lần sờ lấy vợ người tác lão bà, không phải, nón xanh không thể thiếu có một tá.

6, nên chú ý, dịch mã đang nhìn và “Di động” có liên quan sự giống, nhưng nếu chỉ bằng dịch lập tức tới nhìn, có rất nhiều biến động chuyện tình hội coi không ra, có người bát tự cũng không dịch mã, như nhau đa động, sở dĩ bất khả câu nệ vu dịch mã.

7, nam mệnh bát tự dịch mã ngồi ở chính tài lên, như kỷ xấu nhật sinh, bát tự có hợi là dịch mã, cho thấy lão bà chịu khó, tại gia chịu làm sự, lão công tan tầm Về đến nhà đương nhiên có thể khiêu khởi chân đùa giỡn. Đồng thời cũng biểu thị có thể sẽ lấy vợ viễn phương của thê, hoặc thê tử có bôn ba. Trải qua vân: Nếu là tài tinh tọa tứ mã, thê hiền không chỗ không lo lắng.

Nếu như nhật can vượng, bỉ cướp đa, bỉ cướp tọa dịch mã, và huynh đệ tỷ muội các ở nhất phương. Trải qua vân: Thân vượng sánh vai tọa dịch mã, huynh đệ phiêu oành hảo tiêu sái.

8, dịch mã sở lâm của chi là bát tự thích dùng thần, thì thiên động chủ cát, nếu vì bát tự kỵ thần, thì thiên động chủ hung, tuổi vận cùng.

9, khán dịch mã, còn muốn đem dịch mã sở lâm mười sao, nhất tịnh tham thảo, nếu như dịch mã lâm chính quan thất sát, dễ nhân công vụ lên chức việc mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính thiên tài, thì dễ nhân cầu tài mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính ấn, dễ nhân học ở trường việc, mà có thiên động, không phải dọn nhà quay về sổ đa. Còn lại dĩ loại này thôi.

10, cổ nhân vân: Quý nhân dịch mã đa thăng trạc, thường nhân dịch mã đa bôn ba. Ý tức làm quan nhân bát tự đái dịch mã, cho thấy bình thường lên chức, không có tiền không có thế dân chúng bát tự có dịch mã, chích biểu thị hối hả ngược xuôi mà thôi.

11, dịch mã phùng khoảng không vong không cát, như giáp tuất ban ngày thân là dịch mã, giáp tuất tuần trung thân dậu khoảng không, thân là khoảng không vong. Mã thất bại vong, chung thân bôn tẩu, lao mà ít thành. Trải qua vân: Mã thất bại vong, là quan tâm nghèo túng người.

12, dịch mã chỗ Thiên can là canh tân kim, hoặc dịch mã chỗ can chi nạp âm là kim, là đầu ngựa đái kiếm, chủ danh chấn biên cương. Đến đây cách phần nhiều là tham gia quân ngũ sinh ra, không phải cũng là xa xứ của mệnh.

Như nào đó nam mệnh, 1963 năm sinh:

Quý mão Thì thượng hợi là dịch mã, Thiên can là tân kim, là “Đầu ngựa đái kiếm”, tân hợi nạp âm vừa thuộc kim, năm thượng thất sát độc thấu, tất là quân nhân.

Người này sống ở đạt huyền nông thôn, ứng chinh nhập ngũ, ở Việt Hoa biên cảnh đánh giặc, thiếu chút nữa vị quốc vong thân,

Tằng là trú du nào đó tập đoàn quân doanh cấp quan quân, làm tài vụ công tác. Danh chấn biên cương vân vân, chỉ sợ vị tất.

Canh thân

Đinh dậu

Tân hợi

Thần sát tìm tòi nghiên cứu (tác giả trần kiếm)

Ở Trung Hoa Trung Quốc cổ đại, mọi người đang dùng Âm Dương Ngũ Hành học thuyết quản lý chung Vạn Tượng thể nghiệm trung, thần sát chiếm không nhỏ tỉ trọng. Thần sát cũng có Âm Dương Ngũ Hành của tính, nhưng nó không theo ngũ hành sinh khắc nên kỵ phân tích, cứng nhắc quy định ý tứ hàm xúc tương đối nồng hậu, phương pháp dễ hiểu, giản đơn, theo tử bình bát tự học thuật không ngừng truyền lưu, đại đa số mệnh lý học giả cũng không tán thành chỉ dụng thần sát lai kết luận người cát hung họa phúc, phú quý nghèo hèn, đời Thanh mệnh lý học giả trần làm am ở 《 mệnh lý lời hẹn 》 trung thuyết: “Con người mệnh cát hung, đều do cách cục vận khí, an có thể trùng hợp ngẫu nhiên thần sát mà tín của?” 《 tích thiên tủy 》 thuyết: “Tam kỳ nhị đức hư lời hữu ích, Hàm trì dịch mã bán thôi tường”, mà chú giải 《 tích thiên tủy 》 nhâm thiết tiều cho rằng thần rất là vô căn cứ nói đến, ở thầy tướng số thì một thần sát cũng không sử dụng. Lưu Bá Ôn 《 hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú 》 vân: “Là cố cát hung thần sát nhiều đoan, thế nào sinh khắc chế hóa một trong để ý.”

Thần sát mặc dù thuộc cứng nhắc quy định, nhưng giai không ra sông lạc ngũ hành can chi của để ý, ở đại lục nhâm dự đoán học trung, không có thần sát thiên tinh, quả thực thì không được kỳ vi đại lục nhâm. Đi qua thực tiễn, thần sát chinh nghiệm tính vẫn còn rất cao, cũng không phải là vô tri nói mò, không có thần sát, tử bình mệnh lý sẽ buồn bã thất sắc. 《 tứ nói độc bộ 》 vân: “Thần sát tương bán, nặng nhẹ đấu”, mặc dù bất năng chỉ bằng vào thần sát mà nói định một người vận mạng cát hung làm sao, nhưng thần sát nhưng cứu phải không có thể ít, vận dụng thì mấu chốt là phải “Nặng nhẹ đấu”, luận mệnh thì, lúc này lấy chính ngũ hành của sinh khắc chế hóa thành chủ, thần sát là phụ. Ở bát tự thầy tướng số trung, người phú quý nghèo hèn là do chính ngũ hành phối hợp mà quyết định, mà không phải do thần sát lai quyết định. Bất năng nhân mệnh có cát thần mà kết luận người này phú quý, cũng có năng lực nhân mệnh có hung thần mà kết luận người này nghèo hèn.

Bởi vì thần sát nhiều lắm, ở đây chích giới thiệu một ít tương đối trọng yếu thần sát.

Quý nhân (dĩ nhật can, năm làm lên, dĩ nhật can là việc chính)

Giáp mậu canh dê bò, ất kỷ thử hầu hương, bính đinh heo kê vị, nhâm quý thỏ xà giấu, lục tân phùng qua loa, đến đây là quý nhân phương.

1, quý nhân hay đối với mình có trợ giúp lớn người của, trúng mục tiêu phùng của còn có thể gặp dữ hóa lành. Quý nhân thuộc về cát thần, cát thì canh cát, hung có thể giảm hung, nếu quý nhân lâm vu bát tự thích dùng địa chi thượng, thì quý nhân tác dụng lớn hơn nữa, lâm vu bát tự đố kỵ chi thượng, quý nhân có thể giảm một điểm hung.

2, quý nhân có đôi khi là chỉ có quyền lực hoặc có tài lực bang trợ người, như xong làm quan, hoặc là kẻ có tiền bang trợ.

3, mệnh phùng quý nhân có thể “Xuất nhập cận đắt”, ý tứ là sẽ cùng làm quan hoặc kẻ có tiền giao tiếp thời gian đa.

4, bát tự có quý nhân hầu như tùy thời tùy chỗ đô hội xong người khác bang trợ, mà những người này cũng không nhất định mỗi người đều có quyền hoặc có tiền, có chút có thể là chính từ không nhận biết nhân.

5, thiên ất quý nhân có “Quang vinh”, “Hiển” ý tứ hàm xúc ở bên trong, nếu như bát tự ngũ hành phối hợp thuộc phú quý của mệnh, vừa đái quý nhân nói, như vậy loại này “Quang vinh lộ vẻ hảo”, tựu biểu hiện càng xông ra.

6, nếu như đại vận hoặc là lưu niên gặp phải quý nhân nói (như nhật can là giáp, đại vận ở xấu, vị hoặc lưu niên địa chi là xấu, vị), xưng trứ “Đi vận gặp phải quý nhân”, biểu thị giá bộ vận hoặc một năm này phải nhận được người bang trợ, làm việc tương đối thuận lợi, mặt ngoài thoạt nhìn rất khó làm sự có lúc cũng sẽ giải quyết dễ dàng, cho dù phát sinh có chuyện xảy ra cũng sẽ có nhân nhiệt tình tương trợ. Đương nhiên, nếu như bước này vận hoặc một năm này bản thân ngũ hành bất lợi cho bát tự, thuộc về kém vận nói, gặp quý nhân cũng chỉ là có người hỗ trợ mà thôi, cũng không thể căn bản cải biến kém vận.

7, nếu như một bát tự bản thân là thuộc về một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự nói, cho dù có quý nhân cát thần, cũng vẫn là một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự, tuy có quý nhân cũng không có thể khiến cho chính suốt đời trở nên phú quý đứng lên, thuận lợi đứng lên.

8, một nữ nhân bát tự trung, nếu như thiên ất quý nhân có hai hoặc hai đã ngoài, liền bất năng cho rằng là điềm lành, trái lại khả năng có dâm loạn của ngại, nhất định là thuộc về xã giao hình nữ nhân, xã giao nhiều lắm, vừa khuyết thiếu trinh tiết quan niệm, chu toàn vu đông đảo nam nhân trung gian, thậm chí tùy thời cùng giải quyết nam nhân trên giường. Thơ viết: Một tòa quý nhân cho thỏa đáng mệnh, hai tòa quý nhân tâm bất định, ba tòa quý nhân định làm xướng, lúc tuổi già hoặc tác hào gia chính.

9, nếu như người lớn tuổi đại vận và lưu niên đi quý nhân (hoặc đồng thời đi quý nhân), có thể sẽ là tử vong hiện ra, chủ mai táng của lễ.

10, nhật đắt cách: Đinh dậu, Đinh Hợi, quý tị, quý mão nhật sinh ra người, nhật trụ địa chi là quý nhân, nhật chi là cung phu thê, biểu phối ngẫu là của mình quý nhân. Nam tử khả năng xong mỹ thê, có thê trợ giúp, nữ tử có thể giá đắt phu, có phu trợ giúp. Nhật chi tự tọa quý nhân người, bề ngoài đầy mặt thanh tú anh tuấn, thông minh hơn nữa tương đối nhã nhặn, thái độ làm người thẳng thắn, trong bụng một nhiều như vậy cong cong quải quải, có nhân đức, thái độ làm người khiêm tốn. Đến đây cách đại phạ nhật chi tao hình phá tan hại, thì cát trung có hung, không vì toàn bộ mỹ. Vừa phân ban ngày đắt dạ đắt, Đinh Hợi, quý tị nhật hỉ ban ngày sinh ra, đinh dậu, quý mão nhật hỉ buổi tối sinh ra.

Như nào đó nữ mệnh, 1977 năm sinh:

Đinh tị Nhật can quý kiến mão tị là quý nhân, bát tự địa chi bốn người tất cả đều là quý nhân, nữ mệnh quý nhân quá nhiều, chủ dâm loạn, cố bản thân là xướng. Đây là một cái tam bồi tiểu thư bát tự.

Ất tị

Quý tị

Ất mão

Như nào đó nam mệnh, 1957 năm sinh:

Đinh dậu Tài đa thân yếu, đinh nhâm hợp mộc vu thu, suốt đời khoảng không mang. Nhật can đinh kiến dậu là quý nhân, bát tự địa chi tuy có ba quý nhân, cũng không có thể khiến cho người này phú quý đứng lên, chích áo cơm không thiếu mà thôi.

Kỷ dậu

Đinh dậu

Nhâm dần

Văn xương (dĩ nhật làm lên)

Giáp xà ất mã báo quân biết, bính mậu thân cung đinh kỷ kê, canh heo tân thử nhâm phùng hổ, quý nhân kiến thỏ bộ thang mây.

1, văn xương chủ nhân thông minh, hành văn hảo, trí nhớ hảo, học đông tây năng lực suy một ra ba, tịnh chủ thanh tú, bề ngoài nhã nhặn, làm cho một loại tao nhã mà khiêm tốn cảm giác.

2, đôi khi, văn xương có thể đưa đến gặp dữ hóa lành tác dụng.

3, bát tự đái văn xương, đa chủ một thân học giỏi, có linh tính, là đọc sách tài liệu.

4, có nhật tọa văn xương người, tức bính thân, mậu thân, đinh dậu, kỷ dậu, nhâm dần, quý mão mấy ngày nay sinh ra, tự tọa văn xương, từ nhỏ chính là thiên tài nhi đồng, lên đại học tỉ lệ cũng khá cao.

5, người bình thường cho rằng, văn xương chủ nhân trình độ văn hóa cao, năng lực thi lên đại học, kỳ thực cũng không nhất định như vậy, rất nhiều tiểu học văn hóa người của bát tự cũng có văn xương. Lại có nhân cho rằng, bát tự văn xương không cần nhiều, chỉ cần một mới tốt, sinh ra bất hảo, nhưng có vài người bát tự có hai người văn xương, cũng là sinh viên. Bởi vậy, văn xương cũng không phải phán đoán một người học lên hay không duy nhất tiêu chuẩn, có người bát tự cũng không văn xương, như nhau năng lực độc bác sĩ.

6, hữu dụng văn xương là: Văn xương sở tọa của chi là thích dùng thần, văn xương phát tài, văn xương bội chính ấn, văn xương phùng lục hợp, những … này và bằng cấp cập hành văn hữu quan.

7, văn xương quả thật thực thần của lộc địa (bính đinh nhật can ngoại trừ), như giáp dĩ bính là thực thần, bính lộc ở tị, cố dĩ tị là văn xương. Nữ mệnh bát tự văn xương không cần nhiều, văn xương sinh ra, tức thực thần sinh ra, trái lại không đẹp, nói không chừng yếu khắc phu.

8, nguyên mệnh bản cát, phùng văn xương có cát càng thêm cát tác dụng, nguyên mệnh bản hung, mặc dù phùng văn xương cũng vô dụng, hoặc tác dụng rất nhỏ.

Đỏ tươi (dĩ nhật làm lên)

Đa tình đa dục ít người biết, lục bính phùng dần tân kiến kê. Quý lâm thân thượng đinh kiến vị, mặt mày rạng rỡ nhạc đùa đùa.

Giáp ất ngọ thân canh kiến tuất, thế gian chỉ là mọi người thê. Mậu kỷ phạ thần nhâm phạ tử, lộc mã tương phùng tác lộ kỹ.

Nhâm là nhà giàu quan lại nữ, hoa tiền dưới ánh trăng cũng thâu kỳ.

1, đỏ tươi chủ nhân phong lưu đa tình, háo sắc, mạng người phạm của, đa số có gặp ở ngoài đào hoa. Nữ mệnh kiến của, khó tránh khỏi tư tình, trước khi cưới thất trinh, nói chuyện luyến ái chỉ sợ cũng yếu ở chung, nếu như địa chi có nhật làm lộc, vừa đái dịch mã, là phóng đãng người, hoặc là kỹ nữ.

2, có tự tọa đỏ tươi người, ngay hôm đó can chi là giáp ngọ, giáp thân, bính dần, Đinh Mùi, mậu thần, canh tuất, tân dậu, nhâm tử, sắc dục quá nặng.

Như nào đó nam mệnh, 1884 năm sinh:

Giáp thân Đây là tam bản năm mươi sáu bát tự, nhật can giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi sát, một thân tất nhiên phong lưu. Vị hôn tiền tựu bình thường ly khai quân doanh khứ phiêu nghệ kỹ, tầm vui mừng mua vui, hôn hậu lại có nhiều tình phụ. 1943 năm sơn bản bị nước Mỹ không quân đánh gục, để lại 16 một bọc giấy, là làm phân cho trong đó 16 một tình phụ vật kỷ niệm.

Đinh Mão

Giáp thân

Canh ngọ

Như nào đó nữ mệnh, 1976 năm sinh:

Bính thần Đây là nhất kỹ nữ bát tự, 16 tuổi đi ra Quảng Đông trên đường cái mại dâm. Giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi, nhật chi dần là lộc, vừa dịch mã, nguyệt chi thân cũng là dịch mã, cổ nhân vân: “Lộc mã tương phùng tác lộ kỹ”, thực sự là kỳ nghiệm như thần.

Bính thân

Giáp ngọ

Bính dần

Kim dư (dĩ nhật làm lên)

Thập can lộc tiền nhị vị, như giáp lộc ở dần, thần là kim dư, ất lộc ở mão, tị là kim dư.

1, kim dư dĩ nhật chi và thì chi đụng với là giai, chủ nhân tính cách ôn hòa, bề ngoài giản dị, có thể được thê tài, kết hôn thì lão bà của hồi môn đa, cũng có lên làm môn con rể khả năng. Mệnh cát, lại có kim dư, đa số có xa giai cấp.

Dịch mã (dĩ nhật chi, năm chi khởi)

Thân tử thần mã ở dần, dần ngọ tuất mã ở thân, tị dậu xấu mã ở hợi, hợi mão vị mã ở tị.

1, dịch mã chủ bôn ba, đi lại, ra ngoài, lữ hành, đi công tác, dọn nhà, chuyển chức chờ và di động có liên quan sự giống, mệnh có có dịch mã, suốt đời đa động.

2, bát tự trung có bao nhiêu một dịch mã, thì chủ tâm ý bất định, đứng núi này trông núi nọ, suốt đời bất an, hối hả ngược xuôi, phiêu bạt vô định, vạn phần vất vả cực nhọc. Thơ vân: Bát tự dịch mã phân cùng bôn ba, thân quang vinh lao lực ở đông tây, thảng có người lòng thanh thản bất định, động thì phong lưu tĩnh thì bi.

3, bát tự trung dịch mã thụ xung, tỷ như thân là dịch mã, lại có dần tự, dần thân tương trùng, suốt đời động được lợi hại nhất. Con cái bát tự có dịch mã phùng xung, khả năng có tiểu nhi đa động chứng. Trải qua vân: Mã hậu gia tiên, triêu hồ bắc mà mộ hồ nam.

4, đại vận hoặc lưu niên đụng phải dịch mã, là “Dịch mã vận”, chủ cai vận hoặc cai tuổi tác nghiệp, hoàn cảnh có điều biến động, hoặc ra ngoài thời gian khá lâu, tỷ như có đi công tác, lữ hành, điều chỉnh hoặc biến hóa công tác chờ sự.

5, nữ mệnh không thích bát tự có dịch mã, lại càng không hỉ dịch mã phùng xung, nếu như có hai hoặc hai trở lên dịch mã, có lẽ dịch mã phùng xung, là không cát hiện ra, suốt đời làm lụng vất vả, xã giao hoạt động đa, tại ngoại bôn ba đa, tâm ý bất định, tịnh mới có thể hồng hạnh ra tường. Nhân nữ nhân thiên chức là giúp chồng dạy con, suốt ngày tại ngoại chạy tới chạy lui, tổng làm cho lo lắng, nói không chừng sẽ tự động đầu đưa đến nhân gia ôm ấp. Thơ vân: Dịch mã đa phùng vô lễ hình, lâm quan đế vượng canh phiền lòng, trụ trung có nữa Hàm trì gặp, như thế giai nhân không nên tầm. Tức là thuyết nữ mệnh bát tự trung có dịch mã, có tử mão tương hình, lại có nhật làm lộc hoặc đế vượng, để ý hơn nữa bát tự đái Hàm trì, thì là dâm xướng của phụ, ngàn vạn lần sờ lấy vợ người tác lão bà, không phải, nón xanh không thể thiếu có một tá.

6, nên chú ý, dịch mã đang nhìn và “Di động” có liên quan sự giống, nhưng nếu chỉ bằng dịch lập tức tới nhìn, có rất nhiều biến động chuyện tình hội coi không ra, có người bát tự cũng không dịch mã, như nhau đa động, sở dĩ bất khả câu nệ vu dịch mã.

7, nam mệnh bát tự dịch mã ngồi ở chính tài lên, như kỷ xấu nhật sinh, bát tự có hợi là dịch mã, cho thấy lão bà chịu khó, tại gia chịu làm sự, lão công tan tầm Về đến nhà đương nhiên có thể khiêu khởi chân đùa giỡn. Đồng thời cũng biểu thị có thể sẽ lấy vợ viễn phương của thê, hoặc thê tử có bôn ba. Trải qua vân: Nếu là tài tinh tọa tứ mã, thê hiền không chỗ không lo lắng.

Nếu như nhật can vượng, bỉ cướp đa, bỉ cướp tọa dịch mã, và huynh đệ tỷ muội các ở nhất phương. Trải qua vân: Thân vượng sánh vai tọa dịch mã, huynh đệ phiêu oành hảo tiêu sái.

8, dịch mã sở lâm của chi là bát tự thích dùng thần, thì thiên động chủ cát, nếu vì bát tự kỵ thần, thì thiên động chủ hung, tuổi vận cùng.

9, khán dịch mã, còn muốn đem dịch mã sở lâm mười sao, nhất tịnh tham thảo, nếu như dịch mã lâm chính quan thất sát, dễ nhân công vụ lên chức việc mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính thiên tài, thì dễ nhân cầu tài mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính ấn, dễ nhân học ở trường việc, mà có thiên động, không phải dọn nhà quay về sổ đa. Còn lại dĩ loại này thôi.

10, cổ nhân vân: Quý nhân dịch mã đa thăng trạc, thường nhân dịch mã đa bôn ba. Ý tức làm quan nhân bát tự đái dịch mã, cho thấy bình thường lên chức, không có tiền không có thế dân chúng bát tự có dịch mã, chích biểu thị hối hả ngược xuôi mà thôi.

11, dịch mã phùng khoảng không vong không cát, như giáp tuất ban ngày thân là dịch mã, giáp tuất tuần trung thân dậu khoảng không, thân là khoảng không vong. Mã thất bại vong, chung thân bôn tẩu, lao mà ít thành. Trải qua vân: Mã thất bại vong, là quan tâm nghèo túng người.

12, dịch mã chỗ Thiên can là canh tân kim, hoặc dịch mã chỗ can chi nạp âm là kim, là đầu ngựa đái kiếm, chủ danh chấn biên cương. Đến đây cách phần nhiều là tham gia quân ngũ sinh ra, không phải cũng là xa xứ của mệnh.

Như nào đó nam mệnh, 1963 năm sinh:

Quý mão Thì thượng hợi là dịch mã, Thiên can là tân kim, là “Đầu ngựa đái kiếm”, tân hợi nạp âm vừa thuộc kim, năm thượng thất sát độc thấu, tất là quân nhân. Người này sống ở đạt huyền nông thôn, ứng chinh nhập ngũ, ở Việt Hoa biên cảnh đánh giặc, thiếu chút nữa vị quốc vong thân, tằng là trú du nào đó tập đoàn quân doanh cấp quan quân, làm tài vụ công tác. Danh chấn biên cương vân vân, chỉ sợ vị tất.

Canh thân

Đinh dậu

Tân hợi

UID 393

Bài post 364

Tinh hoa 0

Vi tích phân 4645

Xem quyền hạn 40

Tính nữ

Đến từ nghê thường của phủ

Ở tuyến thời gian 31 tiếng đồng hồ

Đăng kí thời gian 2005-10-3

Tối hậu đăng ký 2008-9-18

Kiểm tra tài liệu cặn kẽ

Trích dẫn báo cáo hồi phục TOP

Trung Hoa Trung Quốc cổ đại tinh quan và hiện đại chòm sao

Trung Hoa Trung Quốc cổ đại tinh quan và hiện đại chòm sao

Trích từ Trung Hoa thời không võng

Cổ nhân môn để nhận thức sao, nghiên cứu thiên thể, rất sớm tiện nhân là mà đem tinh không chia làm chắc chắn khu vực, Trung Hoa Trung Quốc xưng là tinh quan, phương tây hoán của là chòm sao. Trung Hoa Trung Quốc cổ đại bả bầu trời chia làm tam viên nhị thập bát tú, sớm nhất hoàn chỉnh văn tự ghi lại kiến chư vu 《 sử ký • thiên quan thư 》 trung.

Tam viên người, bắc cực phụ cận ba khu vực: Tử vi viên, quá nhỏ viên, thiên thị viên. Viên phân định cũng không thái nghiêm ngặt minh xác, tử vi viên đại thể bao quát chòm tiểu hùng, thiên long tọa, lộc báo tọa, tiên vương tọa, tiên ngồi phía sau, đại hùng tinh, mục phu tọa, chó săn tọa, ngự phu tọa chờ. Quá nhỏ viên thì tương đương với dưới mấy người chòm sao khu vực: Chòm sư tử, đi sau tọa, gái chưa chồng tọa, chó săn tọa, đại hùng tinh, tiểu sư tọa chờ. Thiên thị viên thì tương đối gần hơn hạ thu ngân hà khu vực, tức bao gồm xà phu tọa, cự xà tọa, tấm chắn tọa, chòm sao Thiên ưng, vũ tiên tọa, bắc miện tọa chờ một chút.

Nhị thập bát tú chia làm tứ đại tinh khu, gọi tứ tượng, dĩ động vật mệnh danh của: Họ Đông Phương chòm sao Thương Long: Sừng, kháng, để, phòng, tâm, đuôi, ki chờ thất túc. Phương bắc huyền vũ: Đấu, bò, nữ, hư, nguy, thất, bích chờ thất túc. Phương tây bạch hổ: Khuê, lâu, dạ dày, mão, tất, tuy, tố chờ thất túc. Phía nam chu tước: Tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, cánh, chẩn chờ thất túc.

Nhị thập bát tú ở quốc gia của ta dân gian truyền lưu rất rộng, hán đại nhà thiên văn học tằng hình dung là: “Chòm sao Thương Long liên quyền vu tả, bạch hổ mãnh cứ vu bên phải, chu tước xoè cánh bay vu tiền, linh quy quyển thủ ở phía sau” . Trên thực tế giá miêu tả quốc gia của ta vùng Trung Nguyên khu đầu mùa xuân mùa hoàng hôn sau đó không lâu hiện tượng thiên văn.

Nhị thập bát tú trung lớn nhất là tỉnh túc, xích trải qua chiều ngang ước chừng 33 độ tả hữu, mà ít nhất tuy túc và quỷ túc, vẻn vẹn 2—4 độ.

Nước ta hằng tinh mệnh danh hệ thống khoảng chừng hình thành về công nguyên 270 năm, thời Tam quốc nước Ngô thái sử lệnh trần trác trở thành liễu một quyển bao hàm 283 một tinh quan, cộng 1464 khỏa hằng tinh tinh biểu. Trong đó rất nhiều đều là dĩ phong kiến hoàng triều đế vương tương tương tên chính thức lai mệnh danh.

Phương tây chòm sao khởi nguyên có thể truy tố đến công nguyên trước đây khoảng chừng ba ngàn năm tả hữu Babylon nhân. Đáo công nguyên nhị thế kỷ thì, cổ Hy Lạp nhà thiên văn học thân thể to lớn thượng đã bả bắc thiên khu vực chòm sao xác định xuống tới, mà nam thiên khu vực chòm sao đích xác luật là ở vòng quanh trái đất đi sau khi thành công, thế kỷ mười bảy chuyện liễu.

1603 năm, căn cứ Đức thiên văn học ba cũng (J•Bayer) kiến nghị, hằng tinh mệnh danh án chòm sao phân khu, tức ở từng chòm sao nội căn cứ độ sáng trình tự, dĩ chữ cái Hy Lạp biểu thị của. Thế nhưng chữ cái Hy Lạp vẻn vẹn 24 một, chòm sao trung hằng tinh giống nhau xa không ngừng 24 khỏa, như đại hùng chòm sao nội mắt thường có thể thấy được hằng tinh có 125 khỏa nhiều. Để giải quyết cái này mâu thuẫn, Anh quốc phất Lan Tư nói đức (J•Flamsceed) vu 1712 năm phát biểu một tinh biểu, trong đó hằng tinh đều án chòm sao trung xích trải qua thứ tự đánh số, bởi vậy, hiện nay trừ chòm sao trung 24 khỏa lượng tinh đã có chữ cái Hy Lạp biểu thị ở ngoài, đều dĩ tinh biểu trung số thứ tự hơn nữa chòm sao danh mệnh danh, như thiên nga tọa 61 tinh, đại hùng tinh 81 độ sáng tinh thể chờ. Hiển nhiên, loại con số này và độ sáng trình tự là không quan hệ.

Để thống nhất chòm sao phân chia, 1928 năm quốc tế thiên văn học liên hợp hội quá trình nghiên cứu thảo luận, công bố toàn bộ thiên 88 một chòm sao tên gọi cập phạm vi, đồng thời quy định chòm sao giới hạn giống nhau dĩ xích kinh tuyến và xích vĩ tuyến lai phân chia, chòm sao khổ kém thập phần cách xa, như lớn nhất trường xà tọa chiếm cứ thiên khu diện tích đạt 1300 bình phương độ, mà ít nhất nam thập tự tọa cũng chỉ có 68 bình phương độ (toàn bộ thiên diện tích là 41253 bình phương độ). Các chòm sao nội bao hàm mắt thường có thể thấy được tinh sổ cũng là có có nhiều ít, các bất tương chờ.

Nhị thập bát tú và phương tây chòm sao đối ứng quan hệ

Họ Đông Phương chòm sao Thương Long Phương bắc huyền vũ Phương tây bạch hổ Phía nam chu tước

Sừng ——— gái chưa chồng Đấu ——— nhân mã Khuê ——— tiên nữ, song cá Tỉnh ——— song tử

Kháng ——— gái chưa chồng Bò ——— Ma Yết Lâu ——— bạch dương Quỷ ——— cự giải

Để ——— thiên xứng Nữ ——— bảo bình Dạ dày ——— bạch dương Liễu ——— trường xà

Phòng ——— thiên hạt Hư ——— bảo bình, Tiểu Mã Mão ——— Kim Ngưu Tinh ——— trường xà

Tâm ——— thiên hạt Nguy ——— phi ngựa, bảo bình Tất ——— Kim Ngưu Trương ——— trường xà

Đuôi ——— thiên hạt Thất ——— phi ngựa Tuy ——— hộ săn bắn Cánh ——— cự tước

Ki ——— nhân mã Bích ——— tiên nữ, phi ngựa Tố ——— hộ săn bắn Chẩn ——— quạ đen

Đánh vỡ cách cục

Mã ngọc khanh

Xã hội thượng lưu hành kỳ môn học lý giảng đến rồi cách cục, có cát cách, hung cách chờ mười mấy cách cục. Nhiều như vậy cách cục tiên bất luận ở nhớ lại là cỡ nào phiền phức, chỉ tựu dự đoán độ lớn của góc mà nói cách cục bả trong kỳ môn ký hiệu giống ý nội hàm khuông ở, xơ cứng liễu, khuyết thiếu sự linh hoạt, dùng tương đối khô khan. Trong kỳ môn ký hiệu vốn chính là một loại phổ thích tính số hiệu, nó bao quát Vạn Tượng, có thể hàm đắp trong vũ trụ vạn sự vạn vật, tại sao có thể sử dụng một ít cứng nhắc cách cục cấp khái quát ni, huống chi nhiều ký hiệu tổ hợp đại biểu nội dung càng muôn màu muôn vẻ, sở dĩ linh hoạt vận dụng, cụ thể vấn đề cụ thể phân tích mới là phán đoán phiên dịch kỳ môn ký hiệu tổ hợp phương pháp chính xác. Tỷ như như vậy một ví dụ thực tế:

Giáp ngọ tân, thiên nhâm tinh là giá trị phù.

Phù nhâm tân mậu đinh cảnh

Đến đây lệ là vì một vị nữ hài luận đoán sự nghiệp, nhật can là tân rơi khôn cung. Nếu bàn về cách cục, tân gia đinh là ngục thần được kỳ, công phế tư tựu, nhốt được xá, nữ tính phạm tội khuynh hướng. Kinh thương cầu tài thu lợi nhân. Nhưng trên thực tế cô bé này này đây là diễn viên, là đạn đàn tranh. Bên ngoài ẩn can quý đại diện khốn cảnh, mã tinh biểu thị bào động khá nhiều, thượng thừa giá trị phù là một người có danh vọng, tân là tuần thủ là giáp, nó hàm chữ bát phân giáp tính, nhị phân kim tính, đàn tranh là một khối trên gỗ an rất nhiều kim chúc dây đàn, nhưng đầu gỗ đa dây đàn ít, chính phù hợp chữ bát phân giáp mộc, nhị phân tân kim, mậu là đất, kỳ hình phương, hình chữ nhật, đàn tranh tấm ván gỗ là hình chữ nhật, đinh là cái đinh đàn tranh dây đàn chỉ dùng để cái đinh cố định ở tấm ván gỗ thượng, đinh cũng là pháp là âm luật, thiên nhâm tinh là gập cong động tác, đạn đàn tranh phải gập cong lai đạn, cảnh môn là biểu một cách cục làm sao có thể bao hàm nhiều như vậy tin tức ni? Nhìn nữa một ví dụ thực tế:

Âm nhuế canh quý bính nghỉ

Đến đây lệ là vì một vị khách nhân luận đoán tật bệnh, luận cách cục là canh gia bính, thái bạch nhập huỳnh. Kẻ trộm lai rủi ro, khách lợi chủ phá. Như vậy vài có thể nào bả tật bệnh đích tình huống phân tích thấu triệt ni.

Trên thực tế vị tiên sinh này là mùa đông trượt tuyết lúc nhiễm bệnh. Phía ngoài ẩn can ất là phản ánh chính là trượt tuyết tràng khe trượt hình dạng, Thái Âm là đại diện âm lãnh, canh là đại diện tuyết, phản ánh chính là tuyết nhan sắc, cũng đại diện cứng rắn, khe trượt thượng tuyết quá trình người nhiều lần thải đạp đã phi thường cứng rắn, quý cũng là đại diện tuyết, phản ánh chính là tuyết thực chất là thủy, bính là nhiễu loạn là náo nhiệt, trượt tuyết tràng người trên rất nhiều, náo nhiệt phi thường, thiên nhuế là vấn đề là truyền thụ, trượt tuyết người của có rất nhiều trượt tuyết kỹ thuật bất hảo, bình thường ngã sấp xuống, có giáo luyện và đồng bạn theo đạo bọn họ trượt tuyết kỹ thuật, nghỉ môn là hưu nhàn chỗ ăn chơi.

Buổi tối trượt tuyết lúc ăn là cái lẩu, đến đây cung vừa phản ánh ra ăn lẩu tin tức, ở đổi cung chủ bệnh tùng miệng nhập, là và ăn hữu quan, canh là đồng cái lẩu, quý là cái lẩu dặm thang, bính là cái lẩu phía dưới hỏa, nghỉ môn là đồ gia vị, Thái Âm là lạnh thực phẩm vừa tinh tế thực phẩm, là cái lẩu các loại thái, phía ngoài ẩn can là hoá lỏng tức giận cái ống, buổi tối lại ăn mấy người lê, ất mộc hay hoa quả lê, thiên nhuế là vấn đề, đại diện ăn thực phẩm có chuyện, ẩn can là sự vật lời dẫn là huyền ngoại âm, cũng cũng là bởi vì ăn mấy người lê tài dẫn bệnh lai.

Bệnh gì ni? Canh là đại tràng phía dưới bính hỏa là chứng viêm, nói rõ là viêm ruột, quý thủy là tiêu chảy, Thái Âm là bệnh thời gian khá lâu bệnh không thương hảo. Như vậy một tổ hợp phản ánh tin tức phi thường phong phú, căn bản không phải kỳ môn cát hung cách vậy đơn giản nói mấy câu có khả năng khái quát. Nhìn nữa một ví dụ thực tế:

Xà trụ canh bính tử

Luận đoán một người rơi chấn cung, đổi cung là phía trên tổ hợp, luận cách cục là thái bạch nhập huỳnh, canh gia bính, kẻ trộm lai rủi ro, khách lợi chủ phá. Trên thực tế cái này tổ hợp phản ánh chính là hoả táng hán giống, tử môn thị xử để ý người chết địa phương, canh là lò sắt, bính là hỏa, phía ngoài ẩn can đinh là điện, trụ trời là ống khói, đằng xà là mạo yên, đổi cung khắc chấn cung chủ nhân bị hoả táng, luận đoán người này đã tử vong.

Do đã ngoài mấy người ví dụ đầy đủ nói rõ cát hung cách xơ cứng giáo điều, là cỡ nào không thể làm, ở dự đoán thì là trở ngại người linh cảm và phát huy chướng ngại vật, tử ôm cát hung cách không tha đối đề cao dự đoán xoay ngang cực kỳ bất lợi, sở dĩ hẳn là đánh vỡ cách cục, triển khai tư duy và liên tưởng cánh, ở kỳ môn ký hiệu giống ý trung tự do bay lượn.

(Dịch tự động bằng Quick Translator)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Tử vi đẩu số phi tinh khái luận

Phi tinh khái luận và ứng dụng

Tử vi bày ra:

Nhất, dành cho yêu cầu luận đoán người cụ thể sinh ra năm, nguyệt, nhật, thì (ghi chú rõ công lịch hoặc nông lịch, cập tính), hoặc nắm quyền thời gian.

Nhị, dành cho yêu cầu luận đoán nội dung cụ thể, như luận đoán hôn nhân, tử nữ, công tác, tài vận. . . .

Tử vi bày ra thưởng tích:

Phân tích: Bản mệnh cung tọa cơ âm, cung tài bạch khiến cho thái dương hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, bản thân công tác ứng với là cơ âm, thái dương tinh các loại. Cơ âm ở dần nên làm đẹp, hộ lý, du lãm xa tiểu thư, lưu động ngôi sao ca nhạc, ngoại vụ, đẩy mạnh tiêu thụ, thực tế cô gái này tằng trải qua hướng dẫn du lịch tiểu thư, hiện vừa làm đẹp nghiệp. Kỳ nguyên mệnh bàn trung tâm điền tuyến phát động, vừa mệnh tọa cơ âm rung chuyển ngôi sao, người trong cuộc đời tất nhiên có rung chuyển lớn, thực tế người quanh năm ở nước ngoài bào động.

Phân tích: Cung mệnh tọa Tử Phủ là lớn cách cục, chủ kế này đoán cơ vì danh bài (thực tế là nước Mỹ khang bách máy tính). Phụ tật tuyến là thiên đồng, Thái Âm sao đào hoa mấy viên chủ đến đây cơ vẻ ngoài khéo léo lả lướt, vẻ ngoài mỹ. Cung Quan lộc cũng là lớn cách cục, vừa tam kỳ giáp hội chủ kế này đoán cơ công năng hảo. Dĩ cung tật ách là lập cực điểm, thì kỳ cung Quan lộc không cát, chủ kế này đoán cơ nội bộ khả năng có tâm bệnh. Thực tế kế này đoán cơ nội bộ A bàn đã phôi tổn hại, hiện thay đổi là ngoại đưa bàn.

Tử vi kỹ xảo:

Cung phu thê cái nhìn:

Nhất, cung phu thê tứ hóa:

1, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, phối ngẫu có nhân duyên, phối ngẫu rất tốt với ta.

2, cung phu thê hóa khoa nhập cung mệnh, phu thê có thể bạch đầu giai lão; phu thê đều có tình duyên.

3, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phu thê dễ cãi nhau.

4, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh (gặp Hóa lộc năm sinh), phối ngẫu ăn chắc ta, phối ngẫu năng lực quản ở ta.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tài bạch, hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phu thê cãi nhau.

6, cung phu thê hóa khoa kỵ cùng nhập cung mệnh, phu thê khóe miệng không khỏi.

7, nữ mệnh: Cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, mặc dù giá ra, nếu đã giá thì chủ phu thê lắm lời sừng.

Cung phu thê hóa quyền nhập cung mệnh, kỳ phu sợ vợ.

Cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc (năm sinh hóa quyền), thê hội chiếu cố sự nghiệp của ta.

Cung phu thê tự hóa lộc hoặc hóa khoa, có nam nhân thầm mến ta.

8, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, phối ngẫu là việc chính động đào hoa, phối ngẫu không muốn sinh nữ hài.

9, cung phu thê hóa lộc (quyền, khoa) nhập cung tử nữ, thê sinh cậu bé đa, hai vợ chồng đái đào hoa.

10, cung phu thê (tự hóa lộc) hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, đã có phối ngẫu, nhưng tưởng tái đào hoa.

Nhị, phối ngẫu xuất xử:

1, cung phu thê hóa khoa nhập cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch, trải qua tự do luyến ái thành hôn. Cung phu thê hóa khoa nhập còn lại tám cung vị, trải qua giới thiệu mà kết hôn.

2, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, phối ngẫu là thân thích hoặc thân thích giới thiệu (cung tử nữ là lục thân cung vị).

3, lưu niên hóa khoa nhập cung mệnh tam hợp phương, trải qua nhân giới thiệu. Lưu niên hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh chính biết.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung tái chuyển hóa kỵ xung lưu niên cung phu thê, thực chất là tùy tiện tìm, đến đây năm kết hôn bất hảo.

Tam, kết hôn đại hạn:

1, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập A cung, A cung là đại hạn tứ chính vị, đến đây đại hạn kết hôn.

2, nam mệnh: Cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn; đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập đại giao hữu, đến đây hạn kết hôn.

Nữ mệnh: Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn.

3, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, đến đây hạn kết hôn.

4, cung phu thê hóa khoa nhập đại hạn, đến đây hạn kết hôn.

5, đại hạn nhập bản mệnh cung phu thê, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, thì đến đây hạn kết hôn.

Tứ, kết hôn năm:

1, nam mệnh: Cung Nô bộc hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung mệnh, cung tài bạch, cung phúc đức kết hôn.

Nữ mệnh: Cung tật ách hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung mệnh, cung tài bạch, cung phúc đức kết hôn.

Chú: Bản pháp tu tiên dĩ kết hôn đại hạn trung thứ 7 làm đầu quyết điều kiện.

2, đại hạn phối ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn A cung, sẽ tìm phối ngẫu A cung hóa phi hóa kỵ nhập năm nào cha tật tuyến, thì cai năm kết hôn. Nếu đại ngẫu tự hóa kỵ, thì tìm hóa lộc, kỳ suy tính bước(đi) giống như trên mặt.

3, lưu niên hồng loan hoặc thiên hỉ nhập cung mệnh, thân cung, cung phu thê, cung phúc đức, đại hạn mà lại lưu niên đi vào bản mệnh hồng loan, thiên hỉ, lưu niên cung phu thê vô phá, đến đây năm kết hôn.

4, lưu niên hồng loan, thiên hỉ nhập tiểu hạn cung mệnh hoặc cung phu thê, lưu niên hóa lộc, quyền, khoa nhập tiểu hạn cung phu thê, đến đây năm kết hôn.

5, nữ mạng lớn hạn nhập thái dương cung vị, lưu niên phùng thiên đồng, lộc tồn, tử vi, phá quân, thái dương (lạc hãm), Thái Âm (lạc hãm) mà lại lưu niên hồng loan, thiên hỉ nhập cung mệnh, thân cung, cung phu thê, cung phúc đức, đại hạn, đến đây năm kết hôn.

6, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập A cung xung B cung, ở kết hôn đại hạn nội, lưu niên yếu quá A cung hoặc B cung mới có thể kết hôn.

Kết hôn đại hạn cung phu thê hóa khoa nhập lưu mệnh, lưu phu thê hoặc chiếu lưu mệnh lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

Kết hôn đại hạn hóa khoa nhập lưu mệnh, lưu phu thê hoặc chiếu lưu mệnh, lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

7, đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, đến đây năm kết hôn (và kết hôn đại hạn trung thứ 2 điều phối hợp sử dụng).

Đại Cung Nô bộc tự hóa kỵ thì, tìm hóa lộc, nhập lưu phu thê, đến đây năm kết hôn (và kết hôn đại hạn trung thứ 6 điều hậu luận phối hợp sử dụng).

8, đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, đến đây năm kết hôn (phối hợp kết hôn đại hạn trung thứ 3 điều sử dụng).

9, đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập lưu phu thê, đến đây năm kết hôn.

Đại giao hữu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, lưu phu thê hóa phi hóa kỵ nhập lưu tật, đến đây năm kết hôn.

10, lưu niên tứ hóa tam cát nhập cung mệnh tam hợp phương, đến đây năm kết hôn.

Ngũ, đào hoa:

1, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập huynh đệ cung, huynh đệ cung hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, có đào hoa.

2, cung Nô bộc hóa lộc, quyền nhập cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch có đào hoa.

Cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch có đào hoa.

Cung Nô bộc hóa lộc, quyền nhập cung mệnh, cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch hoặc cung tật ách, dính tính đào hoa.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có đào hoa.

4, hóa khoa nhập cung mệnh, có đào hoa.

5, cung điền trạch luận đào hoa:

Cung điền trạch hóa lộc chiếu cung mệnh, có đào hoa. Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có đào hoa.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung mệnh, một đào hoa. Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, một đào hoa.

Cung điền trạch tự hóa kỵ, có đào hoa, nhưng lưu không được.

6, cung điền trạch luận đào hoa chủng loại:

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, thực chất đã có gặp gỡ khác giới kinh nghiệm hoặc đã có tử nữ? br> cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đối tượng không có tử nữ hoặc đối tượng đã đã ly dị.

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, thực chất đã kết hôn. Điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung thiên di, thực chất là đàn bà có chồng hoặc đã ly dị.

Cung điền trạch tự hóa lộc hoặc tự hóa kỵ, thực chất chưa kết hôn. Điền trạch tự hóa lộc thực chất vị hôn, đã có gặp gỡ khác giới kinh nghiệm.

Cung điền trạch tự hóa kỵ, thực chất vị hôn, là thứ nhất thứ và khác giới gặp gỡ.

Cung điền trạch hóa lộc hoặc quyền chiếu cung mệnh, thực chất so với ta lớn tuổi mà lại đã kết hôn.

7, lưu điền hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, năm nay có tình duyên, mà lại chơi được vãng cửu mà thôi.

Lưu điền hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh, năm nay có tình duyên, mà lại chơi được vãng cửu mà thôi.

8, thiên tướng, đà la nhập cung tử nữ hoặc cung phúc đức, có đào hoa.

9, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, đào hoa đa, dễ lấy vợ đã sinh dục tử nữ phối ngẫu; hội dùng tiền.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, đào hoa ít, có cũng không giữ được, nhi tử ít, tử duyên ít.

10, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, chủ thấy nữ nhân, chỉ cần yêu thích, liền muốn lấy vợ quay về đương thê tử.

Lục, ở chung:

1, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, nạp thiếp.

2, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ (tự hóa kỵ), trước khi cưới ở chung, kết hôn biệt ly.

3, đại ngẫu hóa phi hóa lộc nhập bản ngẫu, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, phối ngẫu tại ngoại cùng người ở chung.

4, phi hóa thứ tự:

Cung Nô bộc: Tiên có bằng hữu quan hệ. Cung tử nữ: Tái sản sinh duyên phận (đào hoa). Cung tật ách: Tối hậu sản sinh tính quan hệ.

Thất, ‘Ba tường’ ‘Buôn lậu’ ‘Gặp ở ngoài’ :

1, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, lấy vợ có chồng vật món là tiểu lão bà.

2, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, một nửa kia có gặp ở ngoài.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, lấy vợ lớn tuổi hoặc có chồng người là tiểu lão bà.

Cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, lấy vợ tuổi nhỏ là tiểu lão bà.

4, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, một nửa kia ba tường.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, có gặp ở ngoài.

6, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, có gặp ở ngoài.

7, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, có gặp ở ngoài.

8, cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, người khác câu dẫn phối ngẫu.

Bát, ly hôn:

1, năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê (tự hóa kỵ), ly hôn.

2, cung phu thê hóa kỵ xung cung mệnh, ly hôn.

3, cung thiên di hóa kỵ xung cung phu thê, ly hôn.

4, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch (tự hóa kỵ), ly hôn.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, ly hôn.

6, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung phúc đức, tái chuyển hóa kỵ xung cung phụ mẫu, ly hôn.

7, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, nữ mệnh chủ ly hôn.

8, cung phu thê hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch (tự hóa kỵ), nữ mệnh chủ ly hôn.

9, đại hạn hóa kỵ xung đại ngẫu, ly hôn.

10, cung mệnh hóa kỵ xung cung phu thê, ly hôn.

4, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, có tiểu lão bà, nhân duyên hảo.

Cửu, phong trần nữ lang:

1, tử tham nhập cung mệnh. Dễ là gió trần người trong.

2, mệnh tọa tứ mã nơi phùng phá quân, thiên mã, Hàm trì, văn xương, văn khúc, thiên diêu tam phương hội, phụ nữ phong trần.

3, phá quân, thiên diêu, Địa kiếp nhập cung mệnh, dễ là kỹ nữ.

4, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức, đương đại hạn như cung phúc đức thì rơi vào phong trần.

5, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, ở chuyển hóa phi hóa kỵ nhập tử điền tuyến, phụ nữ phong trần lang.

6, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, hóa quyền nhập cung tật ách, phụ nữ phong trần lang.

Thập, phối ngẫu tuổi tác cập phương nào nhân sĩ:

1, phối ngẫu so sánh ta lớn tuổi: Dưới chư tinh nhập cung phu thê.

Tử tham, tử phá, tử tương, cự môn, thiên lương ở tị, hợi cung, liêm tham.

2, một nửa kia vì sao phương nhân sĩ: Dĩ cung phu thê Thiên can phán đoán của.

Giáp, kỷ, đinh can quê người nhân. Giáp ất can người đông phương; bính đinh can phía nam nhân; mậu kỷ can trung bộ nhân; canh tân can người phương Tây; nhâm quý can người phương bắc.

Mười một, kết hôn muộn:

1, hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh hoặc cung phu thê, kết hôn muộn là nên (30—35 tuổi).

2, cung phu thê hóa kỵ xung cung mệnh hoặc nhập cung Quan lộc, kết hôn muộn (35—40 tuổi).

Mười hai, lên xe:

1, cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, là trên giường.

2, cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, lên xe vu trước khi cưới.

Cung tật ách hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, lên xe vu trước khi cưới.

3, đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên, trên giường (lưu niên ở đại ngẫu hóa kỵ lúc).

Đại ngẫu hóa phi hóa kỵ nhập lưu tật, trên giường (lưu niên ở đại ngẫu kỵ xung hậu).

4, tham lang, liêm trinh, Thái Âm nhập đại tật, nữ mệnh dễ bị lên xe.

Mười ba, đào hoa ở chung tình huống:

1, cung tật ách hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc (tự hóa kỵ), ta nghĩ khác giới, khác giới không bỏ rơi ta.

Cung Nô bộc hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách (tự hóa kỵ), khác giới tưởng ta, ta không bỏ rơi người.

2, cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, muốn có quan hệ phát sinh. Cung tử nữ hóa quyền nhập cung tật ách, táy máy tay chân.

Cung tử nữ hóa khoa nhập cung tật ách, có phong độ. Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, trên giường.

3, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, hôn môi.

Cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, trên giường.

Cung tài bạch cái nhìn:

Nhất, kiếm tiền:

1, vũ tham ở tứ mộ nơi, là đại hạn tứ chính địa, đại hạn can là kỷ, đến đây đại hạn đại kiếm tiền tài.

2, đại quan hóa lộc hoặc hóa quyền chiếu của năm, kiếm tiền.

3, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, lưu tài hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh, kiếm tiền.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, kiếm tiền.

5, năm sinh hóa phi hóa lộc nhập cung phúc đức, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức, đến đây hạn đại kiếm.

Năm sinh hóa phi hóa lộc nhập A cung, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung, đến đây hạn đại kiếm.

Nhị, đảo tiền:

1, cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, ta sẽ đảo tiền của người khác (do dĩ nhập cung phụ mẫu là quá mức), ta còn bằng hữu tiền hội lùi lại.

2, cung tài bạch hóa kỵ xung cung phụ mẫu, sẽ bị đảo tiền. Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung Nô bộc, sẽ bị đảo tiền.

3, huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, không thích hợp kết phường.

4, văn khúc cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, sẽ bị đảo tiền.

Văn khúc cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập A cung, A cung hóa kỵ xung cung mệnh tam phương, sẽ bị đảo tiền.

5, cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch hoặc cung Quan lộc, không thích hợp và bằng hữu có tiền tài vãng lai.

Cung Nô bộc hóa kỵ, hóa khoa nhập cung tài bạch hoặc cung Quan lộc, tiền tài hữu kinh vô hiểm.

6, cung Nô bộc cung tài bạch hóa kỵ xung cung tật ách, bằng hữu đảo tiền của ta.

7, cung Nô bộc hóa kỵ xung cung tài bạch, không tình nguyện bị bằng hữu khuy rơi tiền.

8, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam hợp phương, không thích hợp kết phường.

9, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, không thích hợp kết phường, tố bảo chứng, tổn hại tài.

10, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, bằng hữu hội đảo tiền của ta, bằng hữu trả ta tiền hội lùi lại.

Cung phụ mẫu hóa kỵ xung cung tài bạch, tiền tài tá bằng hữu, dĩ tha kéo dài lạp phương thức thu hồi.

Tam, tổn hại tài:

1, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập nào đó cung chuyển hóa kỵ, xung lưu niên cung tài bạch, tiền phát sinh vấn đề.

2, đại quan hóa kỵ xung đại tật, lưu tật hóa kỵ xung đại tật, lưu tật hóa kỵ xung A nguyệt, lưu niên trung A nguyệt tổn hại tài.

3, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu điền, khuy tiền.

4, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu niên cung Nô bộc, tái chuyển hóa phi hóa kỵ nhập lưu niên cung Nô bộc của cung tài bạch, tổn hại tiền.

5, lưu tài hóa phi hóa lộc nhập B cung chuyển hóa kỵ xung lưu niên cung mệnh, tổn hại tài. Lưu tài hóa phi hóa lộc nhập B cung chuyển hóa kỵ xung A nguyệt cung mệnh, ở

A nguyệt tổn hại tài.

6, đại tài hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập lưu tài (tự hóa kỵ), tổn hại tài.

7, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cánh đồng (tự hóa kỵ), đến đây hạn không có thành tựu.

8, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, tiền so sánh chặt.

9, huynh đệ cung hóa kỵ xung cung mệnh tam hợp, tổn hại tài, sự nghiệp phập phồng đại.

10, bản tài hóa kỵ xung đại tài, lưu niên nhập đại tài hoặc đại phúc thì chủ tổn hại tài.

Đại tài hóa kỵ xung bản tài, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa kỵ xung bản tật, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa lộc xung bản tật, mười năm tổn hại tài; đại tài hóa kỵ xung lưu tật, lưu niên tổn hại tài; cung Quan lộc hóa kỵ xung cung tật ách, chủ lỗ vốn.

Tứ, tiền tài đi về phía. . . Khán đại hạn hóa lộc:

1, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập đại tài, bản huynh phùng năm sinh hóa kỵ, đến đây hạn tiền cấp huynh đệ, tiền là người khác.

2, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập cánh đồng hoặc bản thiên, tiền tài hoa ở cấu phòng cập bên ngoài.

3, đại hạn hóa phi hóa lộc nhập đại quan, bản giao hữu hóa kỵ xung thiên mệnh, tiền tài hoa vu mua hoàng kim, động sản. Chú: Thiên lương hóa lộc là hoàng kim, động sản. Thiên cơ hóa lộc — máy móc nhà xưởng.

4, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập đại thiên, không giữ được tiền.

5, Đại huynh, bổn điền hóa phi hóa kỵ nhập đại thiên, tiền tài hoa ở bên ngoài.

6, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu quan chuyển hóa phi hóa lộc nhập lưu tài, tái chuyển hóa phi hóa lộc nhập lưu phu thê, tiền giao cho phối ngẫu.

7, cung tài bạch tứ hóa: Ta tốn ra.

Cung mệnh (cung tài bạch cung Quan lộc, là tài hành vi) khán cung tài bạch hướng đi.

Cung Quan lộc (cử chỉ của ta) tứ hóa, ta kiếm tiền phương hướng.

Cung Quan lộc cung Quan lộc (cung tài bạch), sự nghiệp chỗ tiêu tiền.

Ngũ, cái khác:

1, công ty hướng ngân hàng cho vay:

Lưu quan cha mẹ của (cung Nô bộc) chủ kỳ công ty ông chủ.

Lưu giao hữu hóa kỵ xung mệnh cục tam hợp, không vay được tiền.

Lưu giao hữu hóa kỵ xung cung mệnh hoặc cung Quan lộc, không vay được tiền mà đóng cửa.

2, đòi tiền thời cơ:

Lưu niên hóa phi hóa kỵ nhập lưu huynh xung đại tài, đến đây năm tổn hại tài. Tái dĩ lưu huynh phi hóa hóa lộc, hóa kỵ dĩ định bao thuở đòi tiền: Hóa phi hóa lộc nhập A cung, A nguyệt có thể đòi tiền, hóa phi hóa kỵ nhập A cung cung Quan lộc, A nguyệt tháng sau khứ đòi tiền.

3, tiền tài con số:

⑴ cánh đồng tinh thần ngũ hành thuộc tính cục sổ (tương sinh sử dụng toán cộng, tương khắc sử dụng phép trừ, tương đồng sử dụng toán cộng) số lượng mục đích tối tả một vị con số.

Dĩ đại hạn đấu quân là 1, thuận đi đếm tới bản mệnh cung tài bạch, kỳ sổ tức là ⑴ số con mắt phía linh một sổ tổng số.

Lệ: Đại hạn cung điền trạch tinh thần là: Cự môn (thủy nhị cục)+ thái dương (hỏa lục cục)=6﹣2=4, thì tối tả số con mắt là 4. Đại hạn đấu quân là 1, thuận đi đếm tới bản mệnh cung tài bạch thì là 5, vì vậy đại hạn kiếm tiền 400000 nguyên.

4, đại hạn bàn hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh bàn tương đồng cung vị phùng năm sinh hóa lộc vận dụng:

Đại tài hóa phi hóa kỵ nhập bản tài (phùng năm sinh hóa lộc), kiếm tiền.

Cánh đồng hóa phi hóa kỵ nhập bổn điền (phùng năm sinh hóa lộc), kiếm bất động sản tiền tài.

Tổ phụ hóa phi hóa kỵ nhập bản phụ (phùng năm sinh hóa lộc), phụ mẫu kiếm tiền.

5, đại hạn và cung phúc đức nặng điệt hóa phi hóa kỵ nhập đại tử bản huynh, đến đây hạn tài bất hảo. Đến đây hạn không thích hợp kết phường.

Đại hạn và cung phúc đức nặng điệt hóa phi hóa kỵ nhập đại phúc bản quan, đến đây hạn lỗ vốn, đặc biệt lưu niên nhập đại phúc của năm. Đến đây hạn tình cảm vợ chồng bất hảo, đặc biệt lưu niên nhập đại hạn cung phúc đức của năm.

6, hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung (mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc, cung điền trạch) cập nó cung sử dụng:

Hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung hảo. Hóa phi hóa lộc nhập ta cung, hóa phi hóa kỵ nhập hắn cung, tổn hại tài. Hóa phi hóa lộc nhập nó cung, hóa phi hóa kỵ nhập ta cung, tổn hại tài. Cung tử nữ hóa phi hóa lộc nhập ta cung, cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cát. Hóa lộc, hóa kỵ phân nhập ta cung, cát. Hóa lộc, hóa kỵ cùng nhập ta cung, hung. Hóa lộc, hóa kỵ phân nhập một đường cung vị thượng, hung. Hắn cung hóa lộc, hóa kỵ đều nhập A cung, cát.

7, cung tài bạch tứ hóa:

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phu thê, hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, mua sắm là nên để tránh khỏi tổn hại tài.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, kiếm tiền cùng người cộng phân.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, tiền không đổi bị đảo.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung điền trạch, hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, bị đảo tiền.

Cung tài bạch tự hóa lộc, hội dùng tiền, tài bạch dư dả; có tiền sẽ đi hưởng thụ.

Cung tài bạch tự hóa quyền, cảm dùng tiền.

Cung tài bạch tự hóa khoa, dùng tiền tiết chế.

Cung tài bạch tự hóa kỵ, tổn hại tài.

Chú: Ứng dụng: Năm sinh hóa phi hóa lộc nhập A cung, A cung tự hóa vô.

8, cung phúc đức luận tài bạch:

Cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, tam đại không phát.

Cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, cung tật ách, cung thiên di, tổ ấm khó giữ được.

Cung phúc đức hóa lộc hoặc hóa quyền nhập cung mệnh, có tổ ấm.

Cung phúc đức hóa khoa nhập cung mệnh, có tổ ấm.

9, phong nguyệt tiền:

Thiên diêu ở A cung, A cung cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, kiếm phong nguyệt tiền.

Cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung tài bạch, cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, kiếm phong nguyệt tiền.

10, tứ hóa nhập cung tài bạch:

Hóa lộc, hóa quyền nhập cung tài bạch, cảm kiếm cảm hoa. Hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, cảm tá cảm hoa.

Hóa lộc, hóa khoa nhập cung tài bạch, liệu cơm gắp mắm. Năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, tài thủ không tốn sức.

Cung tật ách cái nhìn:

Nhất, luận chí phương pháp:

1, cung tật ách tứ hóa nhập mệnh bàn các cung:

Phi hóa lộc nhập chí trọng đại; quyền nhập chí nhỏ lại; khoa nhập chí nhỏ lại; phi hóa kỵ nhập chính tương chí đồ rơi.

2, cung mệnh ~ cung tật ách là bên trái, cung Nô bộc ~ cung phụ mẫu là phía bên phải. Dương can cung là phía, hong khô là phía trước.

3, phi hóa lộc nhập vừa tự hóa lộc, chí thượng lông dài. Đùi phải sinh sản chân trái tả thắt lưng

4, mệnh bàn và bản thân đối ứng quan hệ như bên phải đồ: Bên phải thắt lưng bụng bên trái

5, thiên cơ hóa quyền nhập thiên, lông mi có chí. Bên phải phúc ngực trái

6, tinh và hóa kỵ hợp tài đoán. Ngực phải vai phải đầu cung mệnh vai trái

7, văn xương, văn khúc là đại chí. Đà la là bớt. Thiên đồng là thường thường chí. Vũ khúc là ba.

Liêm trinh, thái dương là ban, thanh xuân đậu. Lệ: Vũ khúc hóa phi hóa kỵ nhập hợi, thì chân có chí mà lại bộ ngực cũng có chí (vũ khúc đại diện phế kim).

Nhị, luận vóc người chiều cao dĩ cung tật ách tứ hoá phân xử của.

1, tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng liêm trinh, phá quân, cự môn, thiên lương — vóc người cao.

Tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng tham lang — vóc người trung đẳng.

Tứ hóa nhập cung mệnh, cung điền trạch, phùng thiên đồng, thiên cơ, Thái Âm — hơi lùn.

2, hóa lộc — đại; hóa quyền — tráng; hóa khoa — thon thả; hóa kỵ — gầy.

Tam, thọ nguyên:

1, đại hạn hóa kỵ xung bổn điền (tức xung đại tật), đại hạn hóa kỵ xung lưu điền, cai năm qua đời. (lưu niên đi phi hóa kỵ nhập cung thì bản thân tức bắt đầu bất hảo).

2, đại tật hóa kỵ xung thiên mệnh, cánh đồng hóa kỵ xung cánh đồng, cung mệnh, cung tật ách, cung điền trạch giai phá quân. Cố vong (đại hạn thành lưu của cung tài bạch tam phương tình hình đặc biệt lúc ấy tử).

3, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, cung mệnh hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê xung cung Quan lộc, người chết (lưu niên nhập cung Quan lộc năm này chết tiệt).

4, đại tật hóa kỵ xung bản mệnh, sẽ chết. Cánh đồng hóa kỵ xung bản mệnh, sẽ chết.

5, huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch xung nữ cung, sẽ chết nhân.

6, điền trạch của cung Quan lộc (tức cung tật ách) hóa kỵ xung cung mệnh, quyết tử vong.

7, cung điền trạch khán tử vong, lưu niên hóa phi hóa lộc nhập lưu điền (tự hóa kỵ ra) tử vong.

8, Đại huynh của tật (tức đại thiên) hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ, xung lưu huynh, huynh đệ bản thân bất hảo (cũng có thể dùng vu kỷ thân).

9, lưu tật của quan (tức lưu huynh) hóa kỵ xung bản tật, tử vong (chính suy luận mà được).

10, văn khúc của cung Quan lộc (là lưu niên lục thân cung thì) can cung đinh khiến cho cự môn hóa kỵ tận trời cùng, tử vong (lưu niên lục thân bản thân bất hảo).

11, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, bản thân có chuyện, đại hạn tự hóa kỵ ra canh tao, đại hạn hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập cánh đồng hoặc cánh đồng hóa lộc, hóa phi hóa kỵ nhập đại hạn, qua đời.

Tứ, tai nạn xe cộ:

1, lưu mệnh tự hóa kỵ, đến đây năm dễ có tai nạn giao thông.

2, cung mệnh hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, cung thiên di hóa kỵ xung cung phụ mẫu, dễ có chảy máu việc, quyên máu có thể mổ.

3, tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập thiên di phùng xa tinh (như thiên cơ, phá quân) xung bản mệnh, người khác lái xe va chạm ta (phùng thiên lương sẽ không quan hệ).

4, cung thiên di hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch xung nữ cung (tật ách của phúc đức), tai nạn xe cộ (ta va chạm người khác). Lưu niên gặp phải thì cùng đoạn.

5, bản tật hóa kỵ xung vở, tai nạn xe cộ (đại hạn nếu có tình huống giống nhau thì sẽ gặp phát sinh).

6, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung thiên di xung bản mệnh, bị va chạm.

Ngũ, tự sát:

1, bản mệnh cung phúc đức hóa kỵ, xung đại phúc, tự sát.

2, đại phúc hóa kỵ xung bản phúc, bất hảo.

3, cự môn, dương nhận, Hỏa Tinh nhập Bản cung hoặc đối cung (tam hợp vô lực), tự sát cách cục.

4, cự môn hóa kỵ tận trời cùng + đà la của cung, tự sát.

5, liêm trinh + Hỏa Tinh, tự sát.

Lục, ngoài ý muốn tai hoạ:

1, cung thiên di hóa kỵ xung cung mệnh, cung Quan lộc, cung điền trạch, cung tử nữ, ngoài ý muốn tai ách.

2, kỵ xung 1 của tam cung nếu vì bản mệnh bàn thì họa nặng.

3, kỵ xung 1 của tam cung nếu vì đại hạn bàn thì họa khinh.

4, nếu 2 cập 3 việc đồng thời phát sinh thì có nguy hiểm tánh mạng.

5, cung tật ách hóa kỵ xung cung điền trạch, ngoài ý muốn là tai. Lệ:

Cung thiên di hóa kỵ xung bản mệnh cung (tử vị), đại hạn nhập thân cung thì, hóa kỵ thì xung đại quan, đến đây hạn ra ngoài có ý định ngoại tử vong của khả năng.

Cung thiên di hóa kỵ xung bản mệnh cung (tử vị), đại hạn nhập thần cung thì, hóa kỵ thì xung đại tài, đến đây hạn ra ngoài ngoài ý muốn đụng bị thương người khác thường tiền xong việc.

Thất, sinh bệnh:

1, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh, cai năm sinh B bệnh. Lệ: Lưu phụ của tật hóa kỵ là vũ khúc, đến đây năm phụ thân được bệnh phổi.

2, bản tật hóa phi hóa kỵ nhập bản huynh (tật ách của quan lộc) xung cung Nô bộc (phụ của quan), sinh bệnh (đại hạn nhập cung Nô bộc bệnh phát)(đại hạn có đến đây hiện tượng, lưu niên nhập cung Nô bộc bệnh phát).

3, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tật, cai năm bản thân bất hảo. Nếu xung lưu nhật, cai nhật bản thân bất hảo.

4, hóa quyền (năm sinh, đại hạn, mệnh can) xung cung tật ách, sinh bệnh.

5, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phúc đức sinh bệnh; đái tật duyên niên.

6, lưu tật hóa kỵ xung đại tật, bản thân bất hảo.

7, lưu tật hóa kỵ xung lưu tật của cung Quan lộc, bản thân bất hảo.

8, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh thần, B tinh thần của khí quan dễ sinh bệnh.

9, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập huynh giao hữu tuyến, sinh bệnh.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung tật ách, sinh tử vấn đề.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung phu thê, sinh tử vấn đề.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung Quan lộc, đái tật duyên niên.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung phụ mẫu, đái tật duyên niên.

10, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập đại tật, bản thân có chuyện.

11, tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh hoặc phúc đức, thể chất yếu, không đổi trị tận gốc. Tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phu thê, phối ngẫu bản thân yếu.

12, vũ khúc chỗ cung vị hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, dễ được bệnh nan y. Vũ khúc chỗ cô vị hóa phi hóa kỵ nhập huynh đệ cung, cung Nô bộc, dễ cảm mạo. Chú: Vũ khúc chủ thở hổn hển bệnh.

Bát, nên kỵ phương vị, nơi:

1, cung tật ách hoặc cung tử nữ nội có văn xương hoặc văn khúc.

2, cung tật ách (cung tử nữ) hóa phi hóa kỵ nhập A cung, phàm A cung việc cũng kỵ của.

Chư tinh nhập A cung đại biểu hàm nghĩa:

Thất sát: Kinh khủng, mạo hiểm việc; liêm trinh: Lôi, hỏa; Thái Âm: Bơi dễ rút gân; phá quân: Thủy bàng.

Thiên tướng: Chất có hại, gas, hóa chất dược phẩm; tham lang: Mộ, quan tài; cự môn: Công trường, đường sắt.

3, do 1, 2 cũng biết người này suốt đời nên kỵ của phương vị và nơi, đặc biệt nhi đồng là lúc là nhiên.

Cửu, lương y phương hướng và xu cát tị hung chi đạo:

1, lương y phương hướng:

Tìm đại hạn hóa khoa chỗ phương hướng hoặc đại hạn cung phúc đức hóa khoa chỗ phương hướng.

Nếu phùng tự hóa khoa, thì sẽ tìm hóa lộc chỗ phương vị là lương y phương hướng.

2, xu cát tị hung chi đạo: Dọn nhà.

Cung phúc đức hóa khoa nhập A cung, dời đến A cung của phương vị.

3, huyết quang tai ương có thể quyên máu phương thức mổ của.

Thập, tinh tình luận tật ách:

1, thiên mã nhập lưu tật, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. Lưu niên nhập thiên mã cung Quan lộc, đến đây năm bắt đầu thủ dâm.

Lưu tật là thiên mã cung Quan lộc thì, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. (cũng chính là lưu niên là trời mã cung tử nữ thì)

Lưu mã hoặc lưu niên nhập đại hạn phụ tật tuyến thì, đến đây năm bắt đầu thủ dâm. Lưu niên và lưu mã đồng thời nhập đại hạn phụ tật tuyến thì, canh như thế đoạn.

2, dương nhận ở cung tật ách, đái tật duyên niên.

3, vũ, giết cập dương nhận ở cung tật ách, đàm tật.

4, vũ khúc (hóa kỵ) nhập cung tật ách, bộ ngực bất hảo.

5, cự môn nhập cung tật ách, cự môn hóa kỵ thì chủ dễ sinh bệnh uống thuốc.

6, thiên hình ở cung tật ách, phụ mẫu bản thân bất hảo. Thiên hình cung Quan lộc hóa kỵ xung lưu niên, có hình thương.

7, thiên diêu cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, phụ nhân bệnh đa.

8, dương nhận, đà la giáp hóa kỵ (năm sinh hoặc cung mệnh can hóa ra) nhập đại hạn, lục thân qua đời.

9, thiên cơ: Gân cốt. Thiên cơ ở A cung. A cung hóa phi hóa kỵ nhập B cung. B cung hóa phi hóa kỵ nhập C cung xung D cung, D cung tứ chi dịch cân cốt thụ thương, đau nhức (D cung tại thân thể bộ vị thỉnh tham khảo nhất của 4).

10, thiên cơ hoặc thiên lương + văn xương + văn khúc nhập cung mệnh, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đến đây đại hạn điên bệnh.

Thiên tướng + văn xương + văn khúc nhập cung mệnh, đại tật hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, đến đây đại hạn có bệnh ngoài da.

Chú: Cung điền trạch có kể trên tình huống thì cùng luận của.

Mười một, cung tật ách tứ hóa:

1, cung thiên di hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, hóa kỵ xung cung mệnh, người này có bệnh kín.

Cung thiên di hóa lộc xung cung mệnh, hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, người này không có hàng da bệnh.

Cung thiên di cung Quan lộc hóa kỵ xung cung tật ách, suốt đời bản thân bất hảo.

2, cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, tích mệnh, bản thân không nhiều hảo.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu phùng năm sinh hóa kỵ, tính tình bá đạo; khỏe mạnh.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, bản thân thường có da lông ngắn bệnh.

3, sinh tử việc:

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, cung phúc đức hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, dễ phùng sinh tử việc.

Cung tật ách hóa kỵ xung cung Quan lộc, cung phúc đức hóa kỵ xung cung Quan lộc, có đại tai ách nhưng sẽ không chết.

Chú: Năm sinh hóa lộc hoặc hóa khoa nhập tổ phụ tật tuyến, có thể mổ sinh tử chi kiếp.

Mười hai, cái khác:

1, âm dương cung vị và cung tật ách quan hệ:

Dương cung hóa phi hóa kỵ nhập dương cung, nan trị liệu; âm cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, nan trị liệu.

Dương cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, so sánh dễ trị liệu; âm cung hóa phi hóa kỵ nhập âm cung, so sánh dễ trị liệu.

2, thệ vu phương nào:

Huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập nào đó cung chuyển hóa phi hóa kỵ nhập A cung (chết địa phương).

Mệnh thiên tuyến: Ngoài ý muốn tử vong; huynh giao hữu tuyến: Chết ở bằng hữu chiếu cố cho; quan ngẫu tuyến: Chết ở công tác tràng thượng;

Tử điền tuyến: Chết ở trong nhà; tài phúc tuyến: Chết vào trên giường; phụ tật tuyến: Do y viện sĩ về nhà, chết vào trong nhà.

3, cung điền trạch và cung tật ách quan hệ:

Cung điền trạch là 1, thì cung tật ách là 9.

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, so sánh nghiêm trọng; nhân ngoài ý muốn mà tàn tật.

Cung tật ách hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, dùng tiền tiêu tai; nhân ngoài ý muốn mà sinh bệnh.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung tật ách, mặt mày hốc hác lưu lại dấu vết.

Cung điền trạch hóa kỵ xung cung phụ mẫu, tàn tật. Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, chuyện ngoài ý muốn mà dùng tiền.

4, mệnh chủ vũ khúc + năm sinh hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, năm sinh hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách, tiếng đồng hồ khó sinh.

Mệnh chủ lộc tồn + năm sinh hóa kỵ xung cung mệnh, tiếng đồng hồ hiểm mất mạng

5, ngũ tạng lục phủ ở 12 cung vị đưa: (như sau đồ)

6, cha mẹ tật ách:

Lưu niên phụ của tật cung Quan lộc (tức lưu niên cung mệnh) hóa kỵ xung

Bản phụ của tật (tức cung tài bạch), phụ thân bản thân bất hảo.

Đại hạn nhập cung phúc đức, cung phụ mẫu hóa kỵ, tổ phụ ở, phụ thân

Nguy hiểm, tổ phụ không ở vô phương.

Tổ phụ của tật (tức đại thiên) hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu phụ của tật (tức lưu thiên), mẫu thân bản thân bất hảo.

7, năm sinh hóa quyền nhập cung tật ách, tiếng đồng hồ nan đái nuôi.

8, cung tử nữ tự hóa kỵ, so sánh sẽ không xảy ra bệnh.

9, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, mặt mày hốc hác, bị thương tàn phế, dấu vết (và giơ cao dương nhập cung mệnh có tương đồng dấu hiệu).

Cung Quan lộc cái nhìn:

Nhất, thăng quan:

1, đại hạn hóa quyền nhập bản mệnh hoặc bản quan, đại hạn hóa quyền chiếu lưu mệnh hoặc lưu quan, cai năm thăng quan. Đại hạn hóa phi hóa lộc nhập lưu mệnh hoặc lưu quan (tức hóa lộc hóa quyền hỗ chiếu), đến đây năm quá.

2, cung Quan lộc của tứ hóa: (bản quan hóa ra, đại hạn phùng; đại quan hóa ra lưu niên phùng của).

Cung Quan lộc của hóa lộc: Lên chức, đề bạt, vào nghề; đi cửa sau thăng thiên.

Cung Quan lộc của hóa quyền: Lên chức, gây dựng sự nghiệp (hóa quyền biểu thành tựu).

Cung Quan lộc của hóa khoa: Quý nhân, có người giúp đỡ; có người ban cho chính, đánh giá thành tích; hảo.

Cung Quan lộc của hóa kỵ: Không thuận.

3, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập phụ tật tuyến hoặc mệnh thiên tuyến, thăng quan.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tài bạch, nhân viên chính phủ dễ tham không an phận của tài.

Cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, dĩ tiền tài trải qua nhân giới thiệu mà thăng quan.

Cung Quan lộc hóa quyền nhập huynh giao hữu tuyến, dĩ nhân tình trải qua nhân giới thiệu mà thăng quan.

4, nhậm chức hậu lên chức: Cung Quan lộc tứ hóa tam cát nhập cung tật ách.

Hóa lộc: Điều động nội bộ; hóa quyền: Điều động nội bộ, cố định; hóa khoa: Còn muốn tuyển trạch; hóa kỵ: Không có, còn không thượng.

5, đại quan hóa quyền chiếu bản quan, lưu niên nhập phối ngẫu hoặc cung Quan lộc thì thăng quan.

Nhị, đọc sách thật là tốt phôi:

Đọc sách thật xấu khán cung Quan lộc tứ hóa nhập cung phụ mẫu nhận của:

1, hóa lộc: Phản ứng khoái, thông minh.

2, hóa quyền: Dụng tâm đọc sách, có khả năng, chính dụng công, danh liệt tiền mâu.

3, hóa khoa: Lớp giữa thành tích.

4, hóa kỵ: Không thích đọc sách, thành tích bất hảo, yếu thôi, ép mới bằng lòng đọc sách.

5, hóa lộc, hóa khoa: Thành tích tốt.

6, hóa quyền, hóa khoa: Nỗ lực đọc sách, thành tích tốt, dụng công tài năng thành tích tốt.

7, hóa lộc, hóa quyền: Thích hợp tham chánh làm quan, danh liệt tiền mâu.

8, hóa lộc (mà lại tự hóa kỵ): Mặc dù thông minh, nhưng không chịu đọc sách.

9, cung phụ mẫu tự hóa kỵ: Mình không thể đọc sách.

10, cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, tại ngoại thông minh, nhưng không cần công.

Chú: Đại quan tứ hóa nhập bản phụ hoặc tổ phụ đều có thể đoạn đọc sách thật xấu.

Tam, đóng cửa:

1, đại quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung đại tật, đóng cửa. Lưu niên hóa kỵ xung đại tật, hơn thế năm đóng cửa, xung lưu nguyệt của tật, cai nguyệt đóng cửa.

2, đại tài hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, đóng cửa.

3, lưu tật hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tài, đóng cửa.

4, lưu quan hóa phi hóa kỵ nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu tật, đóng cửa.

5, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung bản giao hữu, sinh ý sụp đổ.

6, lưu quan hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ xung lưu giao hữu, đóng cửa.

7, lưu niên tự hóa lộc ra, lưu quan hóa phi hóa kỵ nhập lưu mệnh, còn không hội đảo.

8, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, dễ đóng cửa (đi làm nhân viên quan kỵ xung tật công ty không ngã, duy thân bị xung động, đi làm lười biếng vô tình).

9, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập huynh đệ cung xung cung Nô bộc, nan chi trì.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ xung cung điền trạch, khuy tiền. } khán tiền phương pháp nhanh nhất.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, đóng cửa.

10, cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách xung cung phụ mẫu,, lưu niên nhập cung phụ mẫu, cai năm đóng cửa.

Tứ, kết phường sự nghiệp:

1, kết phường tình huống:

Cung Nô bộc cung tài bạch, khán yếu bao nhiêu tiền hợp tác.

Cung Nô bộc nạp âm cục sổ định hợp tác nhân số.

Cung tài bạch hóa quyền, hóa khoa nhập cung mệnh, dĩ kỹ thuật cùng người hợp tác, không – cần phải bỏ tiền.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, bỏ tiền khá nhiều.

Cung tài bạch hóa quyền nhập cung mệnh, không muốn xảy ra tư, là cổ phần danh nghĩa.

Cung tài bạch hóa khoa nhập cung mệnh, bỏ tiền ít.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập huynh giao hữu tuyến, và cổ đông ra đồng dạng tiền tài.

2, kết phường thì, khả phủ trữ hàng sản phẩm:

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập phụ tật tuyến, tử điền tuyến, bất khả trữ hàng.

Cung điền trạch tứ hóa tam cát nhập phụ tật tuyến, tử điền tuyến, có thể trữ hàng.

Cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập huynh giao hữu tuyến, tiểu khuy mà thôi, làm từng bước địa mại.

3, cung tử nữ hóa kỵ sung cung Nô bộc, huynh đệ cung, cung tử nữ, 40 tuổi tiền không nên hợp tác.

4, kết phường thích hợp phủ:

Cung Nô bộc tứ hóa tam cát nhập ta tam phương, cát.

Cung Nô bộc hóa kỵ xung bản mệnh, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa kỵ xung bản mệnh hoặc cung Nô bộc, bất năng cổ đông; không có đào hoa không có nhi tử.

Cung Nô bộc vượng thì có thể, suy bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung Nô bộc, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu xung cung tật ách, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh tam phương, tam cát hội chiếu ta tam phương, kết phường đại cát.

Cung tử nữ hóa lộc, hóa kỵ đều nhập cung Nô bộc, bất khả kết phường.

Cung tử nữ hóa phi hóa kỵ nhập cung Nô bộc, kết phường thì, đối với bằng hữu so sánh có lợi.

Đại tử hóa quyền nhập lưu niên, kết phường.

Cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, đại hạn nhập bản mệnh cung phúc đức, có thể kết phường, mà lại năng lực kiếm tiền.

Huynh đệ cung hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh tam phương, không thích hợp kết phường sự nghiệp; không thích hợp vay tiền cấp bằng hữu.

5, giải tán:

Đại hạn hóa phi hóa lộc nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung đại tử, giải tán.

Lưu niên hóa phi hóa lộc nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung lưu tử, giải tán.

Đại tử hóa phi hóa kỵ nhập A cung, tái chuyển hóa kỵ xung lưu tử, đương niên đầu tư đương niên giải tán.

6, lưu niên hóa kỵ xung lưu tử, giải tán; đại hạn hóa quyền chiếu lưu niên, sách cổ hậu chính vừa làm tiếp đứng lên.

Ngũ, làm loại nào hành nghiệp:

1, tứ hóa năm sinh nhập cung mệnh tam hợp phương đoạn chức nghiệp:

Hóa lộc + hóa quyền, việc buôn bán (nếu nhập huynh giao hữu tuyến, thì chủ ở nơi công cộng từ thương).

Hóa lộc + hóa khoa, tố trên danh dự sinh ý.

Hóa quyền + hóa khoa, tố tính kỹ thuật công tác.

Chú: Cũng có thể cung mệnh tứ hóa đoạn hậu thiên nên làm hành trình nghiệp.

2, tam hợp đoạn chức nghiệp:

⑴, cơ nguyệt cùng lương cách: Công chức, văn giáo, in ấn.

⑵, giết, phá, lang cách: Kỹ thuật.

⑶, Thiên phủ, liêm trinh cách: Máy tính nghiệp.

⑷, thái dương, liêm trinh gia thiên hình cách: Chính trị, pháp luật.

Tương ⑴ và ⑵ điều phối hợp ứng dụng thì: Mệnh cách là Sát Phá Lang cách, cung mệnh tứ hóa thành cơ nguyệt cùng lương cách, ở công giáo đơn vị làm tính kỹ thuật công tác. Dĩ tứ hóa thành chủ, tam kết hợp phụ.

3, công vụ nhân viên:

Thiên hình của cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung phụ mẫu, bi tử nhân viên công vụ.

Thiên hình của cung Quan lộc tự hóa lộc, nhân viên công vụ thân phận có thể chính quyết định, nhưng không làm vừa không có ý tứ.

Thiên hình của cung Quan lộc tự hóa kỵ, nhân viên công vụ thân phận cũng chính quyết định, mời tố người ta không làm.

Cung phụ mẫu hóa phi hóa kỵ nhập thiên hình của cung Quan lộc, đại diện tài ba của ngươi, quốc gia chỉ định cấp cho người ta, vì quốc gia nhân viên quan trọng.

Cung phụ mẫu hóa lộc, hóa khoa nhập thiên hình của cung Quan lộc, là đại quan bận rộn của chức.

Thiên hình cung Quan lộc và cung phụ mẫu nặng điệt, quân nhân là nên.

Đại hạn đi ngược chiều, đi làm nhân viên. Đại hạn thuận đi, người làm ăn.

4, làm công chức hoặc tư chức:

Đại tài hóa phi hóa lộc nhập đại tật, công chức phục vụ.

Đại tài hóa phi hóa lộc nhập huynh đệ cung, tư chức phục vụ.

5, chỉ có thể thuộc nước chức nghiệp (tiêu khiển, thực phẩm, buôn bán nghiệp) cách cục:

Cung Quan lộc hóa kỵ đi ra ngoài. Cung Quan lộc tự hóa kỵ ra. Cung Quan lộc có hóa kỵ.

Bản mệnh tam hợp tự hóa kỵ. Cung tài bạch hóa kỵ, xung bản mệnh cung.

6, tinh tình luận chức nghiệp:

Đào hoa tinh nhập cung tài bạch, cung phúc đức thì, có thể là điện ảnh và truyền hình nhân viên.

Giết, phá, lang nhập cung phúc đức, người làm ăn.

Thiên phủ ở cung tài bạch, người làm ăn.

Thiên tướng ở cung tài bạch, công vụ nhân.

Tử vi + thiên tướng ở cung mệnh, công vụ nhân.

7, làm loại nào hành nghiệp thể kiếm tiền:

Đại tài hóa phi hóa kỵ nhập bản mệnh cung, cung tài bạch, cung tật ách, cung điền trạch đoạn làm hành nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung tật ách, cung Quan lộc, cung điền trạch đoạn làm hành nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập A cung của B tinh thần xung C cung, đi hạn quá A hoặc C cung hậu có thể làm B việc nghiệp.

Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập A cung chuyển hóa kỵ →C tinh thần, có thể làm C chuyện nghiệp.

Lệ: Cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập cung thiên di, cung thiên di thiên đồng hóa kỵ, có thể làm ẩm thực, nghề phục vụ, mệnh lý nghiệp.

Dĩ đại tài hóa lộc hoặc hóa lộc tái chuyển hóa kỵ tìm của.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập A cung B tinh thần, B tinh thần hành trình nghiệp có thể làm của. Nếu A cung có sống năm hóa kỵ, thì thủ bản tài của tứ hóa tam cát nhập bản mệnh tam phương cập cung điền trạch ngôi sao thần là chức nghiệp.

Lánh pháp: Đại tài hóa phi hóa lộc nhập bản mệnh bàn các cung đoạn thích hợp chức nghiệp.

Cung mệnh, cung thiên di, văn lộ phát triển, dạy học, kiên khách.

Huynh đệ cung, cung Nô bộc, kết phường.

Cung tử nữ, cung điền trạch, đi làm.

Cung tài bạch, cung phúc đức, kinh thương, việc buôn bán.

Cung phụ mẫu, cung tật ách, đi văn lộ, dạy học.

8, cung mệnh can là đinh can hoặc mậu can, tài nghệ, tính kỹ thuật chức nghiệp.

9, cung mệnh (cung tài bạch cung Quan lộc) khiến cho A tinh thần hóa lộc, hóa quyền chiếu cung tài bạch, làm A tinh thần của công tác hội kiếm đồng tiền lớn. Chú: Dĩ hóa quyền làm trọng điểm.

10, đại hạn hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, nên đi làm, không thích hợp từ thương.

Lục, có phủ ông chủ mệnh:

1, nam mệnh dĩ thái dương chỗ cung vị phi hóa hóa lộc. Nữ mệnh ất Thái Âm chỗ cung vị phi hóa hóa lộc.

Hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, cung tài bạch, cung Quan lộc là ông chủ mệnh.

Hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, cung điền trạch, là vô thực quyền của ông chủ.

Hóa phi hóa lộc nhập cung tật ách, đi làm tộc.

2, đại hạn hóa quyền nhập A cung chiếu B cung, lưu niên nhập A hoặc B tình hình đặc biệt lúc ấy làm lão bản.

Đại quan hóa quyền nhập thiên mệnh, lưu niên nhập đại thiên, cùng người kết phường.

Đại hạn hóa quyền nhập A cung (làm gốc mệnh tam phương) chiếu B cung.

Lưu niên nhập A cung, đương thực chất ông chủ.

Lưu niên nhập B cung, đương hư có ông chủ (kết phường nghiệp).

3, cung điền trạch hóa phi hóa kỵ nhập cung tử nữ, không thích hợp làm lão bản.

Cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung Quan lộc, nên đi làm.

Thất, giảm biên chế:

1, cung Quan lộc cung Nô bộc hóa phi hóa kỵ nhập cung mệnh, cung thiên di, cung phu thê, giảm biên chế.

Cung Quan lộc cung Nô bộc hóa lộc, hóa quyền, hóa khoa nhập cung tật ách, giảm biên chế, tài không được ta.

2, giảm biên chế khán cung tử nữ (cung Quan lộc cung Nô bộc).

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung mệnh, cung tật ách, cung Quan lộc, bị giảm biên chế.

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung Nô bộc, giảm biên chế.

A cung hóa kỵ xung nữ cung, tương A cung người tài rơi.

Bát, nước ngoài mậu dịch:

1, nước ngoài mậu dịch dĩ cung thiên di cung Quan lộc (tức cung phu thê) là việc chính:

Cung phu thê hóa kỵ xung cung thiên di, nước ngoài mậu dịch không thuận.

Cung phu thê hóa phi hóa lộc nhập cung mệnh, nước ngoài đơn đặt hàng đa, sự nghiệp thuận lợi.

2, nước ngoài mậu dịch đơn đặt hàng khán cung thiên di cung điền trạch (tức cung tử nữ) là việc chính:

Cung tử nữ hóa kỵ xung cung thiên di, không có đơn đặt hàng.

3, làm nước ngoài mậu dịch:

Cung Quan lộc can cung là giáp, đinh, kỷ can mà lại dịch mã tinh nhập cung Quan lộc.

Cung Quan lộc ở tị cung, dịch mã tinh nhập cung Quan lộc.

Cửu, cung Quan lộc vận dụng (công ty vận chuyển buôn bán cát hung):

Dĩ cung Quan lộc là cung mệnh thì, có thể đem còn lại các cung loại hóa thành tả liệt của các loại cung vị cho rằng công ty luận mệnh của căn cơ:

Cung tài bạch cung Quan lộc: Khán công ty đi làm trạng thái.

Cung tài bạch hóa quyền xung cung Nô bộc, không để ý tới thủ trưởng.

Cung tài bạch hóa phi hóa kỵ nhập cung Quan lộc, công ty tương tiền thu hồi lại, không chịu cầm đầu tư.

Cung tài bạch, cung Quan lộc cung điền trạch hung, mặt ngoài không sai, thật là kẻ buôn nước bọt công ty.

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung mệnh, cái gì cũng không bằng ý,

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung tài bạch, Tiền thiếu, đi làm không như ý.

Cung Quan lộc cung điền trạch hóa kỵ xung cung Quan lộc, vận khí bất hảo, đi làm không như ý.

Cung Quan lộc hóa phi hóa kỵ nhập cung tật ách (tức cung Quan lộc cung điền trạch) đi làm địa phương khuy tiền, chủ đóng cửa.

Cung Quan lộc cung Quan lộc: Khán sự nghiệp doanh nghiệp trạng thái: Cung tài bạch hóa kỵ xung cung mệnh, lỗ vốn.

Cung Quan lộc cung tài bạch: Sự nghiệp tài chính. Cung mệnh hóa kỵ xung cung Quan lộc, tài chính thiếu.

Cung Quan lộc huynh đệ cung: Khán công nhân.

Cung điền trạch cái nhìn:

Nhất, cấu phòng:

1, đại hạn hóa kỵ xung cung mệnh, đến đây hạn không có khả năng mãi phòng ở, cho dù mãi cũng hội bán đi.

2, cấu phòng khán lộc (muốn mua, tiền khả năng thiếu), quyền, khoa (nhưng yêu cầu chỉnh lý thành thư thích, không muốn mua nữa).

Hóa quyền nhập bản mệnh tam phương, cấu trọng đại phòng ở.

Hóa quyền nhập đại hạn tam phương, cấu nhỏ lại phòng ở.

3, đại hạn hóa quyền nhập cung tật ách, có mua phòng của khả năng, lưu tài hóa kỵ xung lưu điền, đến đây năm cấu phòng phải không.

4, bổn điền hóa phi hóa lộc nhập cung tử nữ, suốt đời có ít nhất tam, tứ gian phòng tử.

Huynh đệ cung tự hóa kỵ, phòng cho thuê tử chiếm đa số.

Huynh đệ cung của tứ hóa tam cát nhập cung mệnh, cung thiên di, mua phòng.

5, cung mệnh hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, muốn mua phòng ở.

Lưu niên cung tài bạch hóa lộc hoặc hóa phi hóa kỵ nhập cung điền trạch, muốn mua phòng ở.

6, cung điền trạch hóa phi hóa lộc nhập cung phụ mẫu, đây là bản thân cả đời của phòng ở.

7, cung tài bạch hóa phi hóa lộc nhập đại hạn (bổn điền) có thể mãi phòng địa sản, đại hạn tự hóa kỵ ra, phòng ở không giữ được; năm sinh hóa quyền nhập đại hạn (hóa quyền là hóa lộc hơn khí), mãi phòng ở hội kiếm tiền.

8, cánh đồng của quan hóa khoa nhập bổn điền, mãi phòng ở, đại hạn nhập bổn điền, bổn điền tự hóa kỵ ra, mãi phòng ở vừa bán tố phòng địa sản sinh ý tốt.

9, lưu tài hóa khoa nhập bổn điền, lưu tài hóa quyền nhập lưu điền, mãi phòng ở.

10, cánh đồng hóa phi hóa lộc nhập thiên mệnh (cũng bổn điền), mãi phòng ở hội kiếm tiền.

Cánh đồng cung Quan lộc hóa phi hóa lộc nhập bổn điền (điệt thiên mệnh), hội mãi giác đại phòng ở.

Tử vi chỉ bí

Tử vi chỉ bí tử vi chỉ bí khẩu quyết (một trong) tử vi nhất thuật chính xác mệnh lý, mười hai cung trung bố quần tinh. Phán định hưu cữu phúc họa chiếu, yêu ghét phân rõ yêu cầu kỳ tinh. Năm can định ra âm dương tính, sau đó khởi xuất thân cung mệnh. Cung mệnh định ra mười hai cung, vô luận âm dương nhận đi ngược chiều. Đón định ra thiên thương khiến cho, mười hai cung can phi mùa màng. Âm dương nam nữ khởi đại hạn, nam thuận nữ nghịch tiểu đi đầu. Tử vi ngôi sao cư nhật đi, dưới đây khởi ra tử vi hệ. Cơ dương khúc cùng sao Liêm trinh, Thiên phủ quay chung quanh tử vi đi. Thiên phủ tinh hệ thuyết phân minh, âm lang môn lương giết quân tương. Căn cứ bản thân cùng hắn cung, miếu vượng địa lợi và rảnh rang rơi. Đón khởi sang tháng hệ tinh, cửu loại tinh thần phải nhớ thanh. Đón khởi ra thì hệ chư, vận dụng nhị hợp có thể tiệp kính. Mười bốn khỏa tinh phải nhớ thanh, căn cứ năm làm lên tứ hóa. Lại muốn khởi ra năm chư tinh, căn cứ thuận nghịch ngũ hành cục. Khởi ra mười hai trường sanh quyết, tuần khoảng không nhật hệ đón khởi. Thuận thuận nghịch nghịch bất khả loạn, mệnh bàn đến tận đây bài mãn tinh. Nhớ kỹ tinh tình là được đoạn, tinh tình tiên muốn đẩy tính tình. Tứ xây hóa khoa bất khả khinh, cung vị nhất định phải phân rõ. Theo tuần hoàn hoàn vận trình đi, mấy lần cung biến tinh vận thay đổi. Ăn khớp trực giác tư duy bình, cung tinh tứ hóa vận thiên nhân. Mười hai tĩnh cung và động cung, hình thành 1 4 4 cung hình. Càng rõ ràng hơn đây là thể, sử dụng cung vô số hằng hà. Cung và cung hình 4 điều tuyến, lục tuyến vẽ ra nhân sinh tình. Vì thì vật khởi bàn pháp, mệnh bàn vô hạn thuyết hữu tình. Tử vi chỉ bí khẩu quyết hiện viết đáo giá, để đại gia tốt hơn lý giải, hiện nêu ví dụ như sau: Nào đó nữ 1984 năm 6 nguyệt 14 nhật giờ Mùi làm thí dụ, nói rõ bài bàn phương pháp và thứ tự. 1, căn cứ sinh nguyệt ở tháng sáu, sinh thì là giờ Mùi, nhất định kỳ cung mệnh ở tử, thân cung ở dần 2, căn cứ cung mệnh ở tử, có huynh đệ là hợi, phu thê là tuất, tử nữ là dậu, tài bạch là thân, tật ách là vị, thiên di là ngọ, nô bộc là tị, quan lộc là thần, điền trạch là mão, lộc đức là dần, phụ mẫu là xấu. 3, căn cứ sống ở một giáp năm, kỳ Thiên can là giáp, có cái khác các cung Thiên can, dần bính, mão đinh, thần mậu, tị kỷ, ngọ canh, vị tân, thân nhâm, dậu quý, tuất giáp, hợi ất, tử bính, xấu đinh. 4, căn cứ sinh thì năm can là giáp, cung mệnh ở tử, có thứ năm hành cục là thủy cục. 5, căn cứ sinh nhật là nông lịch 14 nhật, ngũ hành cục là thủy, cũng biết tử vi tinh ở thân. 6, căn cứ tử vi tinh ở thân, tử vi tinh hệ cái khác chư tinh vị đưa chia ra làm, thiên cơ ở vị, thái dương ở tị, vũ khúc ở thần, thiên đồng ở mão, liêm trinh ở tử. 7, căn cứ tử vi ở thân, có Thiên phủ ở thân 8, căn cứ Thiên phủ tinh ở thân, có Thiên phủ tinh hệ vị trí chia ra làm: Thái Âm là dậu, tham lang là tuất, cự môn là hợi, thiên tướng là tử, thiên lương là xấu, thất sát là dần, phá quân là ngọ. 9, căn cứ sinh thì chi vị và năm sinh cái giá, có văn xương ở mão, văn khúc ở hợi, Hỏa Tinh ở dậu, linh tinh ở tị, Địa kiếp ở ngọ, địa khoảng không ở thần, thai phụ ở xấu, phong cáo ở dậu. 10, căn cứ sinh nguyệt là nông lịch 6 nguyệt, có nguyệt tinh hệ vị trí là: Tả phụ là dậu, bên phải bật là tị, thiên hình là dần, thiên diêu là ngọ, thiên mã là tị, mổ thần là tử, thiên vu là thân, thiên nguyệt là mão, âm sát là thần. 11, căn cứ sinh nhật là 14, từ tả phụ vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, thuận số đáo sinh nhật 14, tức được ba máy ở tuất. Từ bên phải bật vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, nghịch đếm tới sinh nhật 14, tức được bát tọa ở thần. Theo văn xương vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, thuận số đáo sinh nhật 14, lui về sau nữa một tức được dạ quang ở mão. Theo văn khúc vị trí chỗ ở lúc đầu nhất, nghịch đếm tới sinh nhật 14, lui về sau nữa một, dạ quang ở hợi. 12, căn cứ năm sinh can giáp có thể xác định: Lộc tồn tại dần, giơ cao dương ở mão, đà la ở xấu, thiên khôi ở xấu, thiên việt ở vị, hóa lộc và liêm trinh đồng vị, hóa quyền và phá quân đồng vị, hóa khoa và vũ khúc đồng vị, hóa kỵ và thái dương đồng vị, thiên quan ở vị, thiên phúc ở dậu. 13, căn cứ năm sinh chi là tử, có năm chi tinh hệ vị trí là: Thiên khốc là ngọ, thiên hư là ngọ, long trì là thần, phượng các là tuất, hồng loan là mão, thiên hỉ là dậu, cô thần là dần, quả túc là tuất, triết liêm là thân, phá nát là tị, thiên tài ở cung mệnh, thiên thọ ở dần. 14, căn cứ ngũ hành cục là thủy cục, giáp năm sinh nữ là dương nữ, có mười hai bài vị đưa là: Trường sinh là thân, tắm rửa là vị, quan đái là ngọ, lâm quan là tị, đế vượng là thần, suy là mão, bệnh là dần, tử là xấu, mộ là tử, tuyệt là hợi, thai là tuất, nuôi là dậu. 15, một giáp năm sinh ra là dương nữ, lộc tồn tại dần, có, bác sĩ ở dần, lực sĩ ở xấu, thanh long ở tử, tiểu hao tổn ở hợi, chiếu tướng ở tuất, tấu thư ở dậu, phi liêm ở thân, hỉ thần ở vị, bệnh phù ở ngọ, đại hao tổn ở tị, phục binh ở thần, quan phù ở mão. 16, căn cứ cung mệnh ở tử, có thiên thương ở tị, thiên sứ ở vị 17 căn cứ năm sinh can giáp chặn khoảng không là thân. 18, căn cứ năm sinh can giáp, địa chi là tử, khoảng không vong ở tuất hợi. 19, cung mệnh ở tử mệnh chủ là tham lang tinh. 20, năm sinh chi là tử thân chủ là hỏa tinh. 21, căn cứ thủy nhị cục, dương nữ, đại hạn chỗ cung lần lượt là: Cung mệnh 2–11, huynh đệ 12–21, phu thê 22–31, tử nữ 32–41, tài bạch 42–51, tật ách 52–61, thiên di 62–71, nô bộc 72–81, quan lộc 82–91, điền trạch 92–101, lộc đức 102–111, phụ mẫu 112—121. 21, căn cứ năm sinh chi là tử, có tuổi vận là tử, xui là xấu, Tang Môn là dần, quán tác là mão, quan phù là thần, tiểu hao tổn là tị, đại hao tổn là ngọ, long đức là vị, bạch hổ là thân, thiên đức là dậu, người đi viếng là tuất, bệnh phù là hợi. 22, căn cứ năm sinh chi là tử, có đeo sao là tử, phàn an là xấu, tuổi bảo là dần, hơi thở thần là mão, mui xe là thần, cướp sát là tị, tai sát là ngọ, Thiên Sát là vị, chỉ bối là thân, Hàm trì là dậu, nguyệt sát là tuất, vong thần là hợi. 22, căn cứ sanh ở tháng sáu, canh giờ ở vị, có năm đấu quân vị là dần. Nô bộc kỷ đại dương bên phải bật linh tinh thiên mã phá nát hóa kỵ đại hao tổn lâm quan thiên di canh phá quân Địa kiếp thiên nghiêu bát tọa hóa quyền thiên khốc thiên tọa bệnh phù quan đái tật ách tân thiên cơ thiên việt thiên quan tắm rửa tài bạch nhâm tử vi Thiên phủ triết liêm phi liêm hỉ thần trường sinh quan lộc mậu vũ khúc địa khoảng không âm sát hóa khoa long trì đế phục binh vượng năm đấu quân vị là dần, thiên thương ở tị, thiên sứ ở vị cung mệnh ở tử, thân cung ở dần khoảng không vong ở tuất hợi tử nữ quý Thái Âm tả phụ Hỏa Tinh phong cáo thiên phúc thiên hỉ tấu thư nuôi điền trạch đinh thiên đồng văn xương thiên nguyệt giơ cao dương hồng loan dạ quang quan phù suy Tôn mỗ dương nữ mệnh bàn một giáp năm tân vị nguyệt Đinh Mùi nhật Đinh Mùi thì ngũ hành cục là thủy nhị cục chặn khoảng không là thân phu thê giáp tham lang tam hợp phượng các cô tướng già quân thai lộc đức bính thất sát thiên hình lộc tồn bác sĩ bệnh phụ mẫu đinh thiên lương thai phụ đà la thiên khôi lực sĩ tử cung mệnh bính liêm trinh thiên tướng mổ quyền hóa quyền thiên tài thanh long mộ huynh đệ ất cự môn văn khúc thiên đắt tiểu hao tổn tuyệt căn cứ trở lên mệnh bàn có thể xong như sau tin tức: 1, cung mệnh tin tức. Liêm trinh nhập cung mệnh người của hình dáng tướng mạo có vẻ tinh thần mà có tính cách, chiều cao 31 tuổi hậu thể tráng, lông mi thưa thớt hoặc tủng kiên, xương cung mày long cực kỳ, cá tính bay bổng, ngoan cố hiếu thắng tùy hứng, thông minh tự phụ, giữ tại trứ mãnh liệt phản kháng, trả thù tính cường, không câu nệ tiểu tiết, nhanh mồm nhanh miệng, hoàn toàn không tô son trát phấn tình cảm của mình, có lúc dễ xung động, có hấp dẫn, thân cận khác giới khí chất. Nên làm và khác giới tiếp xúc chức nghiệp, như nhân viên công vụ, nghệ phẩm thương chờ, không thích hợp chính trị. Nghi cư ở tương đối phức tạp hoàn cảnh, như cư nhà trọ nghi cư trung tầng bất khả rất cao, vừa nghi cư hành lang gấp khúc mà không có thể đến gần cửa thang lầu hoặc lâu miệng thông đạo. Ở vào tử thủy cung, nhân tài cách. 2, huynh đệ cung tin tức. Bằng hữu không ít, thế nhưng tri kỷ không nhiều lắm, năng lực rất tốt xử lý quan hệ, tình cảm hòa hợp, có thể hỗ bang hỗ trợ. Thế nhưng bằng hữu phần nhiều là ái càu nhàu người của. 3, cung phu thê tin tức. Tham lang tinh nhập cung phu thê. Có ly hôn dấu hiệu. Nếu trước khi cưới có từ hôn chuyện phát sinh, có thể mổ đến đây ách. Nhưng không thể tránh né sẽ có một ít khuyết điểm: Tính, tinh thần không mục chờ hiện tượng mà dồn gặp ở ngoài. 4, cung tử nữ tin tức. Có quý tử nữ. 5, cung tài bạch tin tức. Cây chùm ớt Thiên phủ vào cung, tài vận thuận thông, giàu có, chung thân bảo thủ. 6, cung tật ách tin tức. Còn nhỏ tã lót đa tai, biểu thị chính là ngươi sau khi sinh trong vòng ba năm thể chất hết sức yếu ớt, thế nhưng sau khi lớn lên hội từ từ chuyển biến tốt đẹp. Dễ mắc bệnh bao tử. Can đảm có hàn. 7, cung thiên di tin tức. Phá quân và hóa quyền cùng cung, bất năng ở bản địa phát triển. Ở đất khách có thể thu được bãi đất vị, có thể phát đạt. Thế nhưng sẽ có một ít phiền não. 8, nô dịch cung tin tức. Có thể thu được đắc lực của thuộc hạ hoặc bằng hữu của hiệp trợ. 9, cung Quan lộc tin tức. Có văn chức mà lại có thể phát tài. 10, cung điền trạch tin tức. Có thể thủ tổ nghiệp, canh có thể tự đưa sản nghiệp. Tiên ít hậu đa, bất động sản hội dần dần gia đa. 11, cung phúc đức tin tức. Thất sát vào cung mà lại nhập miếu có thể hưởng thanh phúc. Suốt đời có phúc đại, năng lực vui vẻ qua sinh hoạt. 12, cung phụ mẫu tin tức. Thiên lương vào cung mà lại cư vượng địa, phụ mẫu thọ trường, phụ mẫu hoạt bát kiện khang có trách nhiệm tâm, tâm địa thiện lương người. Tổng quan toàn bộ: Cai nhiều người bán có đặc thù kiến giải, nhân sinh quan có khác một phen triết học, đa số một đại tông sư. Suốt đời tiền tài không thiếu, quản lý tài sản năng lực giai, thế nhưng có keo kiệt keo kiệt khuynh hướng. Tinh thần dễ trống rỗng, buồn khổ. Tảo hôn bất lợi, nên kết hôn muộn. Cả đời phúc hậu. Suốt đời có nhiều quý nhân tương trợ, thông minh có tài năng. Mới quen cho người cảm giác rất lạnh mạc, nhưng thật ra là một nhiệt tâm nhân, nếu như người khác muốn cầu cạnh chính, hội toàn lực tương trợ. Thế nhưng có lúc hội rơi vào bị phiến cục diện, ngắm có thể có thể thận trọng giao hữu, đối với hắn người sở cầu phải có sở phân biệt đối đãi. Hôn nhân phương diện hẳn là đa số đối phương lo lắng, bất khả khư khư cố chấp, bởi vì ở cai số mạng của người trung, duy nhất không như ý đó là đến đây điều. Hôn nhân là một nữ nhân lần thứ hai sinh mệnh, dĩ nhiên ở hiện nay xã hội nữ quyền phổ biến, nữ nhân ỷ lại tính hội ít một ít, thế nhưng hôn nhân dù sao cũng là một đại sự. Tòng mệnh bàn đến xem, cũng có một ít hóa giải phương pháp, thí dụ như: Có thể kết hôn muộn, tận lực tìm một cầm tinh, bát tự cùng mình xứng đôi, còn có thể lành nghề vận thì đoạn lý đi tìm. Vợ vóc dáng ở 1 mễ 76 tả hữu. Hay nhất ở trước khi cưới tìm một vị đại đức cao nhân là hôn nhân của mình làm một một toàn diện bày ra. Ghi nhớ kỹ không nên tùy tùy tiện tiện đối đãi hôn nhân của mình. Cũng không cần quá phận tin tưởng có chút hoa ngôn xảo ngữ đồ. Như vậy, lại vừa được giai ngẫu. Phụ mẫu tình cảm tương hài, đáng tiếc mẫu thân nhân vị trí có xung, bản thân nghèo nàn, hẳn là ở thận trải qua và phế mạch. Mỗi phùng dương năm và thử năm, thân thể sẽ xuất hiện như vậy tâm bệnh. Cai người thận cũng sẽ có tâm bệnh, đồng thời đầu có nghiêng đầu tính đau đầu. Thế nhưng tử vi có lợi, bất trí trở ngại. Bài vở và bài tập phương diện ở cao trung trước đây chỉ là thường thường mà thôi, bởi vì hứng thú rộng khắp, ham chơi mà dồn, sơ trung vưu quá mức, cao trung cũng không nhẹ. Tiến nhập đại học cửa trường, mới bắt đầu liễu mình chân chính văn xương cuộc hành trình. Học tập ngôn ngữ thiên phú rất cao, có khá cao nghị lực và bền lòng. Bởi vì văn xương và nguyên nhân sẽ tới rời nhà rất xa đất khách đi công tác sinh hoạt, mà cai nhân vừa vặn là ở đất khách mới có thể có quá phát triển. Suốt đời hội làm văn hóa phương diện sự nghiệp. Sống ở lớp giữa thiên vượng nhà, lợi văn đồ, có táo liệt của tính và thiện đạo của tính kiêm hữu tính chất đặc biệt, tâm tính thông minh, tài sáng tạo mẫn tiệp, kiến giải siêu quần, nhưng mình bảo hộ ý thức so sánh cường, xử thế có bo bo giữ mình khuynh hướng, sở dĩ dễ bỏ qua rất nhiều cơ hội tốt. Mong muốn cai nhân không nên bảo thủ, hẳn là lớn mật ta. Giải quyết nhức đầu biện pháp là xuân đông mặc ít hắc sắc và màu xanh nhạt y phục, đa mặc tiên diễm y phục. Giải quyết tính khí và phụ khoa bệnh phương pháp là ăn ít heo thịt dê, ít cân thuộc dương người của giao tiếp. Mũi viêm và hô hấp khí quản phương án trị liệu là nên cung phụng Quan Thế Âm đại sĩ, có lẽ đa khứ nghiên cứu phật giáo kinh điển, bớt nói, ít cùng nhân tranh cường, bởi vì trúng mục tiêu phúc báo nhiều hơn, không cần phải … Và nhân khứ tranh cái gì. Suốt đời không thiếu tiền, quý nhân trọng trọng. Bởi vậy hội mất đi phấn đấu chí khí, từng có phân ỷ lại khuynh hướng. Sở dĩ không nên tiêu tiền như nước, yếu cần kiệm làm gốc, quý trọng phúc báo. Bài vở và bài tập ở 2007, 2008 năm là thời cơ tốt nhất, hẳn là nắm kỳ ngộ, nỗ lực thi đậu các loại giấy chứng nhận, tham gia các loại cuộc thi, thiết mạc bỏ qua cơ hội tốt. Bảo thủ mà không liều lĩnh tính cách hẳn là nhiều hơn cải tiến, có thể đa kết giao ta hướng ngoại hình tính cách bằng hữu, giường ngủ vị trí tốt nhất lần lượt là: Đông, đông nam, tây bắc. Cái khác phương hướng sẽ ảnh hưởng vận khí mà lại giấc ngủ không tốt. 2006 năm vận khí giống nhau, tương đối luy, hội nhận thức một ít đối với mình có trợ giúp rất lớn người của. Tương đối thích hợp giao hữu. 2007, 2008 năm văn vận thật tốt, bản thân khỏe mạnh, vận khí không tệ, thế nhưng giao hữu hẳn là thận trọng. Học tập tương đối buông lỏng thành tích tốt. 2009 năm đầu nhập khá nhiều, tiền tương đối khẩn trương, phòng phiến 6 nguyệt vưu quá mức. 2010, 2011 năm đi vận vượng địa, đến đây hai năm sẽ có người truy cầu, có hồng loan niềm vui, theo đuổi nhân khá nhiều, ngắm thận trọng tuyển trạch, thiết mạc vội vội vàng vàng. Hẳn là mời cao nhân đại đức bày ra, bất khả tự chủ trương. Hẳn là đa nghe ý kiến của người khác. 2012 họp hằng năm kết hôn, công tác khởi sắc rất lớn, có vận làm quan và viễn phó tha hương đất khách của giống. 2013 năm công tác sinh hoạt mệt chết đi, là người sanh một cơn sóng nhỏ kỳ, muốn học hội điều tiết thân thể của chính mình. Đến đây họp hằng năm có phật giáo tín ngưỡng khuynh hướng, đi tìm cuộc sống chân lý. 2014 năm tiến nhập tài hương, thu nhập rất cao, pha phong. 2015 năm tình cảm xuất hiện nguy cơ, phải nhiều khứ quan tâm che chở vợ. Bằng không khó thoát đến đây ách. Phế, nhánh khí quản gặp phải tâm bệnh, đường tắt duy nhất hay nghiên cứu phật giáo kinh điển, không còn lương đồ. Kết luận tổng bí quyết: Suốt đời giàu có không thiếu tiền, văn xương vào đầu văn vận vượng. Thái độ làm người thông minh tính hồn nhiên, bản thân có bệnh nhẹ vô đại phương. Nơi ở rộng mở vừa sáng sủa, không vì nơi ở khứ hốt hoảng. Hôn nhân ngàn vạn lần phải thương lượng, bằng không nhất định có tai ương. Chỉ vì tham lang vào cung, thiết mạc đi một mình nổi cơn điên. Chớ nói nhân sinh tri kỷ ít, chỉ vì đề phòng vừa đề phòng. Đối với người một mảnh thẳng thắn thành khẩn tâm, thay đổi quay về nhất định chân thành ý. Phụ mẫu hài hòa như cá nước, che chở quan tâm cực kỳ gấp trăm lần. Độc lập ý thức tương đối mạnh, đi xa tha hương bả danh dương. Chú ý thân thể phế khí quản, đa diễn kinh Phật nhất định cường. Đoạn đến đây thì là thu tràng, tỉ mỉ xem khán đoan trang. Kết luận tống người ta tác tham khảo, chúc người ta tiền đồ vượng vừa vượng.

Cũ thiếp tân phát ( chuyển ) đấu sổ ứng với có thể ra ở phụ cận hoàn cảnh

Đấu sổ ở hoàn cảnh thảo luận

:==> ở ” khốn hoặc nhân ” văn chương trung nhắc tới:

: Các vị mọi người khỏe:

: Ta nghĩ thỉnh giáo các vị, đấu sổ ứng với có thể ra ở phụ cận hoàn cảnh

: Xác nhận tham khảo này cung vị ni ?

: Ví dụ như ở phụ cận có bót cảnh sát hoặc quân sự địa các loại

: Có thể sẽ có này tinh diệu tổ hợp xuất hiện ni?

: Có hay không là Tiên Thiên điền trạch có liêm trinh + tả phụ các loại ni ?

: Tay mới đặt câu hỏi xin nhiều chỉ giáo!

Đấu sổ bởi vì có 12 nhân sự cung vị, nếu dĩ đấu sổ đến xem ‘Ở phụ cận hoàn cảnh’, hẳn là dĩ cai năm thiên nhập tiểu hạn cung mệnh và cung điền trạch tương lai làm ‘Thái cực điểm’ .

Bởi vì thời không chuyển hoán, sở dĩ nhiều ít phải có một ít ‘Phương vị’ thân thể nhận thức. Tỷ như tiểu hạn đi tới tị cung, vừa vặn cai năm dọn nhà, lại dùng la bàn (có lẽ kim chỉ nam) định bước phát triển mới gia của tọa hướng. Nhìn nữa tiểu hạn của cung điền trạch là’ ở phụ cận hoàn cảnh’ của lập cực điểm, gia dĩ cẩn thận tỉ mỉ quan sát trái phải trước sau của kiến trúc phòng, giống nhau thượng có thể công tác thống kê, quy nạp mà loại hóa thành ‘Nguyên tắc’, là đó có thể thấy được một ít đại khái.

Tinh diệu của tổ hợp mà hóa thành cái gì kiến trúc phòng, còn muốn tham khảo địa phương khu vực quốc gia của bất đồng, tỷ như, tân mã một đời, tới gần xích đạo, thuộc về nhiệt đới địa phương, giống nhau liêm trinh gia con quay có lẽ Hỏa Tinh các loại đó có thể thấy được phụ cận có cây dừa cây, thế nhưng ở Đài Loan, có thể sẽ là cây cau các loại thực vật.

Thái dương gia cự môn, trong nhà có mua tủ lạnh có lẽ tuyết quỹ, thế nhưng ở Phi Châu hoặc thế giới thứ ba lạc hậu quốc gia, rất khả năng chỉ là một phóng thức ăn ngăn tủ mà thôi. .

Cái khác như giơ cao dương đại diện đường sắt, Thái Âm là y viện, thiên đồng là nhi đồng sân chơi, thiên diêu là gió nguyệt nơi chờ, đều là một ít quá trình cá nhân nghiên cứu đấu sổ chi tâm được, không nhất định 100% chuẩn xác, thế nhưng có thể tham khảo của.

Đấu sổ bởi vì có 12 nhân sự cung vị, nếu dĩ đấu sổ đến xem ‘Ở phụ cận hoàn cảnh’, hẳn là dĩ cai năm thiên nhập tiểu hạn cung mệnh và cung điền trạch tương lai làm ‘Thái cực điểm’ .

: Bởi vì thời không chuyển hoán, sở dĩ nhiều ít phải có một ít ‘Phương vị’ thân thể nhận thức. Tỷ như tiểu hạn đi tới tị cung, vừa vặn cai năm dọn nhà, lại dùng la bàn (có lẽ kim chỉ nam) định bước phát triển mới gia của tọa hướng. Nhìn nữa tiểu hạn của cung điền trạch là’ ở phụ cận hoàn cảnh’ của lập cực điểm, gia dĩ cẩn thận tỉ mỉ quan sát trái phải trước sau của kiến trúc phòng, giống nhau thượng có thể công tác thống kê, quy nạp mà loại hóa thành ‘Nguyên tắc’, là đó có thể thấy được một ít đại khái.

: Tinh diệu của tổ hợp mà hóa thành cái gì kiến trúc phòng, còn muốn tham khảo địa phương khu vực quốc gia của bất đồng, tỷ như, tân mã một đời, tới gần xích đạo, thuộc về nhiệt đới địa phương, giống nhau liêm trinh gia con quay có lẽ Hỏa Tinh các loại đó có thể thấy được phụ cận có cây dừa cây, thế nhưng ở Đài Loan, có thể sẽ là cây cau các loại thực vật.

: Thái dương gia cự môn, trong nhà có mua tủ lạnh có lẽ tuyết quỹ, thế nhưng ở Phi Châu hoặc thế giới thứ ba lạc hậu quốc gia, rất khả năng chỉ là một phóng thức ăn ngăn tủ mà thôi. .

: Cái khác như giơ cao dương đại diện đường sắt, Thái Âm là y viện, thiên đồng là nhi đồng sân chơi, thiên diêu là gió nguyệt nơi chờ, đều là một ít quá trình cá nhân nghiên cứu đấu sổ chi tâm được, không nhất định 100% chuẩn xác, thế nhưng có thể tham khảo của.

Thần sát tìm tòi nghiên cứu (tác giả trần kiếm)

Ở Trung Hoa Trung Quốc cổ đại, mọi người đang dùng Âm Dương Ngũ Hành học thuyết quản lý chung Vạn Tượng thể nghiệm trung, thần sát chiếm không nhỏ tỉ trọng. Thần sát cũng có Âm Dương Ngũ Hành của tính, nhưng nó không theo ngũ hành sinh khắc nên kỵ phân tích, cứng nhắc quy định ý tứ hàm xúc tương đối nồng hậu, phương pháp dễ hiểu, giản đơn, theo tử bình bát tự học thuật không ngừng truyền lưu, đại đa số mệnh lý học giả cũng không tán thành chỉ dụng thần sát lai kết luận người cát hung họa phúc, phú quý nghèo hèn, đời Thanh mệnh lý học giả trần làm am ở 《 mệnh lý lời hẹn 》 trung thuyết: “Con người mệnh cát hung, đều do cách cục vận khí, an có thể trùng hợp ngẫu nhiên thần sát mà tín của?” 《 tích thiên tủy 》 thuyết: “Tam kỳ nhị đức hư lời hữu ích, Hàm trì dịch mã bán thôi tường”, mà chú giải 《 tích thiên tủy 》 nhâm thiết tiều cho rằng thần rất là vô căn cứ nói đến, ở thầy tướng số thì một thần sát cũng không sử dụng. Lưu Bá Ôn 《 hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú 》 vân: “Là cố cát hung thần sát nhiều đoan, thế nào sinh khắc chế hóa một trong để ý.”

Thần sát mặc dù thuộc cứng nhắc quy định, nhưng giai không ra sông lạc ngũ hành can chi của để ý, ở đại lục nhâm dự đoán học trung, không có thần sát thiên tinh, quả thực thì không được kỳ vi đại lục nhâm. Đi qua thực tiễn, thần sát chinh nghiệm tính vẫn còn rất cao, cũng không phải là vô tri nói mò, không có thần sát, tử bình mệnh lý sẽ buồn bã thất sắc. 《 tứ nói độc bộ 》 vân: “Thần sát tương bán, nặng nhẹ đấu”, mặc dù bất năng chỉ bằng vào thần sát mà nói định một người vận mạng cát hung làm sao, nhưng thần sát nhưng cứu phải không có thể ít, vận dụng thì mấu chốt là phải “Nặng nhẹ đấu”, luận mệnh thì, lúc này lấy chính ngũ hành của sinh khắc chế hóa thành chủ, thần sát là phụ. Ở bát tự thầy tướng số trung, người phú quý nghèo hèn là do chính ngũ hành phối hợp mà quyết định, mà không phải do thần sát lai quyết định. Bất năng nhân mệnh có cát thần mà kết luận người này phú quý, cũng có năng lực nhân mệnh có hung thần mà kết luận người này nghèo hèn.

Bởi vì thần sát nhiều lắm, ở đây chích giới thiệu một ít tương đối trọng yếu thần sát.

Quý nhân (dĩ nhật can, năm làm lên, dĩ nhật can là việc chính)

Giáp mậu canh dê bò, ất kỷ thử hầu hương, bính đinh heo kê vị, nhâm quý thỏ xà giấu, lục tân phùng qua loa, đến đây là quý nhân phương.

1, quý nhân hay đối với mình có trợ giúp lớn người của, trúng mục tiêu phùng của còn có thể gặp dữ hóa lành. Quý nhân thuộc về cát thần, cát thì canh cát, hung có thể giảm hung, nếu quý nhân lâm vu bát tự thích dùng địa chi thượng, thì quý nhân tác dụng lớn hơn nữa, lâm vu bát tự đố kỵ chi thượng, quý nhân có thể giảm một điểm hung.

2, quý nhân có đôi khi là chỉ có quyền lực hoặc có tài lực bang trợ người, như xong làm quan, hoặc là kẻ có tiền bang trợ.

3, mệnh phùng quý nhân có thể “Xuất nhập cận đắt”, ý tứ là sẽ cùng làm quan hoặc kẻ có tiền giao tiếp thời gian đa.

4, bát tự có quý nhân hầu như tùy thời tùy chỗ đô hội xong người khác bang trợ, mà những người này cũng không nhất định mỗi người đều có quyền hoặc có tiền, có chút có thể là chính từ không nhận biết nhân.

5, thiên ất quý nhân có “Quang vinh”, “Hiển” ý tứ hàm xúc ở bên trong, nếu như bát tự ngũ hành phối hợp thuộc phú quý của mệnh, vừa đái quý nhân nói, như vậy loại này “Quang vinh lộ vẻ hảo”, tựu biểu hiện càng xông ra.

6, nếu như đại vận hoặc là lưu niên gặp phải quý nhân nói (như nhật can là giáp, đại vận ở xấu, vị hoặc lưu niên địa chi là xấu, vị), xưng trứ “Đi vận gặp phải quý nhân”, biểu thị giá bộ vận hoặc một năm này phải nhận được người bang trợ, làm việc tương đối thuận lợi, mặt ngoài thoạt nhìn rất khó làm sự có lúc cũng sẽ giải quyết dễ dàng, cho dù phát sinh có chuyện xảy ra cũng sẽ có nhân nhiệt tình tương trợ. Đương nhiên, nếu như bước này vận hoặc một năm này bản thân ngũ hành bất lợi cho bát tự, thuộc về kém vận nói, gặp quý nhân cũng chỉ là có người hỗ trợ mà thôi, cũng không thể căn bản cải biến kém vận.

7, nếu như một bát tự bản thân là thuộc về một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự nói, cho dù có quý nhân cát thần, cũng vẫn là một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự, tuy có quý nhân cũng không có thể khiến cho chính suốt đời trở nên phú quý đứng lên, thuận lợi đứng lên.

8, một nữ nhân bát tự trung, nếu như thiên ất quý nhân có hai hoặc hai đã ngoài, liền bất năng cho rằng là điềm lành, trái lại khả năng có dâm loạn của ngại, nhất định là thuộc về xã giao hình nữ nhân, xã giao nhiều lắm, vừa khuyết thiếu trinh tiết quan niệm, chu toàn vu đông đảo nam nhân trung gian, thậm chí tùy thời cùng giải quyết nam nhân trên giường. Thơ viết: Một tòa quý nhân cho thỏa đáng mệnh, hai tòa quý nhân tâm bất định, ba tòa quý nhân định làm xướng, lúc tuổi già hoặc tác hào gia chính.

9, nếu như người lớn tuổi đại vận và lưu niên đi quý nhân (hoặc đồng thời đi quý nhân), có thể sẽ là tử vong hiện ra, chủ mai táng của lễ.

10, nhật đắt cách: Đinh dậu, Đinh Hợi, quý tị, quý mão nhật sinh ra người, nhật trụ địa chi là quý nhân, nhật chi là cung phu thê, biểu phối ngẫu là của mình quý nhân. Nam tử khả năng xong mỹ thê, có thê trợ giúp, nữ tử có thể giá đắt phu, có phu trợ giúp. Nhật chi tự tọa quý nhân người, bề ngoài đầy mặt thanh tú anh tuấn, thông minh hơn nữa tương đối nhã nhặn, thái độ làm người thẳng thắn, trong bụng một nhiều như vậy cong cong quải quải, có nhân đức, thái độ làm người khiêm tốn. Đến đây cách đại phạ nhật chi tao hình phá tan hại, thì cát trung có hung, không vì toàn bộ mỹ. Vừa phân ban ngày đắt dạ đắt, Đinh Hợi, quý tị nhật hỉ ban ngày sinh ra, đinh dậu, quý mão nhật hỉ buổi tối sinh ra.

Như nào đó nữ mệnh, 1977 năm sinh:

Đinh tị Nhật can quý kiến mão tị là quý nhân, bát tự địa chi bốn người tất cả đều là quý nhân, nữ mệnh quý nhân quá nhiều, chủ dâm loạn, cố bản thân là xướng. Đây là một cái tam bồi tiểu thư bát tự.

Ất tị

Quý tị

Ất mão

Như nào đó nam mệnh, 1957 năm sinh:

Đinh dậu Tài đa thân yếu, đinh nhâm hợp mộc vu thu, suốt đời khoảng không mang. Nhật can đinh kiến dậu là quý nhân, bát tự địa chi tuy có ba quý nhân, cũng không có thể khiến cho người này phú quý đứng lên, chích áo cơm không thiếu mà thôi.

Kỷ dậu

Đinh dậu

Nhâm dần

Văn xương (dĩ nhật làm lên)

Giáp xà ất mã báo quân biết, bính mậu thân cung đinh kỷ kê, canh heo tân thử nhâm phùng hổ, quý nhân kiến thỏ bộ thang mây.

1, văn xương chủ nhân thông minh, hành văn hảo, trí nhớ hảo, học đông tây năng lực suy một ra ba, tịnh chủ thanh tú, bề ngoài nhã nhặn, làm cho một loại tao nhã mà khiêm tốn cảm giác.

2, đôi khi, văn xương có thể đưa đến gặp dữ hóa lành tác dụng.

3, bát tự đái văn xương, đa chủ một thân học giỏi, có linh tính, là đọc sách tài liệu.

4, có nhật tọa văn xương người, tức bính thân, mậu thân, đinh dậu, kỷ dậu, nhâm dần, quý mão mấy ngày nay sinh ra, tự tọa văn xương, từ nhỏ chính là thiên tài nhi đồng, lên đại học tỉ lệ cũng khá cao.

5, người bình thường cho rằng, văn xương chủ nhân trình độ văn hóa cao, năng lực thi lên đại học, kỳ thực cũng không nhất định như vậy, rất nhiều tiểu học văn hóa người của bát tự cũng có văn xương. Lại có nhân cho rằng, bát tự văn xương không cần nhiều, chỉ cần một mới tốt, sinh ra bất hảo, nhưng có vài người bát tự có hai người văn xương, cũng là sinh viên. Bởi vậy, văn xương cũng không phải phán đoán một người học lên hay không duy nhất tiêu chuẩn, có người bát tự cũng không văn xương, như nhau năng lực độc bác sĩ.

6, hữu dụng văn xương là: Văn xương sở tọa của chi là thích dùng thần, văn xương phát tài, văn xương bội chính ấn, văn xương phùng lục hợp, những … này và bằng cấp cập hành văn hữu quan.

7, văn xương quả thật thực thần của lộc địa (bính đinh nhật can ngoại trừ), như giáp dĩ bính là thực thần, bính lộc ở tị, cố dĩ tị là văn xương. Nữ mệnh bát tự văn xương không cần nhiều, văn xương sinh ra, tức thực thần sinh ra, trái lại không đẹp, nói không chừng yếu khắc phu.

8, nguyên mệnh bản cát, phùng văn xương có cát càng thêm cát tác dụng, nguyên mệnh bản hung, mặc dù phùng văn xương cũng vô dụng, hoặc tác dụng rất nhỏ.

Đỏ tươi (dĩ nhật làm lên)

Đa tình đa dục ít người biết, lục bính phùng dần tân kiến kê. Quý lâm thân thượng đinh kiến vị, mặt mày rạng rỡ nhạc đùa đùa.

Giáp ất ngọ thân canh kiến tuất, thế gian chỉ là mọi người thê. Mậu kỷ phạ thần nhâm phạ tử, lộc mã tương phùng tác lộ kỹ.

Nhâm là nhà giàu quan lại nữ, hoa tiền dưới ánh trăng cũng thâu kỳ.

1, đỏ tươi chủ nhân phong lưu đa tình, háo sắc, mạng người phạm của, đa số có gặp ở ngoài đào hoa. Nữ mệnh kiến của, khó tránh khỏi tư tình, trước khi cưới thất trinh, nói chuyện luyến ái chỉ sợ cũng yếu ở chung, nếu như địa chi có nhật làm lộc, vừa đái dịch mã, là phóng đãng người, hoặc là kỹ nữ.

2, có tự tọa đỏ tươi người, ngay hôm đó can chi là giáp ngọ, giáp thân, bính dần, Đinh Mùi, mậu thần, canh tuất, tân dậu, nhâm tử, sắc dục quá nặng.

Như nào đó nam mệnh, 1884 năm sinh:

Giáp thân Đây là tam bản năm mươi sáu bát tự, nhật can giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi sát, một thân tất nhiên phong lưu. Vị hôn tiền tựu bình thường ly khai quân doanh khứ phiêu nghệ kỹ, tầm vui mừng mua vui, hôn hậu lại có nhiều tình phụ. 1943 năm sơn bản bị nước Mỹ không quân đánh gục, để lại 16 một bọc giấy, là làm phân cho trong đó 16 một tình phụ vật kỷ niệm.

Đinh Mão

Giáp thân

Canh ngọ

Như nào đó nữ mệnh, 1976 năm sinh:

Bính thần Đây là nhất kỹ nữ bát tự, 16 tuổi đi ra Quảng Đông trên đường cái mại dâm. Giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi, nhật chi dần là lộc, vừa dịch mã, nguyệt chi thân cũng là dịch mã, cổ nhân vân: “Lộc mã tương phùng tác lộ kỹ”, thực sự là kỳ nghiệm như thần.

Bính thân

Giáp ngọ

Bính dần

Kim dư (dĩ nhật làm lên)

Thập can lộc tiền nhị vị, như giáp lộc ở dần, thần là kim dư, ất lộc ở mão, tị là kim dư.

1, kim dư dĩ nhật chi và thì chi đụng với là giai, chủ nhân tính cách ôn hòa, bề ngoài giản dị, có thể được thê tài, kết hôn thì lão bà của hồi môn đa, cũng có lên làm môn con rể khả năng. Mệnh cát, lại có kim dư, đa số có xa giai cấp.

Dịch mã (dĩ nhật chi, năm chi khởi)

Thân tử thần mã ở dần, dần ngọ tuất mã ở thân, tị dậu xấu mã ở hợi, hợi mão vị mã ở tị.

1, dịch mã chủ bôn ba, đi lại, ra ngoài, lữ hành, đi công tác, dọn nhà, chuyển chức chờ và di động có liên quan sự giống, mệnh có có dịch mã, suốt đời đa động.

2, bát tự trung có bao nhiêu một dịch mã, thì chủ tâm ý bất định, đứng núi này trông núi nọ, suốt đời bất an, hối hả ngược xuôi, phiêu bạt vô định, vạn phần vất vả cực nhọc. Thơ vân: Bát tự dịch mã phân cùng bôn ba, thân quang vinh lao lực ở đông tây, thảng có người lòng thanh thản bất định, động thì phong lưu tĩnh thì bi.

3, bát tự trung dịch mã thụ xung, tỷ như thân là dịch mã, lại có dần tự, dần thân tương trùng, suốt đời động được lợi hại nhất. Con cái bát tự có dịch mã phùng xung, khả năng có tiểu nhi đa động chứng. Trải qua vân: Mã hậu gia tiên, triêu hồ bắc mà mộ hồ nam.

4, đại vận hoặc lưu niên đụng phải dịch mã, là “Dịch mã vận”, chủ cai vận hoặc cai tuổi tác nghiệp, hoàn cảnh có điều biến động, hoặc ra ngoài thời gian khá lâu, tỷ như có đi công tác, lữ hành, điều chỉnh hoặc biến hóa công tác chờ sự.

5, nữ mệnh không thích bát tự có dịch mã, lại càng không hỉ dịch mã phùng xung, nếu như có hai hoặc hai trở lên dịch mã, có lẽ dịch mã phùng xung, là không cát hiện ra, suốt đời làm lụng vất vả, xã giao hoạt động đa, tại ngoại bôn ba đa, tâm ý bất định, tịnh mới có thể hồng hạnh ra tường. Nhân nữ nhân thiên chức là giúp chồng dạy con, suốt ngày tại ngoại chạy tới chạy lui, tổng làm cho lo lắng, nói không chừng sẽ tự động đầu đưa đến nhân gia ôm ấp. Thơ vân: Dịch mã đa phùng vô lễ hình, lâm quan đế vượng canh phiền lòng, trụ trung có nữa Hàm trì gặp, như thế giai nhân không nên tầm. Tức là thuyết nữ mệnh bát tự trung có dịch mã, có tử mão tương hình, lại có nhật làm lộc hoặc đế vượng, để ý hơn nữa bát tự đái Hàm trì, thì là dâm xướng của phụ, ngàn vạn lần sờ lấy vợ người tác lão bà, không phải, nón xanh không thể thiếu có một tá.

6, nên chú ý, dịch mã đang nhìn và “Di động” có liên quan sự giống, nhưng nếu chỉ bằng dịch lập tức tới nhìn, có rất nhiều biến động chuyện tình hội coi không ra, có người bát tự cũng không dịch mã, như nhau đa động, sở dĩ bất khả câu nệ vu dịch mã.

7, nam mệnh bát tự dịch mã ngồi ở chính tài lên, như kỷ xấu nhật sinh, bát tự có hợi là dịch mã, cho thấy lão bà chịu khó, tại gia chịu làm sự, lão công tan tầm Về đến nhà đương nhiên có thể khiêu khởi chân đùa giỡn. Đồng thời cũng biểu thị có thể sẽ lấy vợ viễn phương của thê, hoặc thê tử có bôn ba. Trải qua vân: Nếu là tài tinh tọa tứ mã, thê hiền không chỗ không lo lắng.

Nếu như nhật can vượng, bỉ cướp đa, bỉ cướp tọa dịch mã, và huynh đệ tỷ muội các ở nhất phương. Trải qua vân: Thân vượng sánh vai tọa dịch mã, huynh đệ phiêu oành hảo tiêu sái.

8, dịch mã sở lâm của chi là bát tự thích dùng thần, thì thiên động chủ cát, nếu vì bát tự kỵ thần, thì thiên động chủ hung, tuổi vận cùng.

9, khán dịch mã, còn muốn đem dịch mã sở lâm mười sao, nhất tịnh tham thảo, nếu như dịch mã lâm chính quan thất sát, dễ nhân công vụ lên chức việc mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính thiên tài, thì dễ nhân cầu tài mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính ấn, dễ nhân học ở trường việc, mà có thiên động, không phải dọn nhà quay về sổ đa. Còn lại dĩ loại này thôi.

10, cổ nhân vân: Quý nhân dịch mã đa thăng trạc, thường nhân dịch mã đa bôn ba. Ý tức làm quan nhân bát tự đái dịch mã, cho thấy bình thường lên chức, không có tiền không có thế dân chúng bát tự có dịch mã, chích biểu thị hối hả ngược xuôi mà thôi.

11, dịch mã phùng khoảng không vong không cát, như giáp tuất ban ngày thân là dịch mã, giáp tuất tuần trung thân dậu khoảng không, thân là khoảng không vong. Mã thất bại vong, chung thân bôn tẩu, lao mà ít thành. Trải qua vân: Mã thất bại vong, là quan tâm nghèo túng người.

12, dịch mã chỗ Thiên can là canh tân kim, hoặc dịch mã chỗ can chi nạp âm là kim, là đầu ngựa đái kiếm, chủ danh chấn biên cương. Đến đây cách phần nhiều là tham gia quân ngũ sinh ra, không phải cũng là xa xứ của mệnh.

Như nào đó nam mệnh, 1963 năm sinh:

Quý mão Thì thượng hợi là dịch mã, Thiên can là tân kim, là “Đầu ngựa đái kiếm”, tân hợi nạp âm vừa thuộc kim, năm thượng thất sát độc thấu, tất là quân nhân.

Người này sống ở đạt huyền nông thôn, ứng chinh nhập ngũ, ở Việt Hoa biên cảnh đánh giặc, thiếu chút nữa vị quốc vong thân,

Tằng là trú du nào đó tập đoàn quân doanh cấp quan quân, làm tài vụ công tác. Danh chấn biên cương vân vân, chỉ sợ vị tất.

Canh thân

Đinh dậu

Tân hợi

Thần sát tìm tòi nghiên cứu (tác giả trần kiếm)

Ở Trung Hoa Trung Quốc cổ đại, mọi người đang dùng Âm Dương Ngũ Hành học thuyết quản lý chung Vạn Tượng thể nghiệm trung, thần sát chiếm không nhỏ tỉ trọng. Thần sát cũng có Âm Dương Ngũ Hành của tính, nhưng nó không theo ngũ hành sinh khắc nên kỵ phân tích, cứng nhắc quy định ý tứ hàm xúc tương đối nồng hậu, phương pháp dễ hiểu, giản đơn, theo tử bình bát tự học thuật không ngừng truyền lưu, đại đa số mệnh lý học giả cũng không tán thành chỉ dụng thần sát lai kết luận người cát hung họa phúc, phú quý nghèo hèn, đời Thanh mệnh lý học giả trần làm am ở 《 mệnh lý lời hẹn 》 trung thuyết: “Con người mệnh cát hung, đều do cách cục vận khí, an có thể trùng hợp ngẫu nhiên thần sát mà tín của?” 《 tích thiên tủy 》 thuyết: “Tam kỳ nhị đức hư lời hữu ích, Hàm trì dịch mã bán thôi tường”, mà chú giải 《 tích thiên tủy 》 nhâm thiết tiều cho rằng thần rất là vô căn cứ nói đến, ở thầy tướng số thì một thần sát cũng không sử dụng. Lưu Bá Ôn 《 hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú 》 vân: “Là cố cát hung thần sát nhiều đoan, thế nào sinh khắc chế hóa một trong để ý.”

Thần sát mặc dù thuộc cứng nhắc quy định, nhưng giai không ra sông lạc ngũ hành can chi của để ý, ở đại lục nhâm dự đoán học trung, không có thần sát thiên tinh, quả thực thì không được kỳ vi đại lục nhâm. Đi qua thực tiễn, thần sát chinh nghiệm tính vẫn còn rất cao, cũng không phải là vô tri nói mò, không có thần sát, tử bình mệnh lý sẽ buồn bã thất sắc. 《 tứ nói độc bộ 》 vân: “Thần sát tương bán, nặng nhẹ đấu”, mặc dù bất năng chỉ bằng vào thần sát mà nói định một người vận mạng cát hung làm sao, nhưng thần sát nhưng cứu phải không có thể ít, vận dụng thì mấu chốt là phải “Nặng nhẹ đấu”, luận mệnh thì, lúc này lấy chính ngũ hành của sinh khắc chế hóa thành chủ, thần sát là phụ. Ở bát tự thầy tướng số trung, người phú quý nghèo hèn là do chính ngũ hành phối hợp mà quyết định, mà không phải do thần sát lai quyết định. Bất năng nhân mệnh có cát thần mà kết luận người này phú quý, cũng có năng lực nhân mệnh có hung thần mà kết luận người này nghèo hèn.

Bởi vì thần sát nhiều lắm, ở đây chích giới thiệu một ít tương đối trọng yếu thần sát.

Quý nhân (dĩ nhật can, năm làm lên, dĩ nhật can là việc chính)

Giáp mậu canh dê bò, ất kỷ thử hầu hương, bính đinh heo kê vị, nhâm quý thỏ xà giấu, lục tân phùng qua loa, đến đây là quý nhân phương.

1, quý nhân hay đối với mình có trợ giúp lớn người của, trúng mục tiêu phùng của còn có thể gặp dữ hóa lành. Quý nhân thuộc về cát thần, cát thì canh cát, hung có thể giảm hung, nếu quý nhân lâm vu bát tự thích dùng địa chi thượng, thì quý nhân tác dụng lớn hơn nữa, lâm vu bát tự đố kỵ chi thượng, quý nhân có thể giảm một điểm hung.

2, quý nhân có đôi khi là chỉ có quyền lực hoặc có tài lực bang trợ người, như xong làm quan, hoặc là kẻ có tiền bang trợ.

3, mệnh phùng quý nhân có thể “Xuất nhập cận đắt”, ý tứ là sẽ cùng làm quan hoặc kẻ có tiền giao tiếp thời gian đa.

4, bát tự có quý nhân hầu như tùy thời tùy chỗ đô hội xong người khác bang trợ, mà những người này cũng không nhất định mỗi người đều có quyền hoặc có tiền, có chút có thể là chính từ không nhận biết nhân.

5, thiên ất quý nhân có “Quang vinh”, “Hiển” ý tứ hàm xúc ở bên trong, nếu như bát tự ngũ hành phối hợp thuộc phú quý của mệnh, vừa đái quý nhân nói, như vậy loại này “Quang vinh lộ vẻ hảo”, tựu biểu hiện càng xông ra.

6, nếu như đại vận hoặc là lưu niên gặp phải quý nhân nói (như nhật can là giáp, đại vận ở xấu, vị hoặc lưu niên địa chi là xấu, vị), xưng trứ “Đi vận gặp phải quý nhân”, biểu thị giá bộ vận hoặc một năm này phải nhận được người bang trợ, làm việc tương đối thuận lợi, mặt ngoài thoạt nhìn rất khó làm sự có lúc cũng sẽ giải quyết dễ dàng, cho dù phát sinh có chuyện xảy ra cũng sẽ có nhân nhiệt tình tương trợ. Đương nhiên, nếu như bước này vận hoặc một năm này bản thân ngũ hành bất lợi cho bát tự, thuộc về kém vận nói, gặp quý nhân cũng chỉ là có người hỗ trợ mà thôi, cũng không thể căn bản cải biến kém vận.

7, nếu như một bát tự bản thân là thuộc về một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự nói, cho dù có quý nhân cát thần, cũng vẫn là một phôi bát tự, nghèo hèn bát tự, tuy có quý nhân cũng không có thể khiến cho chính suốt đời trở nên phú quý đứng lên, thuận lợi đứng lên.

8, một nữ nhân bát tự trung, nếu như thiên ất quý nhân có hai hoặc hai đã ngoài, liền bất năng cho rằng là điềm lành, trái lại khả năng có dâm loạn của ngại, nhất định là thuộc về xã giao hình nữ nhân, xã giao nhiều lắm, vừa khuyết thiếu trinh tiết quan niệm, chu toàn vu đông đảo nam nhân trung gian, thậm chí tùy thời cùng giải quyết nam nhân trên giường. Thơ viết: Một tòa quý nhân cho thỏa đáng mệnh, hai tòa quý nhân tâm bất định, ba tòa quý nhân định làm xướng, lúc tuổi già hoặc tác hào gia chính.

9, nếu như người lớn tuổi đại vận và lưu niên đi quý nhân (hoặc đồng thời đi quý nhân), có thể sẽ là tử vong hiện ra, chủ mai táng của lễ.

10, nhật đắt cách: Đinh dậu, Đinh Hợi, quý tị, quý mão nhật sinh ra người, nhật trụ địa chi là quý nhân, nhật chi là cung phu thê, biểu phối ngẫu là của mình quý nhân. Nam tử khả năng xong mỹ thê, có thê trợ giúp, nữ tử có thể giá đắt phu, có phu trợ giúp. Nhật chi tự tọa quý nhân người, bề ngoài đầy mặt thanh tú anh tuấn, thông minh hơn nữa tương đối nhã nhặn, thái độ làm người thẳng thắn, trong bụng một nhiều như vậy cong cong quải quải, có nhân đức, thái độ làm người khiêm tốn. Đến đây cách đại phạ nhật chi tao hình phá tan hại, thì cát trung có hung, không vì toàn bộ mỹ. Vừa phân ban ngày đắt dạ đắt, Đinh Hợi, quý tị nhật hỉ ban ngày sinh ra, đinh dậu, quý mão nhật hỉ buổi tối sinh ra.

Như nào đó nữ mệnh, 1977 năm sinh:

Đinh tị Nhật can quý kiến mão tị là quý nhân, bát tự địa chi bốn người tất cả đều là quý nhân, nữ mệnh quý nhân quá nhiều, chủ dâm loạn, cố bản thân là xướng. Đây là một cái tam bồi tiểu thư bát tự.

Ất tị

Quý tị

Ất mão

Như nào đó nam mệnh, 1957 năm sinh:

Đinh dậu Tài đa thân yếu, đinh nhâm hợp mộc vu thu, suốt đời khoảng không mang. Nhật can đinh kiến dậu là quý nhân, bát tự địa chi tuy có ba quý nhân, cũng không có thể khiến cho người này phú quý đứng lên, chích áo cơm không thiếu mà thôi.

Kỷ dậu

Đinh dậu

Nhâm dần

Văn xương (dĩ nhật làm lên)

Giáp xà ất mã báo quân biết, bính mậu thân cung đinh kỷ kê, canh heo tân thử nhâm phùng hổ, quý nhân kiến thỏ bộ thang mây.

1, văn xương chủ nhân thông minh, hành văn hảo, trí nhớ hảo, học đông tây năng lực suy một ra ba, tịnh chủ thanh tú, bề ngoài nhã nhặn, làm cho một loại tao nhã mà khiêm tốn cảm giác.

2, đôi khi, văn xương có thể đưa đến gặp dữ hóa lành tác dụng.

3, bát tự đái văn xương, đa chủ một thân học giỏi, có linh tính, là đọc sách tài liệu.

4, có nhật tọa văn xương người, tức bính thân, mậu thân, đinh dậu, kỷ dậu, nhâm dần, quý mão mấy ngày nay sinh ra, tự tọa văn xương, từ nhỏ chính là thiên tài nhi đồng, lên đại học tỉ lệ cũng khá cao.

5, người bình thường cho rằng, văn xương chủ nhân trình độ văn hóa cao, năng lực thi lên đại học, kỳ thực cũng không nhất định như vậy, rất nhiều tiểu học văn hóa người của bát tự cũng có văn xương. Lại có nhân cho rằng, bát tự văn xương không cần nhiều, chỉ cần một mới tốt, sinh ra bất hảo, nhưng có vài người bát tự có hai người văn xương, cũng là sinh viên. Bởi vậy, văn xương cũng không phải phán đoán một người học lên hay không duy nhất tiêu chuẩn, có người bát tự cũng không văn xương, như nhau năng lực độc bác sĩ.

6, hữu dụng văn xương là: Văn xương sở tọa của chi là thích dùng thần, văn xương phát tài, văn xương bội chính ấn, văn xương phùng lục hợp, những … này và bằng cấp cập hành văn hữu quan.

7, văn xương quả thật thực thần của lộc địa (bính đinh nhật can ngoại trừ), như giáp dĩ bính là thực thần, bính lộc ở tị, cố dĩ tị là văn xương. Nữ mệnh bát tự văn xương không cần nhiều, văn xương sinh ra, tức thực thần sinh ra, trái lại không đẹp, nói không chừng yếu khắc phu.

8, nguyên mệnh bản cát, phùng văn xương có cát càng thêm cát tác dụng, nguyên mệnh bản hung, mặc dù phùng văn xương cũng vô dụng, hoặc tác dụng rất nhỏ.

Đỏ tươi (dĩ nhật làm lên)

Đa tình đa dục ít người biết, lục bính phùng dần tân kiến kê. Quý lâm thân thượng đinh kiến vị, mặt mày rạng rỡ nhạc đùa đùa.

Giáp ất ngọ thân canh kiến tuất, thế gian chỉ là mọi người thê. Mậu kỷ phạ thần nhâm phạ tử, lộc mã tương phùng tác lộ kỹ.

Nhâm là nhà giàu quan lại nữ, hoa tiền dưới ánh trăng cũng thâu kỳ.

1, đỏ tươi chủ nhân phong lưu đa tình, háo sắc, mạng người phạm của, đa số có gặp ở ngoài đào hoa. Nữ mệnh kiến của, khó tránh khỏi tư tình, trước khi cưới thất trinh, nói chuyện luyến ái chỉ sợ cũng yếu ở chung, nếu như địa chi có nhật làm lộc, vừa đái dịch mã, là phóng đãng người, hoặc là kỹ nữ.

2, có tự tọa đỏ tươi người, ngay hôm đó can chi là giáp ngọ, giáp thân, bính dần, Đinh Mùi, mậu thần, canh tuất, tân dậu, nhâm tử, sắc dục quá nặng.

Như nào đó nam mệnh, 1884 năm sinh:

Giáp thân Đây là tam bản năm mươi sáu bát tự, nhật can giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi sát, một thân tất nhiên phong lưu. Vị hôn tiền tựu bình thường ly khai quân doanh khứ phiêu nghệ kỹ, tầm vui mừng mua vui, hôn hậu lại có nhiều tình phụ. 1943 năm sơn bản bị nước Mỹ không quân đánh gục, để lại 16 một bọc giấy, là làm phân cho trong đó 16 một tình phụ vật kỷ niệm.

Đinh Mão

Giáp thân

Canh ngọ

Như nào đó nữ mệnh, 1976 năm sinh:

Bính thần Đây là nhất kỹ nữ bát tự, 16 tuổi đi ra Quảng Đông trên đường cái mại dâm. Giáp kiến ngọ thân là đỏ tươi, nhật chi dần là lộc, vừa dịch mã, nguyệt chi thân cũng là dịch mã, cổ nhân vân: “Lộc mã tương phùng tác lộ kỹ”, thực sự là kỳ nghiệm như thần.

Bính thân

Giáp ngọ

Bính dần

Kim dư (dĩ nhật làm lên)

Thập can lộc tiền nhị vị, như giáp lộc ở dần, thần là kim dư, ất lộc ở mão, tị là kim dư.

1, kim dư dĩ nhật chi và thì chi đụng với là giai, chủ nhân tính cách ôn hòa, bề ngoài giản dị, có thể được thê tài, kết hôn thì lão bà của hồi môn đa, cũng có lên làm môn con rể khả năng. Mệnh cát, lại có kim dư, đa số có xa giai cấp.

Dịch mã (dĩ nhật chi, năm chi khởi)

Thân tử thần mã ở dần, dần ngọ tuất mã ở thân, tị dậu xấu mã ở hợi, hợi mão vị mã ở tị.

1, dịch mã chủ bôn ba, đi lại, ra ngoài, lữ hành, đi công tác, dọn nhà, chuyển chức chờ và di động có liên quan sự giống, mệnh có có dịch mã, suốt đời đa động.

2, bát tự trung có bao nhiêu một dịch mã, thì chủ tâm ý bất định, đứng núi này trông núi nọ, suốt đời bất an, hối hả ngược xuôi, phiêu bạt vô định, vạn phần vất vả cực nhọc. Thơ vân: Bát tự dịch mã phân cùng bôn ba, thân quang vinh lao lực ở đông tây, thảng có người lòng thanh thản bất định, động thì phong lưu tĩnh thì bi.

3, bát tự trung dịch mã thụ xung, tỷ như thân là dịch mã, lại có dần tự, dần thân tương trùng, suốt đời động được lợi hại nhất. Con cái bát tự có dịch mã phùng xung, khả năng có tiểu nhi đa động chứng. Trải qua vân: Mã hậu gia tiên, triêu hồ bắc mà mộ hồ nam.

4, đại vận hoặc lưu niên đụng phải dịch mã, là “Dịch mã vận”, chủ cai vận hoặc cai tuổi tác nghiệp, hoàn cảnh có điều biến động, hoặc ra ngoài thời gian khá lâu, tỷ như có đi công tác, lữ hành, điều chỉnh hoặc biến hóa công tác chờ sự.

5, nữ mệnh không thích bát tự có dịch mã, lại càng không hỉ dịch mã phùng xung, nếu như có hai hoặc hai trở lên dịch mã, có lẽ dịch mã phùng xung, là không cát hiện ra, suốt đời làm lụng vất vả, xã giao hoạt động đa, tại ngoại bôn ba đa, tâm ý bất định, tịnh mới có thể hồng hạnh ra tường. Nhân nữ nhân thiên chức là giúp chồng dạy con, suốt ngày tại ngoại chạy tới chạy lui, tổng làm cho lo lắng, nói không chừng sẽ tự động đầu đưa đến nhân gia ôm ấp. Thơ vân: Dịch mã đa phùng vô lễ hình, lâm quan đế vượng canh phiền lòng, trụ trung có nữa Hàm trì gặp, như thế giai nhân không nên tầm. Tức là thuyết nữ mệnh bát tự trung có dịch mã, có tử mão tương hình, lại có nhật làm lộc hoặc đế vượng, để ý hơn nữa bát tự đái Hàm trì, thì là dâm xướng của phụ, ngàn vạn lần sờ lấy vợ người tác lão bà, không phải, nón xanh không thể thiếu có một tá.

6, nên chú ý, dịch mã đang nhìn và “Di động” có liên quan sự giống, nhưng nếu chỉ bằng dịch lập tức tới nhìn, có rất nhiều biến động chuyện tình hội coi không ra, có người bát tự cũng không dịch mã, như nhau đa động, sở dĩ bất khả câu nệ vu dịch mã.

7, nam mệnh bát tự dịch mã ngồi ở chính tài lên, như kỷ xấu nhật sinh, bát tự có hợi là dịch mã, cho thấy lão bà chịu khó, tại gia chịu làm sự, lão công tan tầm Về đến nhà đương nhiên có thể khiêu khởi chân đùa giỡn. Đồng thời cũng biểu thị có thể sẽ lấy vợ viễn phương của thê, hoặc thê tử có bôn ba. Trải qua vân: Nếu là tài tinh tọa tứ mã, thê hiền không chỗ không lo lắng.

Nếu như nhật can vượng, bỉ cướp đa, bỉ cướp tọa dịch mã, và huynh đệ tỷ muội các ở nhất phương. Trải qua vân: Thân vượng sánh vai tọa dịch mã, huynh đệ phiêu oành hảo tiêu sái.

8, dịch mã sở lâm của chi là bát tự thích dùng thần, thì thiên động chủ cát, nếu vì bát tự kỵ thần, thì thiên động chủ hung, tuổi vận cùng.

9, khán dịch mã, còn muốn đem dịch mã sở lâm mười sao, nhất tịnh tham thảo, nếu như dịch mã lâm chính quan thất sát, dễ nhân công vụ lên chức việc mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính thiên tài, thì dễ nhân cầu tài mà thiên động; nếu như dịch mã lâm chính ấn, dễ nhân học ở trường việc, mà có thiên động, không phải dọn nhà quay về sổ đa. Còn lại dĩ loại này thôi.

10, cổ nhân vân: Quý nhân dịch mã đa thăng trạc, thường nhân dịch mã đa bôn ba. Ý tức làm quan nhân bát tự đái dịch mã, cho thấy bình thường lên chức, không có tiền không có thế dân chúng bát tự có dịch mã, chích biểu thị hối hả ngược xuôi mà thôi.

11, dịch mã phùng khoảng không vong không cát, như giáp tuất ban ngày thân là dịch mã, giáp tuất tuần trung thân dậu khoảng không, thân là khoảng không vong. Mã thất bại vong, chung thân bôn tẩu, lao mà ít thành. Trải qua vân: Mã thất bại vong, là quan tâm nghèo túng người.

12, dịch mã chỗ Thiên can là canh tân kim, hoặc dịch mã chỗ can chi nạp âm là kim, là đầu ngựa đái kiếm, chủ danh chấn biên cương. Đến đây cách phần nhiều là tham gia quân ngũ sinh ra, không phải cũng là xa xứ của mệnh.

Như nào đó nam mệnh, 1963 năm sinh:

Quý mão Thì thượng hợi là dịch mã, Thiên can là tân kim, là “Đầu ngựa đái kiếm”, tân hợi nạp âm vừa thuộc kim, năm thượng thất sát độc thấu, tất là quân nhân. Người này sống ở đạt huyền nông thôn, ứng chinh nhập ngũ, ở Việt Hoa biên cảnh đánh giặc, thiếu chút nữa vị quốc vong thân, tằng là trú du nào đó tập đoàn quân doanh cấp quan quân, làm tài vụ công tác. Danh chấn biên cương vân vân, chỉ sợ vị tất.

Canh thân

Đinh dậu

Tân hợi

UID 393

Bài post 364

Tinh hoa 0

Vi tích phân 4645

Xem quyền hạn 40

Tính nữ

Đến từ nghê thường của phủ

Ở tuyến thời gian 31 tiếng đồng hồ

Đăng kí thời gian 2005-10-3

Tối hậu đăng ký 2008-9-18

Kiểm tra tài liệu cặn kẽ

Trích dẫn báo cáo hồi phục TOP

Trung Hoa Trung Quốc cổ đại tinh quan và hiện đại chòm sao

Trung Hoa Trung Quốc cổ đại tinh quan và hiện đại chòm sao

Trích từ Trung Hoa thời không võng

Cổ nhân môn để nhận thức sao, nghiên cứu thiên thể, rất sớm tiện nhân là mà đem tinh không chia làm chắc chắn khu vực, Trung Hoa Trung Quốc xưng là tinh quan, phương tây hoán của là chòm sao. Trung Hoa Trung Quốc cổ đại bả bầu trời chia làm tam viên nhị thập bát tú, sớm nhất hoàn chỉnh văn tự ghi lại kiến chư vu 《 sử ký • thiên quan thư 》 trung.

Tam viên người, bắc cực phụ cận ba khu vực: Tử vi viên, quá nhỏ viên, thiên thị viên. Viên phân định cũng không thái nghiêm ngặt minh xác, tử vi viên đại thể bao quát chòm tiểu hùng, thiên long tọa, lộc báo tọa, tiên vương tọa, tiên ngồi phía sau, đại hùng tinh, mục phu tọa, chó săn tọa, ngự phu tọa chờ. Quá nhỏ viên thì tương đương với dưới mấy người chòm sao khu vực: Chòm sư tử, đi sau tọa, gái chưa chồng tọa, chó săn tọa, đại hùng tinh, tiểu sư tọa chờ. Thiên thị viên thì tương đối gần hơn hạ thu ngân hà khu vực, tức bao gồm xà phu tọa, cự xà tọa, tấm chắn tọa, chòm sao Thiên ưng, vũ tiên tọa, bắc miện tọa chờ một chút.

Nhị thập bát tú chia làm tứ đại tinh khu, gọi tứ tượng, dĩ động vật mệnh danh của: Họ Đông Phương chòm sao Thương Long: Sừng, kháng, để, phòng, tâm, đuôi, ki chờ thất túc. Phương bắc huyền vũ: Đấu, bò, nữ, hư, nguy, thất, bích chờ thất túc. Phương tây bạch hổ: Khuê, lâu, dạ dày, mão, tất, tuy, tố chờ thất túc. Phía nam chu tước: Tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, cánh, chẩn chờ thất túc.

Nhị thập bát tú ở quốc gia của ta dân gian truyền lưu rất rộng, hán đại nhà thiên văn học tằng hình dung là: “Chòm sao Thương Long liên quyền vu tả, bạch hổ mãnh cứ vu bên phải, chu tước xoè cánh bay vu tiền, linh quy quyển thủ ở phía sau” . Trên thực tế giá miêu tả quốc gia của ta vùng Trung Nguyên khu đầu mùa xuân mùa hoàng hôn sau đó không lâu hiện tượng thiên văn.

Nhị thập bát tú trung lớn nhất là tỉnh túc, xích trải qua chiều ngang ước chừng 33 độ tả hữu, mà ít nhất tuy túc và quỷ túc, vẻn vẹn 2—4 độ.

Nước ta hằng tinh mệnh danh hệ thống khoảng chừng hình thành về công nguyên 270 năm, thời Tam quốc nước Ngô thái sử lệnh trần trác trở thành liễu một quyển bao hàm 283 một tinh quan, cộng 1464 khỏa hằng tinh tinh biểu. Trong đó rất nhiều đều là dĩ phong kiến hoàng triều đế vương tương tương tên chính thức lai mệnh danh.

Phương tây chòm sao khởi nguyên có thể truy tố đến công nguyên trước đây khoảng chừng ba ngàn năm tả hữu Babylon nhân. Đáo công nguyên nhị thế kỷ thì, cổ Hy Lạp nhà thiên văn học thân thể to lớn thượng đã bả bắc thiên khu vực chòm sao xác định xuống tới, mà nam thiên khu vực chòm sao đích xác luật là ở vòng quanh trái đất đi sau khi thành công, thế kỷ mười bảy chuyện liễu.

1603 năm, căn cứ Đức thiên văn học ba cũng (J•Bayer) kiến nghị, hằng tinh mệnh danh án chòm sao phân khu, tức ở từng chòm sao nội căn cứ độ sáng trình tự, dĩ chữ cái Hy Lạp biểu thị của. Thế nhưng chữ cái Hy Lạp vẻn vẹn 24 một, chòm sao trung hằng tinh giống nhau xa không ngừng 24 khỏa, như đại hùng chòm sao nội mắt thường có thể thấy được hằng tinh có 125 khỏa nhiều. Để giải quyết cái này mâu thuẫn, Anh quốc phất Lan Tư nói đức (J•Flamsceed) vu 1712 năm phát biểu một tinh biểu, trong đó hằng tinh đều án chòm sao trung xích trải qua thứ tự đánh số, bởi vậy, hiện nay trừ chòm sao trung 24 khỏa lượng tinh đã có chữ cái Hy Lạp biểu thị ở ngoài, đều dĩ tinh biểu trung số thứ tự hơn nữa chòm sao danh mệnh danh, như thiên nga tọa 61 tinh, đại hùng tinh 81 độ sáng tinh thể chờ. Hiển nhiên, loại con số này và độ sáng trình tự là không quan hệ.

Để thống nhất chòm sao phân chia, 1928 năm quốc tế thiên văn học liên hợp hội quá trình nghiên cứu thảo luận, công bố toàn bộ thiên 88 một chòm sao tên gọi cập phạm vi, đồng thời quy định chòm sao giới hạn giống nhau dĩ xích kinh tuyến và xích vĩ tuyến lai phân chia, chòm sao khổ kém thập phần cách xa, như lớn nhất trường xà tọa chiếm cứ thiên khu diện tích đạt 1300 bình phương độ, mà ít nhất nam thập tự tọa cũng chỉ có 68 bình phương độ (toàn bộ thiên diện tích là 41253 bình phương độ). Các chòm sao nội bao hàm mắt thường có thể thấy được tinh sổ cũng là có có nhiều ít, các bất tương chờ.

Nhị thập bát tú và phương tây chòm sao đối ứng quan hệ

Họ Đông Phương chòm sao Thương Long Phương bắc huyền vũ Phương tây bạch hổ Phía nam chu tước

Sừng ——— gái chưa chồng Đấu ——— nhân mã Khuê ——— tiên nữ, song cá Tỉnh ——— song tử

Kháng ——— gái chưa chồng Bò ——— Ma Yết Lâu ——— bạch dương Quỷ ——— cự giải

Để ——— thiên xứng Nữ ——— bảo bình Dạ dày ——— bạch dương Liễu ——— trường xà

Phòng ——— thiên hạt Hư ——— bảo bình, Tiểu Mã Mão ——— Kim Ngưu Tinh ——— trường xà

Tâm ——— thiên hạt Nguy ——— phi ngựa, bảo bình Tất ——— Kim Ngưu Trương ——— trường xà

Đuôi ——— thiên hạt Thất ——— phi ngựa Tuy ——— hộ săn bắn Cánh ——— cự tước

Ki ——— nhân mã Bích ——— tiên nữ, phi ngựa Tố ——— hộ săn bắn Chẩn ——— quạ đen

Đánh vỡ cách cục

Mã ngọc khanh

Xã hội thượng lưu hành kỳ môn học lý giảng đến rồi cách cục, có cát cách, hung cách chờ mười mấy cách cục. Nhiều như vậy cách cục tiên bất luận ở nhớ lại là cỡ nào phiền phức, chỉ tựu dự đoán độ lớn của góc mà nói cách cục bả trong kỳ môn ký hiệu giống ý nội hàm khuông ở, xơ cứng liễu, khuyết thiếu sự linh hoạt, dùng tương đối khô khan. Trong kỳ môn ký hiệu vốn chính là một loại phổ thích tính số hiệu, nó bao quát Vạn Tượng, có thể hàm đắp trong vũ trụ vạn sự vạn vật, tại sao có thể sử dụng một ít cứng nhắc cách cục cấp khái quát ni, huống chi nhiều ký hiệu tổ hợp đại biểu nội dung càng muôn màu muôn vẻ, sở dĩ linh hoạt vận dụng, cụ thể vấn đề cụ thể phân tích mới là phán đoán phiên dịch kỳ môn ký hiệu tổ hợp phương pháp chính xác. Tỷ như như vậy một ví dụ thực tế:

Giáp ngọ tân, thiên nhâm tinh là giá trị phù.

Phù nhâm tân mậu đinh cảnh

Đến đây lệ là vì một vị nữ hài luận đoán sự nghiệp, nhật can là tân rơi khôn cung. Nếu bàn về cách cục, tân gia đinh là ngục thần được kỳ, công phế tư tựu, nhốt được xá, nữ tính phạm tội khuynh hướng. Kinh thương cầu tài thu lợi nhân. Nhưng trên thực tế cô bé này này đây là diễn viên, là đạn đàn tranh. Bên ngoài ẩn can quý đại diện khốn cảnh, mã tinh biểu thị bào động khá nhiều, thượng thừa giá trị phù là một người có danh vọng, tân là tuần thủ là giáp, nó hàm chữ bát phân giáp tính, nhị phân kim tính, đàn tranh là một khối trên gỗ an rất nhiều kim chúc dây đàn, nhưng đầu gỗ đa dây đàn ít, chính phù hợp chữ bát phân giáp mộc, nhị phân tân kim, mậu là đất, kỳ hình phương, hình chữ nhật, đàn tranh tấm ván gỗ là hình chữ nhật, đinh là cái đinh đàn tranh dây đàn chỉ dùng để cái đinh cố định ở tấm ván gỗ thượng, đinh cũng là pháp là âm luật, thiên nhâm tinh là gập cong động tác, đạn đàn tranh phải gập cong lai đạn, cảnh môn là biểu một cách cục làm sao có thể bao hàm nhiều như vậy tin tức ni? Nhìn nữa một ví dụ thực tế:

Âm nhuế canh quý bính nghỉ

Đến đây lệ là vì một vị khách nhân luận đoán tật bệnh, luận cách cục là canh gia bính, thái bạch nhập huỳnh. Kẻ trộm lai rủi ro, khách lợi chủ phá. Như vậy vài có thể nào bả tật bệnh đích tình huống phân tích thấu triệt ni.

Trên thực tế vị tiên sinh này là mùa đông trượt tuyết lúc nhiễm bệnh. Phía ngoài ẩn can ất là phản ánh chính là trượt tuyết tràng khe trượt hình dạng, Thái Âm là đại diện âm lãnh, canh là đại diện tuyết, phản ánh chính là tuyết nhan sắc, cũng đại diện cứng rắn, khe trượt thượng tuyết quá trình người nhiều lần thải đạp đã phi thường cứng rắn, quý cũng là đại diện tuyết, phản ánh chính là tuyết thực chất là thủy, bính là nhiễu loạn là náo nhiệt, trượt tuyết tràng người trên rất nhiều, náo nhiệt phi thường, thiên nhuế là vấn đề là truyền thụ, trượt tuyết người của có rất nhiều trượt tuyết kỹ thuật bất hảo, bình thường ngã sấp xuống, có giáo luyện và đồng bạn theo đạo bọn họ trượt tuyết kỹ thuật, nghỉ môn là hưu nhàn chỗ ăn chơi.

Buổi tối trượt tuyết lúc ăn là cái lẩu, đến đây cung vừa phản ánh ra ăn lẩu tin tức, ở đổi cung chủ bệnh tùng miệng nhập, là và ăn hữu quan, canh là đồng cái lẩu, quý là cái lẩu dặm thang, bính là cái lẩu phía dưới hỏa, nghỉ môn là đồ gia vị, Thái Âm là lạnh thực phẩm vừa tinh tế thực phẩm, là cái lẩu các loại thái, phía ngoài ẩn can là hoá lỏng tức giận cái ống, buổi tối lại ăn mấy người lê, ất mộc hay hoa quả lê, thiên nhuế là vấn đề, đại diện ăn thực phẩm có chuyện, ẩn can là sự vật lời dẫn là huyền ngoại âm, cũng cũng là bởi vì ăn mấy người lê tài dẫn bệnh lai.

Bệnh gì ni? Canh là đại tràng phía dưới bính hỏa là chứng viêm, nói rõ là viêm ruột, quý thủy là tiêu chảy, Thái Âm là bệnh thời gian khá lâu bệnh không thương hảo. Như vậy một tổ hợp phản ánh tin tức phi thường phong phú, căn bản không phải kỳ môn cát hung cách vậy đơn giản nói mấy câu có khả năng khái quát. Nhìn nữa một ví dụ thực tế:

Xà trụ canh bính tử

Luận đoán một người rơi chấn cung, đổi cung là phía trên tổ hợp, luận cách cục là thái bạch nhập huỳnh, canh gia bính, kẻ trộm lai rủi ro, khách lợi chủ phá. Trên thực tế cái này tổ hợp phản ánh chính là hoả táng hán giống, tử môn thị xử để ý người chết địa phương, canh là lò sắt, bính là hỏa, phía ngoài ẩn can đinh là điện, trụ trời là ống khói, đằng xà là mạo yên, đổi cung khắc chấn cung chủ nhân bị hoả táng, luận đoán người này đã tử vong.

Do đã ngoài mấy người ví dụ đầy đủ nói rõ cát hung cách xơ cứng giáo điều, là cỡ nào không thể làm, ở dự đoán thì là trở ngại người linh cảm và phát huy chướng ngại vật, tử ôm cát hung cách không tha đối đề cao dự đoán xoay ngang cực kỳ bất lợi, sở dĩ hẳn là đánh vỡ cách cục, triển khai tư duy và liên tưởng cánh, ở kỳ môn ký hiệu giống ý trung tự do bay lượn.

(Dịch tự động bằng Quick Translator)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button