Tử vi

Lịch sử hình thành và phát triển của tử vi đẩu số

Tử vi đẩu số là một môn thuật số bắt đầu phát triển từ thời Bắc Tống, tiền thân của nó là Thập bát phi tinh. Bối cảnh kích thích sự thịnh hành của môn thuật số này là do sự cạnh tranh giữa phái Ngũ tinh và Tử Bình.

Thuật số vốn dĩ là sự suy đoán về lộc mệnh của thời kỳ cổ đại, phái Ngũ tinh rất thành công trong lĩnh vực này. Họ đã căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người, trước tiên sắp xếp thành can chi của bát tự, sau đó căn cứ vào bát tự để tính toán Ngũ tinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ đến hành độ của Thái dương, Thái âm, phân bố ở 12 cung vị, gọi chung là Thất chính. Ngoài ra, họ còn căn cứ vào cung độ của 28 vị tinh tú với Tử khí, Nguyệt bột, La hầu (Tứ dư) để tính toán, suy đoán lộc mệnh của một người. Loại thuật số này gọi là Thất chính Tứ dư.

Do công thức tính toán thiên văn học thời kỳ cổ đại chưa chuẩn xác, thời gian dài sẽ biến thành sai cung lệnh độ, bởi vậy sau này mặc dù có sự hưng thịnh của phái Cầm Đường, dùng centimet để tính toán (lượng thiên xích), cho đến việc sáng tạo ra phương pháp suy đoán mới của sự hội hợp các sao, nhưng vẫn không giúp ích cho việc cúng tế, kết quả là phái Tử Bình vẫn chiếm ưu thế.

Bạn đang xem: Lịch sử hình thành và phát triển của tử vi đẩu số

Phái Tử Bình đã lấy Ngũ tinh để thay đổi cách tính toán thuật số mà phát minh ra môn thuật số, nó ra đời từ thời Đường. Phương pháp suy đoán của phái này vẫn căn cứ bát tự can chi của một người như giờ, ngày, tháng, năm của một người, gọi là Tứ trụ, sau đó căn cứ vào âm dương Ngũ hành, sinh khắc chế hóa, hình sung hợp hại, tam hợp lục hợp, tung thần chư sát của bát tự để suy đoán lộc mệnh, tiếp theo không cần để ý đến sự phân bố của 12 cung.

Thuật số phái Tử Bình hưng thịnh từ thời Tống, trải qua sự phát triển của các văn nhân, đến nay đã thu được thành tựu rất lớn, đặc biệt là bản chú sớ Trích thiên tủy của Lưu Bá Ôn thời Minh truyền lại, đã đưa môn thuật số phát triển thành triết lý, tướng quốc Trần Tố Yêm thời Thanh đã kế thừa và biên soạn thành cuốn Mệnh lý ước ngôn, cho nên đã xác lập nên địa vị của phái Thư phòng, phái Thư phòng cùng với phái Giang hồ là hai trụ cột của thuật số Tử Bình.

Kỳ thực, phái Giang hồ không phải là không có ưu điểm, kinh nghiệm thực tế của phái Giang hồ chiếm ưu thế hơn phái Thư phòng, bỏi vậy lý luận tuy có khác nhưng cách suy đoán vẫn chuẩn xác. Một số khẩu quyết được truyền qua các đời như: “Nhật tọa tỉ kiên phùng tỉ kiếp, tất nhiên tam độ tác tân lang”, “Quý Thủy sinh nhân dụng Mậu cung, thiếu niên định giá bạch đầu phu” tất có tính chuẩn xác. Những khẩu quyết này, phần nhiều là do tích lũy kinh nghiệm thực tế mà đúc kết thành. Cho nên, phái Thư phòng tuy được văn nhân học sỹ đề cao, nhưng phái Giang hồ vẫn có thế đứng vững chắc. Đối với sự phát triển của khoa học, lí luận ngày càng có nhiều thay đổi, nhưng kinh nghiệm vẫn là cơ sở thực nghiệm của lý luận.

Tiền thân của Tử vi đẩu số là sự thịnh hành của Thập bát phi tinh, là loại lấy thực nghiệm suy đoán tính mệnh làm cơ sở. Cấu trúc nguyên thuỷ của nó là khắc phục khuyết điểm không chuẩn xác của cung độ Ngũ tinh, lấy sao Bắc cực làm chủ, lấy đó làm tiêu chuẩn tính toán. Nét đặc sắc của nó là làm như thế nào mà phát hiện ra ảnh hưởng của sao Bắc cực đối với sự vận hành của trái đất là 0°, tức là lấy phương pháp quan sát trên mặt đất để lý giải, sao Bắc cực thường không quay, chỉ có cán sao theo 4 mùa xuân, hạ, thu, đông chỉ 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, các sao khác quay quanh sao Bắc cực, mỗi vòng quay tức là 1 năm.

Tên gọi của sao Bắc cực trên thực tế rất da dạng, có khi gọi là Tử vi, có khi gọi là Thái ất, lấy quan điểm thiên văn học ngày nay mà nói, những tên gọi đó đều không chính xác, nhưng ở thời kỳ Tống Nguyên, cách gọi như thế đã rất thịnh hành. Cho nên, thuật số về sao Bắc cực vẫn hòa nhập với yếu tố khác mà lưu hành, có Thái ất số tính toán sự vận hành của trái đất, có Tử vi đẩu số suy đoán số mệnh của con người. Ban đầu lấy Thập bát phi tinh làm mô thức, tức là lấy sao Tử vi làm chủ, sau đó lập nên 18 sao giả, rồi lại an sao, dùng đó để suy đoán lộc mệnh của con người.

18 sao giả là: “Thiên hư, Thiên quý, Thiên ấn, Thiên thọ, Thiên không, Hồng loan, Thiên khô”, Thiên quan, Văn xương, Thiên phúc, Thiên lộc, Thiên trượng, Thiên dị, Mao đầu, Thiên nhẫn, Thiên diêu, Thiên hình, Thiên khốc. Nó đều có nguồn gốc từ Ngũ tinh, có sao lấy ra từ tung thần chủ sát của các nhà trạch nhật (lấy ngày), có sao chỉ là mượn tên sao.

Do đó, ngoài sao Tử vi, 18 sao đều có phù hiệu, cho nên môn thuật số suy đoán tính mệnh Thập bát phi tinh thiếu tính lý luận, chủ yếu dựa vào thực tiễn, nhưng trong thực tiễn lại căn cứ vào tính toán để thay đổi phương pháp tính toán của mình. Cách làm này giống với phái Tử Bình, Giang hồ, rất coi trọng thực tiễn và tính toán.

Ban đầu lý luận và phương pháp của Thập bát phi tinh rất đơn giản, tuy sau này trong thực tiễn đã lập nên phương pháp suy đoán Tam phương Tứ chính, nhưng có hai điều hạn chế, khiến cho môn thuật số này không ngừng thay đổi. Hai điều hạn chế là:

Thứ nhất, 12 cung của Thập bát phi tinh lấy ra từ Ngũ tinh mà sắp xếp thành các cung: Cung Mệnh, cung Tài bạch, cung Huynh đệ, cung Điền trạch, cung Tử nữ, cung Nô bộc, cung Phu thê, cung Tật ách, cung Thiên di, cung Quan lộc, cung Phúc đức, cung Phụ mẫu (tướng mạo). Như thế  mà nói, cấu trúc Tam Phương Tứ Chính rất không hợp lý. Ví như, cung Mệnh đối với cung Phu Thê, cung Tử Nữ với cung Thiên di ở tam phương, tức là quá coi trọng quan hệ gia tộc. Cung Huynh đệ đối với cung Thiên di, cung Phu thê hội với cung Phúc đức, càng khó luận giải quan hệ giữa mọi người.

Sáng lập ra Tử vi đẩu số, là sự cách tân rất lớn của Thập bát phi tinh. Nó thay đổi tuần tự sắp xếp của 12 cung, đặt lại tên cho cung vị, ví như bỏ tên gọi của cung Tướng mạo mà gọi thành cung Phụ mẫu, làm cho tinh bàn có đầy đủ các cung của lục thân, đồng thời mỗi Tam phương Tứ chính đều tổ hợp thành một mối quan hệ mật thiết (vấn đề này, chúng ta bàn luận về tính chất của 82 cung, đến nay vẫn còn tranh cãi), thêm vào tổ hợp tinh diệu là rất rộng, đặc biệt lập ra công thức mỗi năm, mỗi đại hạn, thậm chí tuân theo Thiên can của từng giờ để thay đổi và biến hóa. Tử vi đẩu số từ triều Nam Tống khởi lập qua thời Nguyên đến đầu thời Minh đã phát triển rất thịnh vượng, trở thành hệ thống suy đoán lộc mệnh đủ mạnh để cùng với phái Tử Bình song hành. Thâm chí có thể nói, trên phương diện suy đoán vận số, Tử vi đẩu số vượt xa phái Tử Bình. Nói một cách khác, phái Tử Bình suy đoán tài vận rất tốt, nhưng Tử vi đẩu số vượt xa hơn có thể suy đoán và thu được kết quả của bất cứ tài vận gì, có thể xem được năm nào đắc tài và phương thức gì có được tiền tài, là do phán đoán Tài bạch tích tụ và tiêu tán.

Suy đoán chi tiết này cơ bản do tính toán tổ hợp của các sao trong 12 sao, lại thêm sự hội hợp của các sao phụ, tá, sát, hóa, khiến cho nó mạnh nên, yếu đi hoặc biến hóa, sau đó căn cứ vào đó để suy luận, phán đoán có thể xảy ra chuyện gì, từ đó tìm ra phương thức để hóa giải.

(Tử vi đẩu số Trung Châu vận đoán – Vương Đình Chi)

Đăng bởi: Phật Giáo Việt Nam

Chuyên mục: Học tử vi

Xem thêm Lịch sử hình thành và phát triển của tử vi đẩu số

Tử vi đẩu số là một môn thuật số bắt đầu phát triển từ thời Bắc Tống, tiền thân của nó là Thập bát phi tinh. Bối cảnh kích thích sự thịnh hành của môn thuật số này là do sự cạnh tranh giữa phái Ngũ tinh và Tử Bình.

Thuật số vốn dĩ là sự suy đoán về lộc mệnh của thời kỳ cổ đại, phái Ngũ tinh rất thành công trong lĩnh vực này. Họ đã căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người, trước tiên sắp xếp thành can chi của bát tự, sau đó căn cứ vào bát tự để tính toán Ngũ tinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ đến hành độ của Thái dương, Thái âm, phân bố ở 12 cung vị, gọi chung là Thất chính. Ngoài ra, họ còn căn cứ vào cung độ của 28 vị tinh tú với Tử khí, Nguyệt bột, La hầu (Tứ dư) để tính toán, suy đoán lộc mệnh của một người. Loại thuật số này gọi là Thất chính Tứ dư.

Do công thức tính toán thiên văn học thời kỳ cổ đại chưa chuẩn xác, thời gian dài sẽ biến thành sai cung lệnh độ, bởi vậy sau này mặc dù có sự hưng thịnh của phái Cầm Đường, dùng centimet để tính toán (lượng thiên xích), cho đến việc sáng tạo ra phương pháp suy đoán mới của sự hội hợp các sao, nhưng vẫn không giúp ích cho việc cúng tế, kết quả là phái Tử Bình vẫn chiếm ưu thế.

Phái Tử Bình đã lấy Ngũ tinh để thay đổi cách tính toán thuật số mà phát minh ra môn thuật số, nó ra đời từ thời Đường. Phương pháp suy đoán của phái này vẫn căn cứ bát tự can chi của một người như giờ, ngày, tháng, năm của một người, gọi là Tứ trụ, sau đó căn cứ vào âm dương Ngũ hành, sinh khắc chế hóa, hình sung hợp hại, tam hợp lục hợp, tung thần chư sát của bát tự để suy đoán lộc mệnh, tiếp theo không cần để ý đến sự phân bố của 12 cung.

Thuật số phái Tử Bình hưng thịnh từ thời Tống, trải qua sự phát triển của các văn nhân, đến nay đã thu được thành tựu rất lớn, đặc biệt là bản chú sớ Trích thiên tủy của Lưu Bá Ôn thời Minh truyền lại, đã đưa môn thuật số phát triển thành triết lý, tướng quốc Trần Tố Yêm thời Thanh đã kế thừa và biên soạn thành cuốn Mệnh lý ước ngôn, cho nên đã xác lập nên địa vị của phái Thư phòng, phái Thư phòng cùng với phái Giang hồ là hai trụ cột của thuật số Tử Bình.

Kỳ thực, phái Giang hồ không phải là không có ưu điểm, kinh nghiệm thực tế của phái Giang hồ chiếm ưu thế hơn phái Thư phòng, bỏi vậy lý luận tuy có khác nhưng cách suy đoán vẫn chuẩn xác. Một số khẩu quyết được truyền qua các đời như: “Nhật tọa tỉ kiên phùng tỉ kiếp, tất nhiên tam độ tác tân lang”, “Quý Thủy sinh nhân dụng Mậu cung, thiếu niên định giá bạch đầu phu” tất có tính chuẩn xác. Những khẩu quyết này, phần nhiều là do tích lũy kinh nghiệm thực tế mà đúc kết thành. Cho nên, phái Thư phòng tuy được văn nhân học sỹ đề cao, nhưng phái Giang hồ vẫn có thế đứng vững chắc. Đối với sự phát triển của khoa học, lí luận ngày càng có nhiều thay đổi, nhưng kinh nghiệm vẫn là cơ sở thực nghiệm của lý luận.

Tiền thân của Tử vi đẩu số là sự thịnh hành của Thập bát phi tinh, là loại lấy thực nghiệm suy đoán tính mệnh làm cơ sở. Cấu trúc nguyên thuỷ của nó là khắc phục khuyết điểm không chuẩn xác của cung độ Ngũ tinh, lấy sao Bắc cực làm chủ, lấy đó làm tiêu chuẩn tính toán. Nét đặc sắc của nó là làm như thế nào mà phát hiện ra ảnh hưởng của sao Bắc cực đối với sự vận hành của trái đất là 0°, tức là lấy phương pháp quan sát trên mặt đất để lý giải, sao Bắc cực thường không quay, chỉ có cán sao theo 4 mùa xuân, hạ, thu, đông chỉ 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, các sao khác quay quanh sao Bắc cực, mỗi vòng quay tức là 1 năm.

Tên gọi của sao Bắc cực trên thực tế rất da dạng, có khi gọi là Tử vi, có khi gọi là Thái ất, lấy quan điểm thiên văn học ngày nay mà nói, những tên gọi đó đều không chính xác, nhưng ở thời kỳ Tống Nguyên, cách gọi như thế đã rất thịnh hành. Cho nên, thuật số về sao Bắc cực vẫn hòa nhập với yếu tố khác mà lưu hành, có Thái ất số tính toán sự vận hành của trái đất, có Tử vi đẩu số suy đoán số mệnh của con người. Ban đầu lấy Thập bát phi tinh làm mô thức, tức là lấy sao Tử vi làm chủ, sau đó lập nên 18 sao giả, rồi lại an sao, dùng đó để suy đoán lộc mệnh của con người.

18 sao giả là: “Thiên hư, Thiên quý, Thiên ấn, Thiên thọ, Thiên không, Hồng loan, Thiên khô”, Thiên quan, Văn xương, Thiên phúc, Thiên lộc, Thiên trượng, Thiên dị, Mao đầu, Thiên nhẫn, Thiên diêu, Thiên hình, Thiên khốc. Nó đều có nguồn gốc từ Ngũ tinh, có sao lấy ra từ tung thần chủ sát của các nhà trạch nhật (lấy ngày), có sao chỉ là mượn tên sao.

Do đó, ngoài sao Tử vi, 18 sao đều có phù hiệu, cho nên môn thuật số suy đoán tính mệnh Thập bát phi tinh thiếu tính lý luận, chủ yếu dựa vào thực tiễn, nhưng trong thực tiễn lại căn cứ vào tính toán để thay đổi phương pháp tính toán của mình. Cách làm này giống với phái Tử Bình, Giang hồ, rất coi trọng thực tiễn và tính toán.

Ban đầu lý luận và phương pháp của Thập bát phi tinh rất đơn giản, tuy sau này trong thực tiễn đã lập nên phương pháp suy đoán Tam phương Tứ chính, nhưng có hai điều hạn chế, khiến cho môn thuật số này không ngừng thay đổi. Hai điều hạn chế là:

Thứ nhất, 12 cung của Thập bát phi tinh lấy ra từ Ngũ tinh mà sắp xếp thành các cung: Cung Mệnh, cung Tài bạch, cung Huynh đệ, cung Điền trạch, cung Tử nữ, cung Nô bộc, cung Phu thê, cung Tật ách, cung Thiên di, cung Quan lộc, cung Phúc đức, cung Phụ mẫu (tướng mạo). Như thế  mà nói, cấu trúc Tam Phương Tứ Chính rất không hợp lý. Ví như, cung Mệnh đối với cung Phu Thê, cung Tử Nữ với cung Thiên di ở tam phương, tức là quá coi trọng quan hệ gia tộc. Cung Huynh đệ đối với cung Thiên di, cung Phu thê hội với cung Phúc đức, càng khó luận giải quan hệ giữa mọi người.

Sáng lập ra Tử vi đẩu số, là sự cách tân rất lớn của Thập bát phi tinh. Nó thay đổi tuần tự sắp xếp của 12 cung, đặt lại tên cho cung vị, ví như bỏ tên gọi của cung Tướng mạo mà gọi thành cung Phụ mẫu, làm cho tinh bàn có đầy đủ các cung của lục thân, đồng thời mỗi Tam phương Tứ chính đều tổ hợp thành một mối quan hệ mật thiết (vấn đề này, chúng ta bàn luận về tính chất của 82 cung, đến nay vẫn còn tranh cãi), thêm vào tổ hợp tinh diệu là rất rộng, đặc biệt lập ra công thức mỗi năm, mỗi đại hạn, thậm chí tuân theo Thiên can của từng giờ để thay đổi và biến hóa. Tử vi đẩu số từ triều Nam Tống khởi lập qua thời Nguyên đến đầu thời Minh đã phát triển rất thịnh vượng, trở thành hệ thống suy đoán lộc mệnh đủ mạnh để cùng với phái Tử Bình song hành. Thâm chí có thể nói, trên phương diện suy đoán vận số, Tử vi đẩu số vượt xa phái Tử Bình. Nói một cách khác, phái Tử Bình suy đoán tài vận rất tốt, nhưng Tử vi đẩu số vượt xa hơn có thể suy đoán và thu được kết quả của bất cứ tài vận gì, có thể xem được năm nào đắc tài và phương thức gì có được tiền tài, là do phán đoán Tài bạch tích tụ và tiêu tán.

Suy đoán chi tiết này cơ bản do tính toán tổ hợp của các sao trong 12 sao, lại thêm sự hội hợp của các sao phụ, tá, sát, hóa, khiến cho nó mạnh nên, yếu đi hoặc biến hóa, sau đó căn cứ vào đó để suy luận, phán đoán có thể xảy ra chuyện gì, từ đó tìm ra phương thức để hóa giải.

(Tử vi đẩu số Trung Châu vận đoán – Vương Đình Chi)

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button